MƯỜI CHÍN
Anh đi rồi, ngay lập tức tôi thấy buồn, thấy có lỗi và căm ghét bản thân. Tôi nhìn chai whiskey trên giá và thậm chí còn cầm nó lên một lát rồi mới đặt xuống. Không phải trước bữa trưa. Làm thế thì tôi sẽ chẳng bao giờ qua được chuyện này. Thay vào đó tôi pha chút cà phê, bóc một quả cam và cố không nghĩ về việc anh đang ở trên tàu. Anh sẽ phải đi trong hai ngày, ít nhất là thế, rồi sau đó anh sẽ bước vào một thế giới khác, một thế giới nguy hiểm. Tôi chỉ còn biết hy vọng rằng anh sẽ được an toàn, rằng sợi chỉ kết nối chúng tôi đủ bền chặt để qua được sự phá hoại vừa rồi. Ngoại trừ hai tấm bưu thiếp chữ nguệch ngoạc gửi trước khi anh bước qua biên giới vào Thổ Nhĩ Kỳ, tôi không nghe được tin gì về Ernest khi anh đi nữa, và tôi đổ lỗi cho bưu điện vì không muốn nghĩ sự im lặng của anh còn có thể có ý nghĩa gì khác. Tôi đọc câu chuyện đầu tiên của anh trên tờ Star khi báo đến hai tuần trước, nhưng nghĩ ngợi quá cụ thể về những gì đang diễn ra ở đó — không chỉ bạo lực mà còn cả bệnh tật nữa, có vẻ như vậy, thổ tả và sốt rét ở tầm đại dịch — chỉ làm tình hình tệ hơn mà thôi, thế nên tôi đốt tờ báo rồi đi dạo.
Chiều nào Marie Cocotte cũng đến. “Cô cần ra khỏi giường đi thôi,” bà nói, rồi mang cho tôi một cái tạp dề để buộc quanh áo choàng ngủ. Chúng tôi cùng nhau làm *boeuf bourguignon, blanquette de veau' và ragu thịt đậu, (* Bò xốt rượu vang và ragu bê.), tất cả đều ngon lành, dù tôi không sao nuốt nổi.
Lewis Galantière ghé qua, ngồi bên cái bàn ăn xấu xí và cố kéo tôi ra quán Michaud.
“Có vẻ như chỉ riêng trong tuần này thì James Joyce đang làm cha của sáu đứa trẻ nữa. Bọn chúng ở đó cả, ngốn cả núi thịt cừu và phun sữa ra đằng mũi. Cứ bảo tôi rằng cô không cần tận mắt thấy cảnh ấy đi.”
Tôi miễn cưỡng cười rồi đi thay đồ, khoác áo, xỏ đôi giày lỗi mốt nhất của mình. “Nhưng mà mình đi vòng qua góc đường thôi nhé,” tôi nói.
“Không Michaud tối nay, được không?”
“Kẻ này là tôi tớ hèn mọn của bà, thưa bà.”
Tôi không kể với Lewis hay bất cứ ai khác rằng những chuyện không vui đã chen vào giữa chúng tôi. Tôi quá xấu hổ. Vào các buổi sáng, tôi viết thư, nói dối Grace và bác sĩ Hemingway rằng mọi chuyện đều tốt đẹp ổn thỏa. Tôi kể lể rằng công việc của Ernest với tờ Star trôi chảy thế nào, rồi sự nghiệp của anh đầy hứa hẹn ra sao. Tôi không nói mới đây anh đã quyết định phá vỡ hợp đồng độc quyền với họ và gửi các câu chuyện dưới bút danh cho Sở Tin tức Quốc tế. Toàn bộ việc này đã được đàm phán trong bí mật, đồng nghĩa với sự dối trá nhơ nhớp khi một chuyện nào đó gửi Sở Tin tức còn phát hành trước cả những “bài độc quyền” của anh cho tờ Star, nhưng anh tuyên bố vì tiền thì thế cũng đáng. Anh đã tự giải quyết với lương tâm mình. Tôi thì gặp khó khăn hơn với chuyện gian dối này, vì dường như nó nói lên một điều gì còn lớn hơn thế. Cái cách anh luôn vì bản thân mình, dù có phải trả giá thế nào. Nhưng cứ nghĩ theo hướng này cũng chẳng đưa tôi đến đâu cả. Chẳng đến đâu, mà chỉ quay lại với rượu, thế đấy, vậy nên tôi nén suy nghĩ của mình xuống cùng chồng thư và đi đến Musée du Luxembourge thăm các bức họa Monet. Tôi chăm chú đứng ngắm những bè hoa súng tươi sáng và sắc tím đáng yêu trên mặt nước, cố không nhìn vào bất cứ thứ gì khác nữa.
Ngày cuối tháng Mười, sáng sớm tinh mơ, Ernest bước xuống tàu ở Gare de Lyon, trông như thể vừa thất trận trở về từ một trận đánh khủng khiếp. Anh yếu ớt, kiệt quệ và bừng bừng sốt rét. Anh đã sụt mất hơn mười cân, thành thử tôi suýt không nhận ra anh. Anh bước tới vòng tay tôi và sụp xuống, rồi chúng tôi về nhà, ở đó anh dựa vào chậu rửa để tôi gội đầu cho anh, tóc anh lổm ngổm chấy.
“Em xin lỗi vì tất cả, Tatie à,” tôi nói khi mắt anh khép lại.
“Mình đừng nói gì về chuyện đó. Giờ nó không còn quan trọng nữa.”
Tôi lấy kéo cắt tóc anh sát đầu rồi bắt lũ chấy còn lại, từng con một, dùng đèn soi để nhìn cho rõ. Sau đó tôi thoa kem khắp người anh rồi giúp anh chui vào chăn ga sạch sẽ thơm tho, anh ngủ thiếp đi hai mươi tiếng đồng hồ. Khi anh thức dậy, tôi mang cho anh trứng, bánh mì nướng, thịt nguội và mù tạt, anh ăn hết với vẻ đầy biết ơn, rồi anh lại ngủ tiếp.
Suốt một tuần liền anh không ra khỏi giường, đôi khi tôi chỉ ngắm anh ngủ, và nhìn anh tôi biết anh đã phải chịu đựng theo những cách mà anh sẽ không thể kể lại, ít nhất là trong một thời gian dài nữa. Mối bất hòa giữa hai chúng tôi đã rất kinh khủng, và cả sự im lặng nữa, nhưng quãng thời gian anh ở Thổ Nhĩ Kỳ hóa ra đã đè lấp tất cả. Và có lẽ anh đã đúng khi nói nó không còn quan trọng nữa. Giờ anh đã ở nhà rồi, và chúng tôi lại bên nhau, và có lẽ mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả chừng nào chúng tôi còn không nghĩ về nó, không cho nó bất kỳ chỗ trống hay không khí nào để thở.
Sau một tuần, anh đã có thể ra khỏi giường, tắm rửa, thay đồ và gần như đã sẵn sàng gặp bạn bè. Anh tới chỗ túi đồ lề, bỏ sổ sách qua một bên để lấy ra các món quà cuộn trong giấy báo và hàng lớp vải. Anh mang về cho tôi một chai tinh dầu hoa hồng và cả một chiếc vòng cổ hổ phách nặng trịch hạt to thô ráp được xâu thành chuỗi cùng với san hô đen và bạc.
“Nó đẹp hơn bất cứ thứ gì em từng thấy,” tôi nói, tay nâng niu chiếc vòng.
“Nó thuộc về một nhà ngoại giao Nga cực kỳ quan trọng giờ đã chuyển sang nghề bồi bàn.”
“Em hy vọng anh đã trả ông ta kha khá để mua nó.”
“Anh đã, và còn chuốc cho ông ta say bết xê lết nữa,” Ernest nói, giờ anh đã gần như trở lại là chính mình.
Tôi chờ anh kể nhiều hơn về chuyện này, nhưng anh chỉ ngồi ở bàn uống cà phê và hỏi han về những tờ báo.
Tôi biết anh đã lại yêu tôi rồi; tôi có thể thấy điều đó. Bất chấp mỗi chúng tôi có nghĩ gì hay cảm thấy như thế nào về nhau trong những tuần xa cách thì thời gian đó giờ cũng chấm dứt rồi. Tôi mở lọ tinh dầu hoa hồng, nó có màu vàng sậm và thơm như hoa hồng thứ thiệt, một thứ toàn hảo. Theo một cách nào đó, không phải tìm kiếm hay sửa chữa một từ ngữ nào, phần tiếp theo trong câu chuyện của chúng tôi đã bắt đầu.