← Quay lại trang sách

HAI MƯƠI MỐT

Gần đến Lễ Tạ ơn năm 1922, tờ Star cử Ernest đi lấy tin về một hội nghị hòa bình ở Lausanne (Thụy Sỹ), hội nghị này sẽ phân định tranh chấp lãnh thổ giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, một tranh chấp đã châm ngòi cho sự vụ khủng khiếp ở Smyrna và đại để đã khiến hai bên đánh giết lẫn nhau trong gần ba năm trời. Khi bức điện đến, tôi thấy Ernest bồn chồn. Anh gần như không mở được nó ra, và tôi biết tại sao. Chúng tôi không thể lại cãi nhau như lần trước. Thêm một lần nữa có lẽ chúng tôi sẽ không qua được.

“Lausanne,” cuối cùng anh lên tiếng. “Chúng ta có tiền. Em sẽ đi cùng anh.”

“Không cần đâu,” tôi nói. “Em ổn mà.” “Không,” anh nói. “Anh muốn em ở đó.”

Tôi thấy nhẹ nhõm vì anh đã khăng khăng muốn vậy, và tôi đồng ý đi — nhưng đến lúc khởi hành thì tôi lại ốm liệt giường, đầu ù đặc và đau nhức. Tôi không thể ăn gì mà không nôn ọe. Chúng tôi quyết định anh sẽ đi một mình, còn tôi sẽ sang với anh khi đã đi lại được. Đúng lúc đó bạn cũ của tôi ở St. Louis, Leticia Parker, tình cờ lại đến Paris, cô nói cô muốn qua chơi hằng ngày và chăm nom tôi khi Ernest đi. Sẽ không giống hồi anh đi Thổ Nhĩ Kỳ chút nào, thậm chí không giống cả hồi đi Genoa.

Đến lúc tôi thấy đủ khỏe để sang với anh thì đã là đầu tháng Mười hai. Tôi vui sướng xếp đồ, biết rằng hội nghị đã bế mạc và việc tường thuật đã xong, chúng tôi sẽ có một kỳ nghỉ trượt tuyết dài ở Chamby, cùng đón Giáng sinh ở đó với Chink, rồi sau đấy tiếp tục đi Ý và Tây Ban Nha. Tóm lại, chúng tôi sẽ không về Paris trong bốn tháng tới, và tôi đã sẵn sàng cho một kỳ nghỉ dài dễ chịu trốn khỏi cái lạnh lẽo ẩm ướt nơi đây. Đã một tuần rồi tôi chưa ra khỏi giường, nên tôi không chắc mình sẽ đủ sức để trượt tuyết, nhưng gì thì gì tôi cũng sẽ cố.

Song song với kế hoạch du lịch gửi qua gửi lại giữa hai đứa, Ernest còn đánh điện về để báo rằng Lincoln Steffens, một trong những nhà báo anh gặp ở Genoa, cũng đến Lausanne và cực kỳ ấn tượng với những bài tường thuật anh gửi về. Ông ta muốn xem mọi thứ Ernest viết từ trước đến nay, nhưng anh chỉ mang theo mỗi một tác phẩm, “Ông già tôi,” truyện về một cậu bé và người cha làm nghề nài ngựa hết thời. Steffens thấy truyện ngắn đó rất tuyệt, còn so sánh nó với Sherwood Anderson. Ernest không thích bị so sánh với bất cứ ai, và xét về mặt nào đó thì trường hợp này còn tệ hơn, vì đó là Anderson, một người bạn và một người xuất sắc, nhưng dù sao cũng tốt vì Steffens đã đề xuất gửi truyện tới một người bạn làm biên tập viên ở Cosmopolitan. Thời điểm đó Ernest đã có một tác phẩm được công bố, trong một tạp chí nghệ thuật nhỏ ở New Orleans có tên là Double Dealer. Chỉ mỗi thế thôi, cùng với lời Pound hứa về việc in gì đó cho Three Mountains. Đề xuất này hứa hẹn hơn, thậm chí còn thú vị hơn nhiều. Trong lúc xếp đồ vào cái va li to của mình, tôi nghĩ về chuyện chúng tôi sẽ đi trong bao lâu, rồi chuyện Ernest sẽ nóng ruột muốn quay trở lại với những truyện ngắn và tiểu thuyết của anh đến thế nào. Khỏi phải nói cũng biết anh sẽ muốn cho Steffens xem nhiều tác phẩm hơn nữa, thế nên tôi đi vào phòng ăn, tới cái tủ nơi Ernest giữ toàn bộ bản thảo. Tôi gom tất cả lại, xếp vào một cái va li nhỏ. Đây là điều ngạc nhiên tôi dành cho anh, và nó khiến tôi vô cùng phấn chấn khi ra khỏi nhà để tới Gare de Lyon.

Sân ga rất náo nhiệt, nhưng đã bao giờ tôi thấy nó không náo nhiệt đâu. Phu khuân vác áo đỏ vội vã đi ngang — qua những ghế băng bằng gỗ đánh bóng loáng, những cây cọ cảnh và đám lữ khách ăn mặc chỉnh tề đang háo hức chuẩn bị về nhà hay đi xa. Đến sáng mai là tôi lại được ở bên Ernest, và mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả, đó là ý nghĩ duy nhất trong đầu tôi khi tôi đi qua sân ga và đưa hành lý cho một anh phu. Anh ta giúp tôi lên tàu, xếp chiếc va li to đựng quần áo lên giá trên cao và đặt chiếc va li nhỏ dưới ghế, nơi tôi có thể chạm tới. Trên tàu vắng tanh. Còn nửa tiếng nữa mới đến giờ khởi hành nên tôi đi ra ngoài cho giãn gân cốt và mua một tờ báo. Tôi len lỏi qua sân ga, qua những người bán rong với nào táo, phô mai và nước Evian, nào chăn gối cho thuê, bánh mì kẹp được gói lại còn ấm nóng và các chai bẹt đựng brandy. Khi người soát vé gọi hành khách lên tàu, tôi vội vã đi lên cùng dòng người và thấy toa mình ngồi vẫn y như cũ. Ngoại trừ cái va li nhỏ.

Nó không ở dưới ghế tôi. Tôi không thấy nó đâu cả.

Hoảng hốt, tôi gọi người soát vé.

“Tôi có thể làm gì giúp cô không?” người ngồi cùng ghế với tôi ướm lời trong lúc tôi đợi người soát vé xuất hiện. Bà ta là một phụ nữ Mỹ trung tuổi, có vẻ như đang đi du lịch một mình.

“Tôi có thể cho cô mượn đồ của tôi để mặc.”

“Đó không phải quần áo!” tôi hét lên, và người phụ nữ tội nghiệp quay đi vẻ thất kinh, cũng dễ hiểu thôi.

Cuối cùng, khi người soát vé xuất hiện, anh ta cũng có vẻ như không hiểu. Tôi không thể dừng khóc đủ lâu để tìm từ chính xác trong vốn tiếng Pháp khủng khiếp của mình. Cuối cùng anh ta gọi hai cảnh sát Pháp đến, những người này dẫn tôi xuống tàu và thẩm vấn tôi trong ánh nhìn chằm chằm của mọi người. Họ hỏi giấy tờ hộ thân của tôi, rồi trong lúc một người xem xét chúng thì người kia đề nghị tôi mô tả chi tiết chiếc túi và hành động của tôi.

“Nó là của bà phải không, chiếc va li này ấy?”

“Của chồng tôi.”

“Ông ấy có trên tàu không?”

“Không, anh ấy đang ở Thụy Sĩ. Tôi đang mang nó tới cho anh ấy. Đó là công việc của anh ấy. Công việc trong ba năm ròng,” đến đây tôi mất hết chút bình tĩnh còn sót lại. Tôi thấy phát buồn nôn vì nỗi kinh sợ ngày càng tăng. “Sao các anh còn đứng đây hỏi han tôi làm gì?” Giọng tôi vút lên the thé. “Hắn đang chạy trốn! Giờ này chắc hắn đã cao chạy xa bay rồi!”

“Chồng bà ư, thưa bà?”

“Tên trộm ấy, đồ đần!”

“Chúng tôi không thể giúp bà nếu bà cứ kích động thế này, thưa bà.”

“Làm ơn.” Tôi tưởng như mình sắp mất trí. “Làm ơn hãy lục soát trên tàu. Lục soát sân ga.”

“Bà có thể ước lượng giá trị của chiếc va li và những thứ bên trong không?”

“Tôi không biết,” tôi nói đầy vẻ bối rối hoang mang. “Đó là công việc của anh ấy.”

“Vâng, bà đã nói thế. Chúng tôi sẽ làm hết khả năng.” Và hai người đàn ông ấy bỏ đi vẻ sốt sắng.

Người soát vé đồng ý hoãn giờ tàu chạy thêm mười phút nữa trong lúc cảnh sát tiến hành lục soát. Họ đi từ đầu này tới đầu kia con tàu hỏi các hành khách xem có ai thấy cái túi không. Tôi không tin lấy một giây rằng bất cứ kẻ nào đánh cắp nó mà vẫn còn ở trên tàu. Quá hiển nhiên đó là một tên móc túi tầm thường, thấy cơ hội là cuỗm lấy, hy vọng bên trong có đồ giá trị.

Thay vì thế, nó chứa mọi ý tưởng và câu chữ mà Ernest đã đổ mồ hôi sôi nước mắt viết ra từ khi chúng tôi tới Paris và cả trước đó rất lâu, những truyện ngắn và phác thảo từ hồi còn ở Chicago, mọi bài thơ và đoạn văn chưa hoàn thành. Anh không bao giờ vứt bỏ một thứ gì, tất cả đều ở đó. Hai viên sĩ quan tay trắng xuống tàu.

“Vẫn chưa thấy gì, thưa bà,” một người nói. “Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm, nhưng nếu bà vẫn còn định đi Thụy Sĩ thì tôi cho rằng bà nên vào chỗ ngồi thôi.”

Tôi cho họ địa chỉ nhà chúng tôi cùng số điện thoại sàn khiêu vũ, vì căn hộ của chúng tôi không có điện thoại, nhưng tôi cũng chẳng mấy hy vọng họ sẽ tìm kiếm thành công. Paris rất rộng lớn, mà quá nhiều thời gian đã trôi qua rồi. Tôi hình dung tên trộm đã vội vã lách vào một ngõ vắng, mở va li rồi lập tức đóng lại. Hắn sẽ vứt nó ngay tại chỗ hoặc ném nó vào một đống rác. Nó có thể ở trong bất cứ con hẻm, ống cống hay thùng rác đang bừng bừng cháy nào ở Paris. Nó có thể đang nghiêng nghiêng chìm, ngay lúc này, xuống đáy dòng sông Seine.

“Tôi rất tiếc vì sự cố cô gặp phải,” bà ngồi cùng ghế nói khi cuối cùng tôi cũng tìm đường trở lại toa tàu.

“Không, tôi mới là người phải xin lỗi,” tôi nói và bắt đầu khóc. “Tôi không hay mất bình tĩnh thế này.”

“Nó rất đắt phải không, thứ cô mất ấy?”

Con tàu rầm rầm dưới chân chúng tôi, rồi dứt khoát lắc lư rời khỏi sân ga. Giờ thì không dừng lại hay thay đổi được gì nữa rồi. Không trốn tránh sự thật về những gì đã xảy ra được nữa. Tôi cảm thấy nỗi kinh sợ bắt đầu định hình rồi dâng trào khắp trong tôi, cùng với đó là một điều chắc chắn đầy tuyệt vọng. Chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi của bà ta thôi.

“Vô giá,” tôi đáp, rồi quay đi.