← Quay lại trang sách

HAI MƯƠI

“Cẩn thận đấy,” Ernest nói. “Em biết là em đang mời quỷ dữ vào nhà.”“Vậy sao?” Em biết mà.”“Ông ta có thể đến, chừng nào ông ta còn đến theo cách này, trong làn khói xanh.”(*)

Chúng tôi đang ở quán Select vói Pound và Dorothy, chúng tôi gọi cô là Shakespear. Pound vừa mói nhận vị trí biên tập ở một ấn phẩm văn học mói tên là Three Mountains và rất thiết tha muốn xuất bản một thứ gì đó của Ernest. Tối ấy chúng tôi đều trong trạng thái ngà ngà, mà trước đó tôi chỉ định uống một ly absinthe để ăn mừng thôi đấy.

“Phải làm từ từ thôi,” Pound nói.

“Thế sao?” tôi hỏi, nhưng hóa ra ông ta không nói với tôi mà với cậu bồi bàn đang rót nước lên một cục đường vào đồ uống của chúng tôi, thứ đồ cồn đó chuyển từ một màu xanh vàng trong trẻo đầy vẻ độc hại sang sắc trắng đùng đục khi nước nhỏ giọt vào. Ở Pháp lúc ấy absinthe đang là bất hợp pháp, và đã như thế nhiều năm rồi. Thuốc phiện cũng vậy, nhưng ta có thể tìm thấy cả hai ở mọi nơi trong cái thành Paris này nếu ta biết chỗ để tìm. Tôi yêu cái vị cam thảo thanh thanh và cái lối phối hợp giữa nghi thức với cục đường cùng chiếc thìa khoan lỗ đặc chủng phối hợp tạo thành những giọt mưa, giọt đường. Cậu bồi bàn của chúng tôi đang thực hiện nghi thức đó một cách hết sức duyên dáng, tôi nghĩ vậy, nhưng Pound đã giật lấy bình nước để tự làm lấy.

“Anh say rồi anh yêu,” Shakespear nói với ông ta bằng giọng thì thầm lịch thiệp.

“Tôi đang cố hình dung ra bà lúc say,” Ernest nói với cô. “Tôi cá bà không bao giờ đánh đổ dù chỉ một giọt.”

Cô cười. “Nếu thế thì chẳng qua là vì tôi không chạm đến absinthe thôi.”

“Đó là kẹo bạc hà và khói thôi mà,” tôi nói.

“Đến mai thì em sẽ ước giá như nó chỉ là như thế,” Ernest nói.

“Có thể, nhưng nó khiến mọi thứ giờ trở nên dễ dàng hơn, không phải vậy sao?”

“Đúng vậy,” Ernest đồng tình, cụng ly của tôi với ly của anh. “Bởi thế hãy uống đi, kệ xác ngày mai.”

“Nghe rồi, nghe rồi,” Pound nói, ngả người tới trước trong chiếc áo vét vải tuýt nhàu nhĩ và chống hai cùi chỏ lên bàn. Mỗi lúc tôi lại thêm quý mến ông ta — nhưng nói chung ai mà tôi chẳng quý. Tôi nghĩ có khi tôi còn yêu cả cậu bồi bàn ấy mất rồi. Cậu ta có bộ ria mép đẹp, không tỉa gọn và tinh khiết, tươi tắn như hoa. Tôi muốn chạm vào nó, muốn ăn nó.

“Anh nên để ria thế kia,” tôi nói với Ernest, tay chỉ một cách không tế nhị chút nào.

“Anh đang để mà, em yêu. Giống nhau cả thôi.”

Tôi nhìn thẳng vào anh. “Đúng vậy,” tôi nói. “Anh vừa mới ở đâu về thế?” Và chúng tôi cùng phá lên cười.

Sau đó, khi chuyển sang quán Dôme, Pound bắt đầu nói về nước Mý.“Tôi sẽ không bao giờ trở lại miền Trung Tây nữa,” ông ta nói, “thực ra là, tôi từ bỏ nó. Indiana toàn lũ bộ tịch và bọn ngu.”

“Ôi, lại chuyện cũ rồi,” Shakespear nói bằng giọng thì thầm nghe hay tuyệt của cô.

Tôi nhìn vào chiếc gương dài mờ khói, chạm lên mặt, rồi lên chiếc ly. “Em không cảm thấy gì hết,” tôi nói với Ernest. “Thật tuyệt phải không?”“Uống thêm ly nữa đi, Tatie,(* Cả hai vợ chồng Hemingway đều gọi nhau là Tatie.)” Ernest nói. “Em rất đẹp.”

Shakespear mỉm cười với chúng tôi, khóe miệng cong lên và đôi mắt cũng cười. “Hãy nhìn đôi tình nhân xinh đẹp của chúng ta kìa,” cô nói với Pound.

“Indiana luôn là một mảnh đất hoang về học thuật, các bạn nhớ cho điều ấy,” ông ta nói, rồi phả ra một vòng khói thuốc, nó cuộn tròn trước khi bị nuốt chửng bởi phần khói còn lại, cái vòng hào quang màu xanh lam ở khắp nơi, nhòa lẫn và mờ mịt. Tất cả chúng tôi đều đang hít vào thở ra thứ khói ấy.

“Tất cả những gì bọn họ có chỉ là nền tảng đạo đức cao vời vợi,” ông ta tiếp tục. “Ngoài ra không còn cái gì trong tầm với nữa. Tôi đã dạy học ở Wabash một cách vô ích. Thử hỏi đám trẻ đầu óc toàn chuyện ngô với lúa muốn nghe tôi huênh hoang về cái gì mới được? Không phải là Yeat, điều ấy thì chắc chắn rồi. Không phải thơ ca.”

“Cô nàng diễn viên ấy cũng là một bài thơ nho nhỏ đấy,” Shakespear nói.

“Cặp đầu gối tuyệt hảo nhất mà tôi từng thấy ở một người đàn bà,” Pound nói.

“Kể tiếp đi nào,” Ernest nói. “Tôi bắt đầu nóng ruột rồi đấy.”

“Tối hôm ấy trời mưa — trời lúc nào cũng mưa ở Indiana, nói một cách học thuật, mọi người hiểu không — và cô diễn viên ấy... tên cô ta là gì nhỉ?”

“Bertha,” Shakespear nói.

“Không phải Camille(* Camille Clifford (1885-1971): diễn viên sân khấu gốc Bỉ, nổi tiếng không phải vì tài năng mà vì vẻ đẹp với thân hình gợi cảm và vòng eo nhỏ xíu.) sao?” Ernest hỏi.“Không, không. Cô ta không nổi tiếng đâu. Mỗi cái điều không muốn bị ướt tóc thôi. Tóc cô ta rất đẹp. Tôi gợi ý đi ra ngoài ăn tối, nhưng rồi xuất hiện vấn đề là nếu ra ngoài thì sẽ bị ướt.”“Một trong những vấn đề tôi thích nhất,” Ernest nói.

Mọi người đều cười, rồi Pound kể tiếp, “Khi tin tức lộ ra rằng tôi đã tiêu khiển cùng cô nàng trong phòng tôi, tưởng đâu như tôi đã sát hại cô nàng không bằng, thay vì chỉ là quay một con gà.”

“Tội nghiệp Ezra,” Shakespear nói. “Hôm sau thì họ sa thải anh ấy.”

“Tội nghiệp quái gì. Nếu không sa thải thì anh sẽ vẫn ở Indiana dạy thơ với thẩn cho mấy thân cây ngô.”

“Và thi thoảng quay gà,” tôi nói.

“Kể cả gà què cũng không cứu rỗi ta khỏi Indiana được đâu,” Ernest nói.

Tối muộn hôm ấy, sau khi chúng tôi rời quán Dôme đến quán Ritz, Ernest và Pound bắt đầu thảo luận sôi nổi về công tội của Tristan Tzara(**) Pound cho rằng đám siêu thực chủ nghĩa có thể đạt được cái gì đó, có khả năng lắm chứ, nếu họ ngủ im lìm được đủ lâu. Ernest thì nghĩ họ là lũ đần và họ nên thức dậy đi thì hơn để tất cả chúng ta còn chuyển qua một thứ khác.

“Chỉ nghe hai người nói thôi mà tôi đã ngủ gà ngủ gật rồi này,” Shakespear nói, thế là hai chúng tôi chuyển qua bên kia phòng và ngồi ở một chiếc bàn nhỏ.

“Cô và Hem thật sự đẹp đôi đấy,” cô nói.

“Vậy sao?” cả tiếng đồng hồ vừa rồi tôi chỉ uống nước ấm, và cuối cùng thì tôi cũng cảm nhận được lưỡi mình.

“Tôi tự hỏi điều đó xảy ra thế nào. Y tôi là tình yêu ấy.” Cô chạm vào đường cong của mái tóc đến giờ này vẫn còn mượt mà hoàn hảo.

“Chị và Pound không có điều đó sao?”

“Ôi, không.” Cô phá lên cười, hắt ra một luồng khí nhè nhẹ. “Dẫu vậy, chúng tôi có thứ chúng tôi có.”

“Tôi không chắc là mình hiểu ý chị.”

“Tôi cũng không chắc là tôi hiểu.” Cô cười lớn vẻ u ám rồi trở nên im lặng, tay khuấy khuấy cốc nước.

Mùa thu năm ấy thời tiết chuyển mình tuyệt đẹp, và dù biết rằng cái mùa lạnh lẽo, ẩm ướt kia rồi sẽ đến rất nhanh thôi, chúng tôi vẫn sống hết mình với những gì mình đang có và cảm thấy vô cùng hạnh phúc, khỏe mạnh. Ernest đang tiến triển thuận lợi với cuốn tiểu thuyết Nick Adams cùng những truyện ngắn mới, anh thấy rất rõ chúng có thể trở thành sách như thế nào, gần như thể những cuốn sách đã thực sự tồn tại. Trong vòng quen biết của chúng tôi, ai cũng tin thành công sắp đến với anh, chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.

“Cậu đang tạo nên một thứ mới,” một hôm Pound nói với anh trong xưởng sáng tác của ông ta. “Đừng quên điều đó khi nó bắt đầu làm cậu đau.”

“Tôi chỉ đau khi phải chờ đợi thôi.”

“Sự chờ đợi giúp cậu cô đặc lại. Điều đó là cần thiết, còn sự đau đớn thì giúp đủ mọi thứ xuất hiện trên đường.”

Ernest bỏ lời khuyên này vào túi theo cái cách anh làm với mọi điều Pound nói.

Chẳng bao lâu sau, ánh sáng trên phố lúc chiều muộn bắt đầu thay đổi, mong manh hơn và yếu ớt hơn, và chúng tôi bắt đầu băn khoăn không hiểu mình có sức đối mặt với cả một mùa đông dài hay không.

“Anh đang nghĩ đến chuyện viết thư cho Agnès,” một tối nọ Ernest nói với tôi. “Anh đã nung nấu ý định này từ lúc ở Milan rồi. Em có phiền không?”

“Em không biết. Anh muốn gì khi làm thế?”

“Chẳng gì cả. Chỉ là để cho cô ấy biết anh hạnh phúc và đang nghĩ về cô ấy.”

“Và rằng sự nghiệp của anh đang tiến triển đúng như anh đã nói từ trước.”

Anh mỉm cười. “Đó là quả anh đào cắm trên đỉnh thôi.”

“Gửi bức thư của anh đi.”

“Ừ,” anh nói. “Anh gửi rồi.”

Tôi cảm thấy cơn ghen tuông bùng lên.

“Anh đã chắc chắn đến thế rằng em sẽ không phiền sao?”

“Có lẽ. Nhưng nếu em phiền lòng thì anh biết mình có thể làm em hiểu việc đó không có vấn đề gì cả. Dù sao thì cũng chỉ là một bức thư, còn chúng ta thì có nhau.”

“Đó chính là điều Shakespear nói hôm nọ.”

“Shakespear? Cô ta thì biết gì về tình yêu?”

“Có lẽ còn nhiều hơn chúng ta đấy, vì cô ấy không có nó. Cô ấy không chìm đắm trong nó.”

“Đó là lý do lúc này anh không thể viết về Paris, vì nó ở khắp mọi nơi.”

“Thế nên anh đã viết về Michigan.”

“Cảm giác về chốn ấy quá gần gụi. Như thể anh không bao giờ mất nó được.”

Nãy giờ anh đang đọc lại những thứ đã viết được trong ngày từ một cuốn sổ đặt trên bàn trước mặt. Anh đặt tay trên các trang sổ, đầu ngón tay miết trên những câu văn viết bằng nét chữ nghiêng nghiêng đầy táo bạo.

“Nhưng nó không chỉ là một nơi có thật. Anh còn sáng tạo ra nó nữa, và đó mới là phần hay nhất.”

Phía trên bàn viết anh đính một bản đồ vùng Bắc Michigan màu xanh nhạt, và tất cả những nơi thiết yếu đều ở đó — vịnh Horton, Petoskey, hồ Walloon, Charlevoix — những địa điểm chính xác nơi những chuyện quan trọng đã xảy đến với anh, Ernest, nhưng đồng thời với cả Nick Adams nữa. Ernest và Nick không phải cùng một người, nhưng họ biết nhiều điều giống nhau, chẳng hạn phải tìm bọ nhảy làm mồi câu đẫm sương ở đâu và khi nào, rồi dòng nước chuyển động ra sao và nó nói cho ta biết điều gì về nơi có bọn cá hồi. Họ biết về tiếng nã súng cối giữa đêm tĩnh lặng, và biết cảm giác sẽ thế nào khi thấy nơi ta từng yêu dấu cháy rụi và trống huếch và đổi thay. Tâm trí Nick không hẳn là bình thường, ta có thể cảm nhận được áp lực đang dâng lên trong anh ta, trong một truyện như “Dòng sông lớn hai trái tim,” dù Ernest chưa bao giờ cho anh ta nhìn trực diện vào nó hay gọi tên nó.

“Em yêu những câu chuyện Michigan của anh,” tôi nói.

Anh nheo mắt nhìn tôi từ bên kia bàn qua ánh sáng đèn lồng. “Thật đấy à?”

“Vâng, dĩ nhiên là thật.”

“Đôi lúc anh tự hỏi không hiểu em có muốn anh viết lách gì không. Anh nghĩ việc ấy khiến em thấy cô đơn.”

“Không phải việc anh viết khiến em cô đơn, mà là việc anh đi. Đã lâu lắm rồi anh không thậm chí là cố gắng viết ở đây, ở nhà. Biết đâu giờ làm thế lại có tác dụng, mà em thì vẫn có thể thấy anh. Em sẽ không nói chuyện hay làm phiền anh đâu.”

“Em biết là anh cần phải đi ra ngoài thì mới làm được bất cứ việc gì mà.” Anh gập quyển sổ vào rồi đặt chiếc bút chì lên trên, dùng đầu ngón tay đẩy nó tới lui.

“Anh phải ở một mình thì mới bắt đầu viết được, nhưng nếu anh thật sự có một mình thôi thì cũng không ổn. Anh cần phải ra khỏi nơi đó, trở về đây và nói chuyện với em. Điều ấy sẽ làm nó trở nên thực và trở nên kết dính. Em có hiểu anh đang nói gì không?”

“Chắc là hiểu.” Tôi đi ra sau anh, tựa đầu tôi lên vai anh, dụi mặt tôi vào cổ anh. Nhưng sự thật là tôi không hiểu, không thực sự hiểu. Và anh biết điều đó.

“Có lẽ không ai có thể biết được việc ấy có ý nghĩa thế nào với người khác.”

Tôi đứng thẳng dậy rồi đi đến bên cửa sổ, bên ngoài mưa đang xối thành dòng và tràn trề bệ cửa.

“Em đang cố đây.”

“Anh cũng thế,” anh nói.

Tôi thở dài. “Em nghĩ chắc là sẽ mưa cả ngày.”

“Đừng tự phỉnh mình thế. Sẽ mưa cả tháng ấy chứ.”

“Biết đâu sau rốt lại không như thế.”

Anh cười với tôi. “Được rồi, bé con. Biết đâu lại không thế.”

Chú thích:

(*) Ám chỉ absinthe, thứ rượu màu xanh lá đặc trưng có độ cồn rất cao (45-74%).

(**) Tristan Tzara (1896-1963): nghệ sĩ Pháp gốc Rumani, nổi tiếng vì đã phát động trào lưu Dada.

(***) Camille Clifford (1885-1971): diễn viên sân khấu gốc Bỉ, nổi tiếng không phải vì tài năng mà vì vẻ đẹp với thân hình gợi cảm và vòng eo nhỏ xíu.