← Quay lại trang sách

MƯỜI TÁM

Có lẽ là do cơn sốt rét đang chọc thủng tác dụng của viên ký ninh mà mọi thứ cứ vàng vọt đến kỳ cục. Con đường dài cỗ màu vàng đất son trần trụi và nén chặt, dãy núi phía xa thì đậm màu hơn. Có một dòng sông, Maritza, nó chảy nhanh và xiết vì trời đã mưa năm ngày trời, và cả cơn mưa nữa, cũng có màu vàng.

Từ khi rời khỏi Paris, anh ngủ không ngon lắm, và điều này khiến cho việc đi trong màn mưa có vẻ khó khăn hơn. Không có điểm dừng nào cho cả hai thứ, cơn mưa hay việc đi bộ. Hàng đoàn người tị nạn trào lên như sóng, đổ vào đường Karagatch. Họ chất lên xe thồ đủ mọi thứ mà họ không thể chịu đựng nổi nếu bỏ lại, ấy là những người có xe thồ, những kẻ còn lại thì chằng dây với nhau thành bó rồi vác những cái bó khác, hoặc bế trẻ con. Trẻ con thì mang vác tùy sức và khóc ré khi trở nên quá mệt mỏi hoặc sợ hãi. Ai nấy đều sợ hãi và ướt nhoẹt, mà mưa thì cứ mãi không dứt.

Anh ở đây để làm nhân chứng, anh hiểu điều đó, bởi vậy anh bắt mình phải nhìn mọi thứ và không quay đi trước bất cứ cảnh tượng nào, dù nhiều điều anh thấy khiến dạ dày anh muốn nôn mửa. Đây là lần đầu tiên anh nếm mùi chiến tranh kể từ sau khi anh tham gia cuộc chiến ấy, và chỉ riêng điều đó thôi đã khởi sự một cơn run rẩy kinh khiếp trong anh hai ngày đâu. Cơn run giờ đã qua rồi. Anh đã buộc nó phải lùi bước và giờ đã có thể làm điều mà anh tới để làm.

Dọc theo đường Karagatch, anh nói chuyện với nhiều người mới từ Smyrna đến, họ đã chứng kiến đám cháy ở đó và cả những điều còn tồi tệ hơn. Một anh chàng mặt đỏ bè bè đã chứng kiến chị mình chạy xuống bến, la hét và bốc cháy đến tận ngọn tóc. Một ông khác thì băng bó từ tay tới vai, miếng vải bẩn thỉu ướt đẫm, và kể cả trong mưa ta cũng ngửi thấy mùi hoại tử, một thứ mùi ngòn ngọt như mùi hạnh nhân rang. Ồng ta nói qua phiên dịch, kể rằng đã trốn dưới cầu cảng Smyrna trong gần một ngày một đêm, có lúc nước dâng tới ngực. Chính đám hà bám dưới chân câu cảng đã cứa đứt bàn tay và cánh tay ông ta khi thủy triều lên đẩy ông ta vào chỗ vỏ cứng.

“Có đèn pha rọi ở cảng,” người đàn ông kể. “Và anh không muốn thấy những thứ trôi nổi ở đó đâu, khắp xung quanh.”

Cuối cùng ông ta ra khỏi nước, tìm thấy gia đình mình và đưa họ tới đường này, như rất nhiều người khác. Ồng ta bị thương sâu hoắm ở vài chỗ trên người, nhưng không chảy máu. Ông ta đã tưởng muối sẽ trị thương và ông sẽ khỏe mà không cần tới bác sĩ phẫu thuật.

“Như anh cũng thấy, tôi không khỏe,” người đàn ông nói qua thông dịch viên, và tiếp tục đi.

“Vâng, ai cũng có thể thấy điều đó,” Ernest nói.

Họ đi cạnh một cỗ xe kéo bởi duy nhất một con bò đực to tướng ướt đầm nước mưa, và trong xe vợ ông ta đang lâm bồn. Chăn đệm trên xe ướt đẫm, có một tấm chăn khác được căng thành lều, nước nhỏ tong tỏng, do hai đứa con giữ phía trên trong lúc mẹ chúng rặn đẻ. Một bà già cúi lom khom giữa hai đầu gối người phụ nữ trong khi lũ trẻ cố nhìn đi chỗ khác, và Ernest thấy buồn nôn khi phải chứng kiến cảnh này, phải nghe tiếng hét của người phụ nữ, có hét cũng chẳng ích gì, cho đến khi đứa trẻ ra đời, mà có khi ngay cả lúc đó cũng vô ích mà thôi.Người đàn ông vẫn đi tiếp, mắt nhìn tới trước qua màn mưa và nói, “Vợ tôi biết tôi là một thắng chết nhát. Tôi trốn dưới cầu tàu. Tôi đã định bỏ rơi cả nhà.”

Ernest gật đầu rồi nhìn lên thì thấy họ sắp tới một cây cầu bắc ngang qua con sông, một cấu trúc bằng gỗ trông mượt mà nhưng đủ chắc chắn cho toàn bộ trọng lượng mà nó phải gánh, xe thồ, bò, lạc đà, những cơ thể nhồi nhét bên trong không còn chỗ để động cựa ra trước hay về sau.

Xa xa, phía trên mái đầu của những con người sống ấy, anh thấy những ngọn tháp trắng đẹp đẽ của một đền thờ Hồi giáo, vươn lên từ đám ô uế rác rưởi màu vàng, tách biệt khỏi những thứ rất thực đang diễn ra dưới con đường kia, bùn đất và tiếng la hét và kẻ hèn nhát và cơn mưa. Trong túi áo khoác của anh có nhét một cuốn sổ màu xanh gập làm đôi cùng hai cây bút chì. Giấy đã sũng ướt, anh biết mà không cần phải kiểm tra, nhưng dù sao anh cũng không thể viết về bất cứ chuyện gì như thế này. Tối nay anh sẽ gửi bài tường thuật đi từ khách sạn, nếu nó chưa trôi tiệt theo cơn mưa. Còn bây giờ, anh chỉ có thể bắt mình nhìn mọi thứ, không run rẩy, không quay đầu.

Một tuần đã trôi qua mà anh vẫn cảm thấy như thể mình chưa từng ở đâu khác ngoài nơi đây. Đó là một trong những điều chiến tranh gây ra cho ta. Mọi thứ ta nhìn thấy đều nỗ lực thay thế những khoảnh khắc và con người trong cuộc sống của ta trước đó, cho đến khi ta không nhớ nổi những thứ ấy, những người ấy có gì quan trọng. Dù không phải lính chiến cũng chẳng ích gì. Tác động vẫn y hệt.

Anh ngủ trên một cái giường xếp trong khách sạn ở Adrianople, quấn mình trong một cái chăn bẩn thỉu, khắp người lở loét vết rận cắn. Ban ngày anh dành thời gian nói chuyện với dân tị nạn, viết rồi gửi bài tường thuật về tờ Star và Sở Tin tức Quốc tế dưới bút danh John Hadley. Đôi khi anh quá mệt mỏi nên gửi cùng một câu chuyện những hai lần. Anh mặc kệ; cứ để họ sa thải anh. Trước hết họ phải tìm được anh đã, mà anh thì ở nơi vô định.

Khi đêm xuống, anh tới một quán bar, ở đó có một cô gái Armenia da đen, dưới mắt có quầng thâm sì, mặc một cái váy sặc sỡ thắt dây ở eo. Anh có thể thấy hình dáng bầu ngực cô dưới lớp vải, anh muốn chạm vào cô, và chuyện lại thành ra quá sức đơn giản. Một gã khác đi đến, một tên lính Anh, đặt tay lên eo lưng cô gái và cô mỉm cười. Chính lúc đó Ernest nổi cáu đấm tên lính. Không hẳn là anh định làm thế. Anh chỉ biết mình cần phải làm gì đó nếu muốn có cô gái này. Họ sẽ không bao giờ tự đến với ta, mà sao ta lại muốn họ làm thế chứ? Anh cảm thấy nắm đấm của mình như nối liền với hàm tên lính kia, và bộ hàm hắn bật tung như lò xo. Chính bản thân anh thì lại chưa cảm thấy gì. Tên lính khụy một bên gối xuống, rồi đứng dậy rất nhanh, mắt hắn sáng lên và mở to. Hắn thình lình nhào tới, nhưng không đủ nhanh hoặc đủ thấp. Lần này Ernest đấm vào bụng hắn và cảm thấy hơi thở hắn vỡ vụn quanh tay anh.Cô gái hét lên gì đó anh không hiểu, nhưng nghe có vẻ như là “Đủ rồi.” Anh nắm tay cô và họ ra khỏi đó. Bên ngoài có một chiếc taxi, họ đi tới phòng cô mà không nói một lời. Sau cánh cửa, cô tháo dây váy, rồi với lấy thắt lưng của anh. Anh đẩy tay cô ra. Anh sẽ tự mình làm tất cả, dù bàn tay phải anh đang chảy máu. Anh ngồi trên một cái ghế gỗ nhỏ, kéo cô xuống lòng mình và cảm nhận cô dạng hai chân qua người anh vừa thô ráp vừa mềm mại làm sao. Anh là người điều khiển cô, như thể cô là búp bê, và anh biết nó phải diễn ra theo cách này, vì làm thế khiến anh có cảm giác rằng mình sẽ không chết, ít nhất là đêm nay. Anh rên lên khi kết thúc, và lần đầu nó kết thúc rất nhanh. Anh ở lại cùng cô trên cái giường bẩn thỉu, và sáng hôm sau, anh để lại địa chỉ khách sạn của mình trên một tờ giấy xé từ sổ cùng hai đô la Mỹ. Anh nghĩ chắc mình sẽ không gặp lại cô nữa, nhưng nếu thế thì cũng không sao. Anh sẽ có nhiều tiền tiêu hơn, và biết đâu nếu gặp lại cô, anh sẽ không cảm thấy quá buồn nôn nữa, như anh bây giờ, có lẽ như thế thì tốt hơn, có lẽ như thế sẽ hàn gắn được điều gì đó.

Anh đi ra phố, vẫn còn rất sớm và lạnh, và trời chưa bắt đâu mưa lại. Vừa đi bộ về khách sạn, anh vừa nghĩ. Giờ thì mày đã làm chuyện đó rồi phải không? Đã quá muộn để làm lại, mà dù sao thì mày cũng sẽ không làm khác đi. Mày cần ghi nhớ chuyện này, để dành khi mày thấy vợ và chỉ muốn chết vì đã làm tổn thương nàng. Hãy nhớ là không ai bắt mày phải làm gì cả. Không bao giờ có ai, mà chính mày, đã làm mọi chuyện, và chỉ riêng lý do đó thôi cũng đủ để mày không nên lấy thế làm buồn.

Trời lại mưa tiếp, một cơn mưa phùn rất nhỏ thấm qua lần vải áo vải quần anh. Anh cảm giác những tòa nhà nhỏ dọc con đường lầy lội như đang đổ dồn về phía mình, và rồi một lần nữa, cái ý nghĩ rất thật ấy lại xuất hiện, rằng không có thế giới nào khác ngoài thế giới này. Quan trọng cái nỗi gì khi mày biết việc mày lang chạ với kẻ khác sẽ giết chết vợ mày, nếu thực ra mày không có vợ? Mày cũng chẳng có Paris, hay bất cứ thứ gì khác. Mày có thể gặp lại cô gái da sẫm màu kia lắm chứ. Mày cũng có thể tự hủy hoại và khiến bản thân mày phát buồn nôn lộn mửa với tất cả những việc mày làm lắm chứ, bởi vì chỉ có duy nhất một thế giới này thôi.