MƯỜI BÀY
Chúng tôi quyết định dành kỷ niệm ngày cưới cùng Chink ở Cologne, và cả hai lên tàu xuôi sông Rhine để gặp cậu. Thời tiết lúc đó vẫn còn rất ấm áp, ngày dài và dễ chịu, và khi gặp Chink, cả ba chúng tôi đều rất vui vẻ bên nhau. Cậu làm chúng tôi vui, chúng tôi làm cậu vui, và Colgne thì đẹp tuyệt.
Một chiều tôi đang nằm ngửa trên cỏ ngắm Ernest và Chink câu cá. Ernest Ernest với vào túi đồ lề đặt cạnh anh trên bờ, rút ra một chai vang trắng ướp lạnh rồi dùng răng mở nút bần. Tay kia anh giữ cần, sợi dây câu quăng xa xa, vùng nước xung quanh nó chuyển động thành những vòng xoáy lăn tăn. Gió nhè nhẹ, và phấn hoa vàng bay thành từng đám nhỏ, từ lùm cây rơi lây phây xuống chúng tôi.
“Trông hai người như bước ra từ trong tranh vậy,” tôi ngước lên nhìn họ, nói.
“Chúng ta có người hâm mộ kìa,” Ernest bảo Chink.
Tôi ngồi dậy, bước ra chỗ Ernest và quan sát anh thật kỹ trong vài phút.
“Chỉ cho em cách câu đi,” tôi nói.
“Chán nằm ngưỡng mộ rồi à?”
“Chưa đâu.” Tôi cười. “Nhưng em muốn thử.”
“Thế thì được thôi.”
Anh đứng sau tôi trên bờ cỏ mềm và chỉ cho tôi cách quăng cần. Tôi vung tay ra sau rồi tới trước thành một đường vòng cung mượt mà, như lời anh chỉ, và xoay xở thả ống cuộn một cách hoàn hảo. Sợi dây trôi vào dòng nước mượt như mơ.
“Cảm giác tuyệt thật,” tôi nói.
“Đó là cách chị biết được mình vừa thả câu đúng,” Chink nói.
“Giờ thì thế nào nữa?”
“Giờ thì em chờ đợi,”
Ernest nói, rồi đi ra chỗ hộp để cần. Thậm chí trước cả khi anh đến nơi tôi đã cảm thấy dây câu hơi giật giật, rồi lại một cú giật khác mạnh hơn. Bản năng mách tôi kéo lên, thế là lưỡi câu mắc vào. Tôi có thể cảm thấy con cá đang vật lộn với nó.
“Ê này,” Chink vừa nói vữa dõi theo. “Cô ấy cừ thật.”
Ernest vội vã chạy về giúp tôi giật con cá hồi lên, sau đó con cá đã nằm trên cỏ, màu nâu nhạt có đốm.
“Em thấy hơi thương hại nói,” tôi nói.
“Nếu muốn chị có thể ném trả nó lại,” Chink nói,
“Còn lâu cô ấy mới làm thế,” Ernest phá lên cười, nói.
“Không, em muốn ăn nó. Em muốn biết khi ta tự tay bắt được cá thì nó có vị khác không.”
“Hay lắm,” Ernest nói. “Em biết không, có khác đấy.”
“Em cũng nghĩ vậy.”
“Cô nàng này có bản năng sát thủ đây,” Chink nói, và cả ba chúng tôi cùng cười.
“Chắc em cái gì cũng biết quá,” Ernest nói sau đó, khi tôi đã giật được ba con cá hồi, con này nối con khác. Anh chỉ tôi cách làm ruột cá và rửa kỹ dưới suối để nấu nướng.
“Em không thấy ghê đâu,” tôi nói khi chúng tôi làm việc ấy.
“Anh biết. Nhìn em là anh thấy mà.”
Chúng tôi xiên que nướng ba con cá tôi câu được trên ngọn lửa, cùng với nửa tá nữa mà Chink và Ernest đã bắt được.
“Em thích mấy con của em nhất,” tôi vừa nói vừa liếm muối trên đầu ngón tay.
“Anh cũng thế,” Ernest nói, rồi mở một chai vang khác trong lúc bầu trời dịu lại và chiều dần buông.
Không khí của chính thành Cologne thì hỗn loạn hơn. Tại Đơn vị Đồn trú Anh quốc, nơi Chink mới đến đóng quân, một đám đông giận dữ đã phá hỏng tượng Wilhelm II cưỡi ngựa, giật đổ thanh gươm sắt khổng lồ và đập vỡ hai bên đinh thúc ngựa. Những kẻ gây rối khác đã giết chết một viên cảnh sát Đức khi dồn anh ta xuống sông rồi tách tay anh ta khỏi thành cầu khi anh ta đang cố bám lấy để giữ mạng. Nhìn từ xa, thành phố trông như bước ra từ truyện cổ tích với những ngôi nhà ngói đỏ và dân làng mặc quần soóc da có dây đeo, nhưng cũng hệt như phần còn lại của nước Đức bị Đồng minh chiếm đóng, nơi này đang chìm trong tình trạng rối ren tột độ.
Vài ngày sau, vào 14 tháng Chín, chúng tôi đang ngồi trong một quán cà phê tranh thủ đọc báo thì biết tin thành phố cảng Smyrna của Thổ Nhĩ Kỳ đang bốc cháy. Cuộc chiến Hy Lạp — Thổ Nhĩ Kỳ đã diễn ra ác liệt trong ba năm trời, kể từ sau khi sự phân chia lại Đế quốc Ottoman châm ngòi chiến tranh, nhưng xung đột cuối cùng đã bùng nổ bằng trận cháy này. Không ai biết bên nào phải chịu trách nhiệm. Hy Lạp đổ riệt cho Thổ Nhĩ Kỳ và ngược lại, điều duy nhất rõ ràng là kết cục bi thảm. Cảng biển bị châm lửa đốt bằng dầu hỏa, cũng như nhiều khu dân cư Hy Lạp và Armenia khác trong thành phố. Mọi người đổ xô ra khỏi nhà chạy xuống phố. Hàng chục người chết chìm ở cảng, những người khác bị ngọn lửa nuốt trọn ngay tại chỗ. Những kẻ lánh nạn vội chạy trốn lên đồi. Ngồi trong quán ăn bữa trưa ngon lành, chúng tôi cảm thấy mình đáng bị trừng phạt biết bao vì đã không ý thức nhiều hơn về cuộc xung đột ấy.
“Chắc tôi sẽ sớm đến đó,” Chink cất lời. Nét mặt cậu nghiêm lại.
“Có lẽ tôi cũng thế,”
Ernest nói, và tôi cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy khắp người.
“Anh không thật tâm nghĩ vậy đâu,” tôi nói.
“Anh cũng không biết nữa. Có thể lắm chứ.”
“Tôi vẫn luôn muốn ngắm nhìn Istanbul,” Chink bảo.
“Nhưng cái tên Constantinople nghe vẫn hay hơn,” Ernest nói. “Hoặc là Byzantium.”
“Phải đấy,” Chink tán thành. “Chẹp, dù tên là gì thì giờ nó cũng đang ngập trong phân, không phải sao?”
Trở về Paris, chúng tôi thậm chí còn chưa kịp dỡ đồ thì một bức điện tín từ tờ Star đã gửi đến cho Ernest. John Bone điều anh đi Thổ Nhĩ Kỳ tường thuật về cuộc xung đột, đúng như anh đã ngờ vực. Anh sẽ đi trong ba ngày nữa. Anh chỉ vừa mới đọc lên cái tin ấy thôi, cái phong bao vừa xé còn trong tay, là tôi đã cảm thấy mình suy sụp.
“Sao thế?” Ernest hỏi khi thấy mặt tôi sa sầm. “Sẽ không lâu đâu. Sẽ giống như Genoa thôi mà, y như vậy. Rồi anh sẽ lại về nhà và mình lại ở bên nhau.”
Nhưng tôi chưa từng kể cho anh tôi đã buồn phiền đến thế nào khi anh đi Genoa, rằng mỗi ngày thiếu vắng anh chẳng khác nào một trận chiến của tôi với chính bản thân mình.
“Em không muốn anh đi,” tôi nói.
“Gì cơ?”
“Hãy bảo họ rằng anh không đi được, rằng em bị ốm.
“Em đang cư xử rất vô lý đấy.”
“Nhưng thực ra lại có lý, anh không thấy sao? Em nói thật đó, ít nhất là lần này.”
“Không, em đang xử sự rất trẻ con. Đây chỉ là cơn thịnh nộ trẻ con thôi, anh muốn em ngừng ngay cái kiểu ấy lại.”
Thế là tôi bèn bật khóc, và đấy chính là hành động tệ hại nhất; anh ghét nước mắt.
“Làm ơn thôi đi,” anh nói. “Chúng ta vừa có một khoảng thời gian tuyệt vời ở Cologne, không phải à? Sao chúng ta không thể vui vẻ được nhỉ?”
“Đó là tất cả những gì em muốn,” tôi nói, nhưng nước mắt vẫn cứ túa ra. Tôi mở va li, rồi lại đóng lại, đi vào bếp để đun nước pha trà. Tôi cứ tưởng anh đã vào phòng ngủ nhưng anh vẫn ở đó, ngay đằng sau tôi, đi đi lại lại.
“Nó quá xa xôi,” cuối cùng tôi lên tiếng.
“Thì chính thế mà, không phải sao? Ta đâu có muốn chiến tranh kề sát cổ chứ.”
“Chúng ta không thể cứ thế giả vờ rằng bức điện chưa bao giờ đến được sao?”
“Không, không thể.” Lúc này mặt anh thoắt đanh lại, vì tôi đang yêu cầu anh chọn tôi mà bỏ công việc. “Trà cháo cái quái gì nữa,” anh gắt, nhưng tôi vẫn làm tiếp, tôi đong lá chè cho vào ấm rồi rót nước qua rây lọc bằng sứ. Anh đi đi lại lại đằng sau tôi trong căn bếp tí hin, chờ tôi xin lỗi. Cuối cùng, khi tôi chẳng xin lỗi mà cũng chẳng quay lại, anh lao ra khỏi nhà.
Tôi biết anh lại ra quán cà phê. Tôi đã có thể dễ dàng tìm ra anh và rồi có lẽ mọi chuyện sẽ ổn thỏa cả, nếu tôi đi tìm. Chúng tôi có thể uống brandy pha nước và đồng ý cho qua mọi chuyện. Hoặc giả gọi bồi bàn mang tới món rượu absinthe rồi để nó xóa nhòa mọi thứ một cách tuyệt đẹp. Nhưng tôi vẫn ở nguyên một chỗ, uống tách trà chết tiệt, dù tôi thậm chí còn chẳng thèm thuồng gì.
Đến lúc Ernest quay về, tôi đã ngà ngà và đang giả vờ ngủ. Tôi đã thôi không uống trà nữa mà lôi một chai whiskey ra. Tôi chẳng ăn gì mà chỉ nốc rượu, mấy ly liền, uống nóng luôn không thèm pha nước. Khi đã đủ say để có can đảm, tôi cầm cái ấm sứ xinh đẹp đã đi cùng hai đứa bấy lâu nay rồi thả nó xuống sàn vỡ choang. Tôi định cứ để các mảnh vỡ ở nguyên đấy cho anh thấy, nhưng khi làm xong, tôi thấy hành động ấy quá nhỏ mọn và con nít — một cơn thịnh nộ trẻ con, như anh đã nói. Tôi căm ghét những khi mình cảm thấy tuyệt vọng và mất kiểm soát như thế, nhưng đồng thời dường như cũng không thể kiềm chế được. Tôi nhặt nhạnh đống đổ vỡ, mỗi lần một mảnh ướt nhoẹt, rồi cho vào một túi giấy nhỏ. Rồi tôi lên giường. Đầu tôi quay mòng mòng trên gối, nhưng tôi nhắm mắt và cố thở thật chậm lại. Rất lâu sau tôi mới nghe thấy tiếng anh trên cầu thang, rồi vào phòng ngủ.
“Hadley,” anh nói, ngồi cạnh tôi trên giường. Anh khẽ chạm vào mặt tôi, cổ tôi, nhưng tôi không cử động. “Mình đừng làm thế này nữa, Mèo Lông Vũ à.” Tôi khép chặt mắt lại để nước mắt khỏi trào ra và cố vờ như đang ngủ. Nhưng anh biết tôi còn thức.
“Chết tiệt,” anh nói khi tôi không chịu mở mắt hay trả lời anh. Anh đẩy vai tôi một cái thật mạnh. “Đó là công việc. Em biết là anh buộc phải đi mà.”
“Anh không buộc phải đi. Anh muốn đi.”
“Quỷ tha ma bắt em đi,” anh kêu lên, rồi bỏ đi ngủ ở một chỗ khác.
Đêm hôm ấy có lẽ anh quay lại phòng làm việc ở rue Descartes hoặc ngủ trên băng ghế trong sàn khiêu vũ dưới nhà. Tôi cũng không biết nữa. Anh không về nhà cho đến tận chiều hôm sau, rồi đi vào để xếp đồ và sắp đặt vài cuộc hẹn. Anh đi quanh nhà, ném thứ này thứ kia vào túi, thu gom mấy cuốn sổ ghi chép.
“Đây là cách chuyện sẽ diễn ra đấy phải không?”
Tôi chăm chăm đưa mắt ra ngoài cửa sổ nhưng không nhìn gì cụ thể cả.
“Em đã bảo em sẽ không bao giờ làm thế này cơ mà.”
Anh nói đúng. Hết lần này đến lần khác tôi đã thề sẽ không bao giờ ngáng trở công việc của anh, nhất là hồi mới bắt đầu, khi tôi coi sự nghiệp của anh như của chính mình và tin rằng nhiệm vụ của tôi, thậm chí định mệnh của tôi, là giúp đỡ anh khắc tạc một lối đi. Nhưng tôi ngày càng hiểu ra rằng tôi không biết những thề thốt đó thật sự có ý gì. Một phần trong tôi muốn anh cũng buồn bực như tôi. Có lẽ khi ấy anh sẽ từ bỏ và ở lại.
Nhưng anh không ở lại. Chúng tôi không nói năng động chạm gì đến nhau trong ba ngày, và khi anh đi, ngày 25 tháng Chín, anh quá tổn thương và nóng giận đến độ tôi gần như không chịu nổi khi nhìn vào anh. Tôi đứng ở cửa nhìn anh vật lộn với đống túi trên cầu thang. Trên đường đi xuống, anh đánh rơi cái va li chứa chiếc máy chữ Corona. Nó rơi xuống rất mạnh, nảy lên một tiếng loảng xoảng, rồi lại rơi tiếp. Anh giận dữ đá nó một cú trước khi xách lên. Khi đến cửa ở chân cầu thang, anh đá cả cửa, rồi sau đó tôi không còn nghe thấy gì nữa.