HAI MƯƠI BA
KhI Ernest từ Paris quay về, anh rất dịu dàng với tôi và cứ nhắc đi nhắc lại là anh tha thứ hết, nhưng mắt anh có vẻ tổn thương, có gì đó đã thay đổi. Vẫn còn việc phải làm ở hội thảo, và anh vẫn làm như trước giờ luôn thế, quăng mình vào công việc ban ngày và trở về với vẻ mệt mỏi, sung sướng khi được uống một ly. Tôi giết thì giờ bằng cách đi bộ trong thành phố tìm quà Giáng sinh để gửi về nhà. Hơn cả năm đầu tiên ở Pháp, tôi khao khát thấy thứ gì đó nắm bắt được tinh thần của ngày lễ như tôi nhớ từ thuở nhỏ. Tôi lang thang hàng tiếng đồng hồ, nhòm qua các quầy kính trưng bày, nhưng với tôi dù có cố công tìm kiếm thế nào thì vẫn không thứ gì ở Lausanne trông giống Giáng sinh.
Đến cuối tuần, chúng tôi chuẩn bị đồ đạc cho chuyến đi tới Chamby.
“Em có cảm giác không ổn lắm khi mình cứ nhất nhất làm theo kế hoạch sau tất cả những chuyện đã xảy ra,” tôi nói với Ernest khi chúng tôi xếp đồ.
“Có thể,” anh nói. Giọng anh có vẻ mệt mỏi. “Nhưng thay vì thế thì ta làm gì?”
“Quay về Paris?”
“Thế thì còn tệ hơn, không phải sao?”
“Em nghĩ mình không thể chịu nổi Giáng sinh mà cảm giác thế này. Mọi thứ cứ bung bét cả. Có lẽ đã đến lúc chúng ta tính chuyện về nhà rồi.”
“Về Mỹ sao? Và chấp nhận thất bại? Em đang cố giết anh đấy à?”
“Em xin lỗi. Chỉ là thật khó để biết phải tiếp tục thế nào bây giờ.”
“Đúng thế,” anh nói. Anh nhấc chiếc Corona lên, cẩn thận đặt nó vào cái hộp đen rồi đóng sập lại. “Dĩ nhiên là khó rồi.”
Thị trấn Chamby vẫn không có gì thay đổi khi chúng tôi đến. Căn nhà gỗ của chúng tôi vẫn nguyên vẹn y hệt trước đây, cũng như những ngọn núi tuyết phủ và người chủ, gia đình Gangwisch, chào đón chúng tôi như thể đón người thân trong nhà lâu ngày mới gặp lại. Mọi thứ đều quá dễ chịu sau quãng thời gian tâm trạng nặng nề ở Lausanne, và chúng tôi đầu hàng tuyệt đối. Thậm chí trước cả khi kịp dỡ đồ ra, chúng tôi đã mặc quần áo trượt tuyết và bắt chuyến tàu cuối lên núi tới Les Avants. Anh mặt trời nhạt dần trong lúc chúng tôi buộc ván trượt phóng vút xuống sườn núi trắng như rắc bột, hướng về phía ngôi làng. Gió gào bên tai, châm vào má đau nhói, chúng tôi lướt tới, Ernest ở ngay phía trước tôi, bên đầu gối đau của anh băng vải đen dày. Anh cẩn trọng hơn một chút với bên chân ấy, nhưng cũng khá lâu rồi tôi mới thấy cơ thể anh nhẹ nhàng như vậy. Tôi cảm thấy biết ơn và nhẹ nhõm, lòng thầm cảm ơn những ngọn linh sam phủ tuyết, và bầu trời màu kem đang chuyển sang đủ mọi sắc hồng, và hồ Geneva xa xa, phang và bóng như mặt gương.
Hôm sau chúng tôi ngủ rốn trên chiếc giường lớn bốn cọc màn, thậm chí còn không buồn dậy khi người hầu phòng nhón chân bước vào nhóm lửa lò sưởi. Một lát sau chúng tôi tự thức dậy, khi căn phòng đã ấm áp và chiếc lò sứ lách tách lửa.
“Chúng mình đã đúng khi tới đây, Tatie à,” tôi nói và rúc vào sau lưng Ernest, hôn cổ và những đốt cột sống của anh.
“Đúng vậy,” anh nói. “Mình hãy tận hưởng từng giây phút và đừng nghĩ về bất cứ điều gì khác.”
“Làm gì có điều gì khác nữa,” tôi nói. Tôi lăn tới để bao bọc lấy anh, dạng chân ngồi lên cái bụng phẳng khỏe khoắn của anh. Tôi vén váy ngủ lên đến hông rồi vươn tới kéo anh vào trong mình.
Anh rên rỉ và nhắm mắt lại, đầu hàng tuyệt đối.
Chink đến vào hôm Giáng sinh, và cuối cùng hóa ra kỳ nghỉ của chúng tôi chẳng buồn chút nào. Chúng tôi treo tất tặng nhau và tặng Chink, rồi chúng tôi mở quà, sau đó ăn một bữa tối dành cho các ông hoàng. Chỉ khi chúng tôi ngồi bên lò sưởi khuya hôm đó, rượu brandy ấm trong bụng và còn nhiều hơn nữa trong ly, Ernest mới nhắc đến cái vụ mất bản thảo khủng khiếp kia.
“Ôi trời,” Chink nói khi Ernest kể đến cuối câu chuyện.
“Có thật cậu có thể bắt đầu lại từ con số không không?”
“Tôi cũng không biết nữa. Tôi đã từng viết ra cái đống quái quỷ ấy một lần rồi, không phải sao? Ernest nói. “Dù sao thì tôi cũng buộc phải làm thôi.”
Chink nghiêm nghị gật đầu.
“Tôi đã làm việc như chó cho tờ Star,” Ernest nói tiếp, “Và giờ thì chúng tôi có đủ tiền sống trong tám tháng. Tám tháng, và tôi sẽ cống hiến hết thời gian ấy cho truyện. Thế thôi.”
“Thế mới là Tatie của em chứ,” tôi nói. Chink nâng ly lên, và tất cả chúng tôi nâng cốc chúc mừng Giáng sinh và chúc mừng nhau.
Nhưng hết ngày này đến ngày khác trôi qua mà bút sổ của Ernest vẫn chưa được lôi ra. Chiếc máy chữ Corona chưa bao giờ rời khỏi cái hộp đen. Anh không nói gì về chuyện này và tôi cũng không; tôi đủ khôn ngoan để không làm thế. Trong lúc đó, chúng tôi trượt tuyết suốt ngày và có khi còn trượt xuyên đến chiều tối, khi mặt trời nhỏ máu xuyên qua đường viền mây và dường như đang cho chúng tôi chiêm ngưỡng một cảnh tượng chưa từng thấy. Chúng tôi yêu thích mọi phút giây có Chink làm bạn đồng hành tốt, và có nhau nữa. Ngày nào chúng tôi cũng làm tình, có khi hai lần một ngày - ấy là cho đến khi tôi bảo Ernest rằng tôi đã để thứ chúng tôi thường dùng để tránh thai ở Paris. Chúng tôi luôn cẩn trọng kiểm tra vòng kinh của tôi. Ernest đích thân làm điều này, hệt như cái cách anh ghi lại mọi chuyện trong đời sống hôn nhân của hai đứa. Có một cuốn sổ ghi chép thu chi, một cuốn khác theo dõi trao đổi thư từ, một cuốn khác nữa ghi các ý tưởng truyện và số từ anh viết mỗi ngày. Còn có một cuốn sổ đề chữ Hadley, dành riêng cho sự tăng giảm hoóc môn nữ của tôi mỗi tháng để chúng tôi có thể quan hệ mà không dùng biện pháp bảo vệ càng nhiều càng tốt. Hồi mới đầu, trong những lần không an toàn, chúng tôi dùng biện pháp xuất tinh ngoài như phần lớn các cặp khác. “Không khác đánh bài rulet kiểu Nga là mấy,” Ernest hay đùa vậy, và đúng thế thật. Có thể mua bao cao su ở hiệu thuốc hoặc tiệm cắt tóc nam, nhưng chúng vừa thô vừa dày, làm từ keo cao su — cực kỳ không thoải mái và đôi khi còn bị thủng.
Khi chúng tôi mới tới Paris, Gertrude, một người thẳng thắn tuyệt vời về khoản này, đã hỏi xem chúng tôi có biết về phương pháp màng chắn âm đạo không. Không gặp phiền phức gì nhiều lắm, chúng tôi tìm được một bác sĩ làm cho tôi một cái, và kể từ đó đây là phương pháp chúng tôi vẫn dùng. Ernest biết rõ hơn tôi ngày nào an toàn còn ngày nào thì không. Sau khi ở Chamby được khoảng một tuần, anh nhắc cho tôi nhớ chúng tôi đã đến cuối giai đoạn an toàn.
“Em tiến hành các sắp xếp cần thiết nhé?” một đêm nọ anh nói khi cả hai đang nằm trên giường. Câu này là mật mã anh vẫn dùng. Vai của tôi là đáp lại, “Vâng, thưa ngài,” như thể tôi là thư ký của anh, còn anh thì vừa mới yêu cầu tôi đặt bàn ăn trưa hay gửi một bức điện. Nhưng riêng đêm nay, tôi không cười mà cũng chẳng đứng dậy tìm cái hộp trong ngăn kéo đồ của mình. Thay vì thế, tôi thốt lên, “Ôi trời.”
“Đừng bảo anh là em đã để nó lại Paris đấy nhé.” Tôi chỉ có thể gật đầu.
“Em chọn thời điểm tệ quá đấy.” Mặt anh đỏ gay. Tôi có thể nói rằng anh đang rất giận.
“Ở Lausanne em đã định bảo anh rồi, ngay khi em nhận ra, nhưng lúc đó cũng khó mà là thời điểm thích hợp.”
“Em còn giấu giếm anh cái gì nữa?”
“Không gì cả. Em xin lỗi. Lẽ ra em nên nói cho anh.”
“Đúng thế.” Anh tung chăn ra, rồi ngồi dậy và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng trong bộ đồ lót, giận sôi lên. “Đôi khi anh tự hỏi chính xác thì mình đã lấy ai.”
“Làm ơn công bằng chút đi Tatie. Đâu phải em cố tình quên chứ?”
“Không phải sao?”
“Dĩ nhiên là không rồi.” Tôi băng qua phòng và đứng đủ gần để nhìn rõ mặt anh trong ánh sáng lờ mờ. “Em không hề cố tình. Ây thế nhưng, nếu bảo là em không nghĩ có con sẽ là một ý tưởng tuyệt vời, thì đó là em nói dối.”
“Giờ thì rõ rồi nhé. Anh biết ngay mà. Chúng ta đã nhắc đi nhắc lại rằng khi nào anh có được khởi đầu thật sự tốt về mọi mặt thì mới nói đến chuyện có con. Chúng ta đã đồng ý rồi cơ mà.”
“Em biết,” tôi nói.
“Anh mới chỉ bắt đầu có chút tiến triển thôi. Vậy mà em thật lòng muốn phá tan tất cả sao?”
“Dĩ nhiên là không,” tôi kêu lên. “Nhưng em cũng lo lắng chứ. Em đã ba mươi mốt rồi.”
“Chỉ vừa mới ba mốt thôi. Mà em đã bao giờ say mê trẻ con đâu. Em chẳng quan tâm gì đến con cái nhà người ta.”
“Điều đó khác với việc muốn có một đứa con của riêng mình. Em đâu còn nhiều thời gian nữa.”
“Anh cũng vậy. Thường thì cuộc sống không cho ta nhiều hơn một cơ hội đâu. Anh muốn nắm bắt lấy cơ hội của mình lúc này.” Mắt anh sáng lên đầy thách thức, chúng vẫn luôn thế mỗi khi anh chuẩn bị yêu cầu lòng trung thành. “Em có ủng hộ anh không?”
“Tất nhiên em ủng hộ rồi.” Tôi vòng tay qua cổ anh và hôn anh, nhưng môi anh không mềm đi dưới môi tôi. Đôi mắt anh, chỉ cách mắt tôi vài phân, mở to đầy nghi ngờ.
“Anh cho rằng em nghĩ anh sắp sửa lên giường với em.
“Ernest! Em không định gài bẫy anh!”
Anh không nói gì.
“Tatie?”
“Anh muốn uống một chút.” Anh đi về phía cửa, vơ lấy áo choàng trên đường ra.
“Làm ơn hãy ở lại để nói cho ra chuyện này đi anh.” “Em ngủ đi,” anh nói, rồi ra khỏi phòng.
Nhưng tôi làm sao ngủ nổi, với bao nhiêu bực dọc trong lòng thế này. Anh không hề quay lại giường, và sáng hôm sau tôi thay đồ đi xuống tìm anh. Anh đã mặc sẵn đồ trượt tuyết và đang uống cà phê sáng trong phòng ăn.
“Mình làm lành nhé, Tatie?” tôi vừa đi đến bên anh vừa nói. “Em phát ốm vì mọi chuyện rồi.”
“Anh biết,” anh nói, rồi thở dài. “Em nghe này. Về vấn đề này chúng ta phải đồng tâm đồng lòng. Nếu không thì chẳng có gì tốt đẹp được nữa. Em hiểu điều đó, đúng không?”
Tôi gật đầu và dựa vào vai anh.
“Nếu em thật sự muốn có con, thì một ngày nào đó sẽ đến lúc thích hợp.”
“Nhưng không phải bây giờ.”
“Không, mèo con ạ. Không phải bây giờ.”
Chink bước vào phòng và cất tiếng chào. Rồi cậu dừng lại, nhìn thật kỹ chúng tôi một lúc. “Mọi chuyện ổn cả chứ?”
“Hadley đang hơi khó ở.”
“Tội nghiệp bà Popplethwaite,” Chink dịu dàng nói. “Chị nên đi nằm thì hơn.”
“Đúng. Cố nghỉ ngơi một chút đi em,” Ernest đồng tình. “Đến giờ ăn trưa bọn anh sẽ quay lại xem em thế nào.”
Rồi họ đi trượt tuyết một mình trong lúc tôi cố hết sức để tìm chút yên bình. Tôi đi một đôi tất dày thật đẹp, xỏ đôi dép đi trong nhà kiểu Alps rồi cuộn tròn trên ghế cạnh lò sưởi đọc Đẹp và đáng nguyền rủa. “Fitzgerald đúng là một nhà thơ,” Shakespear đã nói thế khi gợi ý tôi nên đọc quyển này, ngay trước khi cô và Pound lên đường đi Ý vài tháng. Văn phong rất đẹp, phải công nhận là thế, nhưng tôi thấy buồn khi đọc về Gloria và Anthony. Họ nói chuyện hay, sở hữu những thứ đẹp đẽ, nhưng cuộc sống của họ trống rỗng. Tôi không chịu đựng nổi bức khắc họa hôn nhân kinh khủng như vậy, không phải chỉ mỗi lúc này.
Tôi vừa đặt cuốn tiểu thuyết xuống và trèo lên giường cố chợp mắt một lúc thì Ernest bước vào. Tóc anh ướt và lộn xộn vì đội mũ len, còn mặt anh thì hồng lên vì lạnh. Anh ngồi gần tôi trên giường, và tôi nhận thấy mắt anh đã dịu đi rất nhiều. Quãng thời gian đi ra ngoài với Chink đã tác động tích cực lên anh.
“Trông em ấm áp quá,” anh nói. “Cho anh chia sẻ cái tổ kén đó có được không?”
“Dĩ nhiên là được rồi. Nếu anh nghĩ đó là ý hay.”
“Anh đã ghé qua hiệu thuốc trong làng,” anh nói rồi lấy từ túi quần ra một hộp bao cao su nhỏ.
“Em ngạc nhiên đấy. Anh vẫn luôn nói là ghét bao cao su cơ mà.”
“Không ghét nhiều bằng việc phải xa em đâu.”
Tôi ngắm cơ bụng và cơ hông gọn gàng của anh khi anh cởi đồ. “Anh thật đẹp,” tôi nói.
“Em cũng vậy, Tatie à.”
Khi anh trèo lên giường, da anh mát lạnh cọ vào tôi, và bên ngoài tuyết bắt đầu rơi. Chúng tôi ghì siết nhau trên chiếc giường lông vũ, bàn tay anh thô ráp tuyệt vời, xương hông anh cọ mạnh vào đùi tôi. Về sau tôi thấy những vân tím bầm ở chỗ ấy, còn da mặt, da ngực tôi thì xước đỏ vì anh chưa cạo râu, nhưng lúc bấy giờ, chỉ có niềm đam mê không lời và cảm giác của sự quay về. Anh đã bỏ tôi đi một thời gian. Anh đã nghi ngờ tôi, nhưng giờ anh lại là của tôi, tôi muốn giữ anh mãi ở đây, giữa những chân tay đan quyện và đống ga gối này, cho đến khi tôi dập tắt được mọi tiếng nói và chúng tôi lại hòa hợp như xưa.
Sau ba tuần ở Chamby, khi đã ăn uống phủ phê, da dẻ nứt nẻ rồi chia tay Chink, chúng tôi thẳng tiến tới Rapallo, vùng ven Địa Trung Hải ở Ý nơi vợ chồng Pound thuê một biệt thự.“Ezra nghĩ chính ông ấy khám phá ra nơi đó,” Ernest nói trên tàu hỏa. “Mặc dù Wordsworth và Keats đã đến đấy trước.”
“Đến cả cây cối với bầu trời mà Ezra còn nghĩ là do mình khám phá ra cơ mà.”
“Dù sao thì ta cũng phải khâm phục con người ấy đi, em công nhận không?”
“Em không phải phiếc gì sất, nhưng chắc em sẽ làm thế. Vì anh.”
Sau hơn một ngày trời đi về phía Nam, cuối cùng chúng tôi cũng gần tới Genoa, quang cảnh thôn dã càng lúc càng trở nên tươi xanh và đáng yêu hơn bao giờ hết.
“Đây đúng là thiên đường,” tôi nói. “Em đã không hề biết nó có thể đẹp đến vậy.”
Qua cửa sổ tôi thoáng thấy biển, những mảng xanh nổi bọt sóng lướt thật nhanh, rồi lại đến khối đá sẫm màu, rồi lại biển. “Chúng mình thật may mắn khi được hạnh phúc thế này anh nhỉ?” tôi nói khi tàu vừa đi vào một đường hầm xuyên núi.
“Hẳn rồi,” anh đáp, rồi hôn tôi. Âm thanh của đoàn tàu dội vào đá đen, ầm ầm trong tai chúng tôi.
Khi chúng tôi tới Rapallo, cảm tưởng của tôi là thị trấn này thật quyến rũ, với những khách sạn màu vàng và hồng nhạt nằm dọc bờ biển cùng bến cảng yên tĩnh vắng vẻ. Ernest lại không ưa nó ngay khi nhìn thấy.
“Chẳng có ai ở đây,” anh nói khi chúng tôi tới khách sạn.
“Ai nên ở đây bây giờ?”
“Anh không biết. Chỉ là cứ như thể không có sự sống ấy, cái nơi này.” Anh đứng bên ô cửa sổ hướng ra bờ biển trong phòng chúng tôi. “Em có thấy biển ở đây hình như hơi ẻo lả không?”
“Trông nó giống như biển thôi,” tôi nói rồi ra phía sau anh, vòng tay ôm anh thật chặt. Tôi biết chốn này không phải nguyên nhân làm anh phiền lòng. Tuần cuối cùng ở Chamby, sáng thức dậy, tôi thấy anh đang ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong phòng, cây chì vót nhọn nằm trong tay vô hồn, cahier (cuốn tập) màu xanh mở nhưng trống trơn. Anh vẫn không làm việc được, và chuyện này càng kéo dài thì càng khó để bắt đầu lại. Anh hết sức quyết tâm. Anh sẽ làm. Nhưng làm thế nào đây?
Ở Rapallo ngày nào chúng tôi cũng chơi tennis và ăn trưa rất lâu với vợ chồng Pound trong khu vườn trên sân hiên nhà họ. Ngày nghỉ thì có một cặp vợ chồng khác đến tham gia cùng, Mike Strater(*), một họa sĩ bạn Pound, cùng vợ anh ta, Maggie. Họ có một bé gái trông yêu vô cùng với những lọn tóc vàng và đôi mắt xám. Tôi hay nhìn cô bé thám hiểm thế giới ngay bên ngoài cái chăn của mình, giật một nắm cỏ rồi chăm chú nhìn bàn tay mình, như thể nó đang nắm giữ một bí mật. Trong lúc đó, Ernest và Mike cúi mình rồi lao tới trong một trận đấm bốc trên con đường lát đá gần đó. Không chỉ là một họa sĩ giỏi, Mike còn vô cùng thể thao, gan dạ, và tôi thấy rõ Ernest thích anh ta ngay lập tức. Mike có thể lực hợp để thi đấu với Ernest hơn Pound nhiều, Pound dù với tính cách dữ dội của mình đã hết sức cố gắng nhưng cũng không lại nổi với đôi tay yếu ớt của một nhà thơ.
Tháng Hai ở Ý là khoảng thời gian rất thất thường. Có những ngày sương mù giăng phủ, che mờ dãy đồi phía sau thị trấn, đến độ cảm giác chúng rất xa xôi. Đám cỏ ướt sũng sĩnh còn lũ chim én trốn biệt tăm. Nhưng cũng có những khi không khí ẩm và ngập ánh mặt trời. Chúng tôi có thể tản bộ trên quảng trường hay dọc con đường ven biển, ngắm ngư dân trên cầu tàu bê tông đang thòng dây câu xuống dòng nước. Làng này nổi tiếng với nghề dệt đăng ten, tôi hay lướt qua các quầy kính trưng bày tìm những món đồ đẹp nhất gửi về nhà làm quà trong lúc Ernest đi bộ lên sườn đồi lởm chởm đá với Ezra, nói chuyện về những người hát rong ở Ý và hiệu quả gây tranh cãi của việc viết từ tiềm thức. Ernest thường nói anh không muốn đóng tâm trí lại khi làm việc vì đó là thứ duy nhất khiến anh đặc biệt. Cũng có phần đúng, nhưng khi đã hết ngày, anh lại chẳng thể tắt dòng suy tưởng mà không phải nhờ đến một ly whiskey, và thi thoảng ngay cả whiskey cũng không có tác dụng. Khi không viết gì cả, như bây giờ, suy nghĩ của anh thường nhiều hơn mức anh có thể đón nhận. Thật khó lòng mà chứng kiến việc này, và tôi rất lo cho anh.
Ấy thế nhưng, đến Rapallo được một tuần thì tôi có chuyện mới để mà lo lắng. Tôi thức dậy với cảm giác choáng váng, trong đầu có tiếng rầm rầm kỳ cục, tôi cố ăn sáng nhưng không nuốt nổi nên đành quay về giường.
“Chắc do món trai chúng ta ăn tối qua,” tôi bảo Ernest thế và ở trong phòng tới tận trưa, khi cảm giác ấy trôi qua.
Sáng hôm sau, các triệu chứng tương tự xảy ra vào chính xác thời điểm như cũ, tôi tha thứ cho món trai và thay vào đó bắt đầu đếm ngày tới lui. Chúng tôi đến Chamby ngay trước Giáng sinh, vài ngày sau kỳ kinh của tôi. Giờ đã là mồng 10 tháng Hai, thế mà tôi vẫn chưa có kinh lại. Khi Ernest ra khỏi phòng để tới gặp Ezra, tôi tìm chỗ anh cất sổ rồi nghiên cứu cái cuốn sổ cụ thể có thể làm sáng tỏ tình trạng của tôi lúc này. Quả nhiên, năm vừa rồi tôi chưa từng bị chậm quá một hai ngày. Thế mà giờ đã qua ít nhất một tuần, có lẽ là mười ngày rồi. Tôi khẽ rùng mình vì háo hức, nhưng tôi không nói gì với Ernest cả. Vẫn còn chưa chắc chắn, vả lại tôi quá sợ những điều anh sẽ nói.
Nhưng tôi cũng chẳng giữ bí mật được mãi. Tôi gần như không chịu được khi nhìn thấy đồ ăn, thậm chí chỉ ngửi mùi whiskey hoặc thuốc lá thôi cũng khiến tôi xanh mặt. Ernest, may mắn thay, thỏa mãn với việc đổ lỗi cho thực phẩm lạ, nhưng Shakespear thì ngày một nghi ngờ. Một chiều nọ, khi chúng tôi đang ngồi bên một cái bàn trong vườn xem Ernest và Mike tập giao bóng tennis cho nhau, cô nghiêng đầu nhìn tôi và nói, “Dạo này cô có điều gì khang khác, phải không nhỉ?”
“Là hai bên gò má mới lộ ra đó,” tôi nói. “Tôi đã sụt gần ba cân.”
“Có lẽ vậy,” cô trầm ngâm, nhưng vẻ mặt cô thể hiện một sự thấu rõ kỳ lạ khiến tôi nghĩ cô đã đoán ra sự thật.
Tôi cố lờ đi và nói, “Hình như chị cũng giảm cân thì phải, chị thân mến ơi. Chị đang héo hon đi đấy.”
“Tôi biết. Là do chuyện với Olga Rudge ấy mà,” cô thở dài, nói.
Từ lâu cô đã kể tôi nghe về Olga, một nghệ sĩ violin trong dàn nhạc, nhân tình hơn năm trời của Pound.
“Xảy ra chuyện gì thế?” tôi hỏi. “Có gì thay đổi à?”
“Không hẳn. Tôi vẫn trông đợi anh ấy yêu nửa tá các cô, đơn giản vì đó mới là anh ấy, nhưng hình như lần này thì khác. Trước nhất, cuộc ngoại tình này vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Cô ta còn xuất hiện trong bài Cantos(**), dĩ nhiên là được cải trang rất kỹ bằng câu chuyện hoang đường. Nhưng tôi vẫn nhận ra.” Cô lắc lắc mái đầu xinh đẹp như để xua hình ảnh ấy đi. Cô ta đang ngày càng lấn sâu. Tôi tự hỏi liệu có bao giờ chúng tôi thoát khỏi cô ta không.”
“Tôi rất tiếc,” tôi nói. “Nhưng tôi thấy có vẻ như chị đang nhịn ông ấy quá mức rồi đấy. Tôi không hiểu được hôn nhân kiểu này chút nào. Chắc tôi là một kẻ theo đạo đức chủ nghĩa.”Cô nhún vai duyên dáng. “Mike Strater cũng đang lăng nhăng. Một cô đào thì phải.”
“Ôi Chúa ơi. Maggie có biết không?”
“Ai chẳng biết. Cậu ta điên rồi mà.”
“Trông cậu ta không có vẻ như thế.”
“Đúng,” Shakespear nói, “nhưng họ có bao giờ trông có vẻ như thế đâu. Đối với những vấn đề liên quan tới trái tim, đàn ông là những kẻ khắc kỷ chẳng bao giờ biểu lộ điều gì.”“Tôi thấy chị cũng rất có vẻ là một người khắc kỷ.”
“Đúng,” cô nói. “Nhưng tôi phải cố lắm mới được như vậy, cưng à.”
Ezra nổi tiếng vì những cuộc tình lang chạ; tôi chẳng trông đợi gì hơn ở ông ta. Nhưng cái tin về Mike Strater mới khiến tôi buồn nôn, vì trông cậu ta và Maggie bền chặt đến thế' kia mà. Tôi vẫn luôn quan sát và thán phục hai vợ chồng họ cùng cô con gái, để rồi dần thêu dệt mộng tưởng về đứa con của chúng tôi — của tôi và Ernest — nó có thể chen vào một cách tự nhiên mà không làm cuộc sống của chúng tôi hay công việc của Ernest thay đổi gì mấy. Giờ thì giấc mộng ấy đã bị chọc thủng. Đứa con ấy gần như chắc chắn sắp đến rồi, nhưng đến đâu mới được chứ? Hôn nhân có thể là một chốn hiểm địa như vậy đấy. Ở Paris, gần như chỉ cần quay qua là đã thấy hậu quả từ những quyết định sai lầm của các cặp tình nhân. Một nghệ sĩ có đời sống tình dục thừa mứa hầu như đã thành chuyện thường ngày ở huyện, nhưng dường như không ai thèm bận tâm. Chỉ cần anh tạo ra cái gì tốt đẹp, hay ho hoặc gây náo động, thì anh có thể có bao nhiêu người tình tùy ý, có thể hủy hoại thanh danh tất cả những tình nhân của anh. Thứ không được chấp nhận lại là những giá trị truyền thống, là mong muốn về một điều nhỏ nhoi, chắc chắn và dễ đoán, như một tình yêu thật sự, hoặc một đứa con.
Xế chiều hôm đó, khi chúng tôi trở về phòng ở khách sạn Splendide, trời bắt đầu mưa rất to và có vẻ như sẽ không bao giờ dứt. Tôi đứng bên cửa sổ ngắm mưa, lòng mỗi lúc một thêm lo lắng.
“Mike Strater đang yêu một cô đào nào đó ở Paris,” tôi nói với Ernest từ bên cửa sổ. “Anh có đoán nổi không?”
Anh đang ngồi trên đống ga gối đọc Những dinh thự xanh của W. H. Hudson lần thứ một trăm. Anh gần như chẳng ngước lên. “Anh thấy chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì. Ezra vẫn nói anh ta là kẻ hay tán tỉnh.”
“Vậy khi nào thì mới có ý nghĩa hả? Khi tất cả mọi người nổ tung ra từng mảnh sao?”
“Đây là điều làm em bận tâm cả ngày hôm nay đấy ư? Nó đâu có liên quan gì đến chúng ta.”
“Không ư?”
“Dĩ nhiên là không. Ta đâu có nhiễm ngoại tình như nhiễm bệnh sởi.”
“Nhưng anh thích cậu ta mà.”
“Đúng. Anh ta là một họa sĩ giỏi. Mai anh ta muốn ghé qua đây vẽ chân dung anh. Có lẽ là cả em nữa, thế nên tốt hơn hết trước lúc đó em hãy tìm cho mình một bộ mặt bớt khó chịu hơn đi nhé.” Anh cười nhẹ rồi quay lại với cuốn sách.
Bên ngoài mưa rơi mau hơn, gió thổi màn nước dạt qua hai bên, khiến những con thuyền trên cảng nghiêng ngả trông rất nguy hiểm.
“Em đói,” tôi nói.
“Thì ăn gì đó đi.” Anh không nhìn lên.
“Nếu mưa tạnh thì mình có thể ăn trong vườn trên con đường lát đá.”
“Sẽ mưa cả ngày. Hãy cứ ăn luôn gì đó thôi, không thì giữ im lặng đi.”
Tôi đi đến bên tấm gương rồi sốt ruột ngắm mình trong đó.
“Em muốn nuôi tóc lại. Em chán trông như con trai lắm rồi.”
“Em đâu có như con trai,” anh nói với quyển sách. “Em hoàn hảo.”
“Một cậu trai hoàn hảo. Em phát ốm với điều đó.”
“Em chỉ đang đói thôi. Ăn lê đi.”
Tôi nhìn anh chúi đầu vào quyển sách. Anh để mặc cho tóc mọc, và giờ nó đã dài gần bằng tóc tôi. Thực ra chúng tôi bắt đầu trông hơi giống nhau, đúng như Ernest từng bảo, rất lâu rồi trên sân thượng đầy sao ở Chicago, rằng anh ước hai đứa có thể giống nhau. Nhưng chúng tôi sẽ không trông thế này được lâu. Vài tháng nữa thôi tôi sẽ cảm nhận và thấy bụng mình tròn trịa ra. Đó là viễn cảnh không tránh khỏi.
“Nếu có tóc dài đẹp, em sẽ buộc tóc lại chỗ cổ ấy, nó sẽ mượt mà tuyệt đẹp, thế là em sẽ chẳng quan tâm đến bất cứ chuyện gì khác nữa.”
“Hử?” anh nói. “Vậy làm thế đi.”
“Vâng. Em làm ngay đây.”
Có một cái kéo cắt móng nhỏ xíu trên tủ com mốt dưới gương. Trong cơn bốc đồng, tôi cầm nó lên tỉa một ít tóc dưới một bên tai, rồi tỉa nốt bên còn lại.
Anh nhìn tôi rồi cười đầy tò mò. “Em mất trí rồi, em biết không.”
“Có lẽ vậy. Giờ đến lượt anh.” Tôi đi tới, giạng chân ngồi lên bụng anh rồi cắt phéng đám tóc dưới hai tai anh cho đến khi tóc anh giống tóc tôi. Vừa nhét chỗ tóc vừa cắt vào túi áo, tôi vừa nói,
“Giờ thì chúng ta y như nhau.”
“Hôm nay em kỳ lạ quá.”
“Anh không yêu đương cô đào nào ở Paris đấy chứ?”
“Chúa ơi, không.” Anh phá lên cười.
“Nghệ sĩ violon thì sao?”
“Không ai cả.”
“Và anh sẽ luôn ở bên em chứ?”
“Sao thế, Mèo Con? Nói cho anh biết đi.”
Lúc ấy tôi mới nhìn thẳng vào mắt anh.
“Em sắp sinh em bé.”
“Bây giờ ư?” Mặt anh lập tức lộ vẻ hoảng hốt.
“Mùa thu này.”
“Làm ơn nói với anh đó không phải sự thật đi.”
“Nhưng đó là sự thật. Vui lên đi, bé con. Em muốn điều này.”
Anh thở dài. “Em biết được bao lâu rồi?”
“Chưa lâu đâu. Có lẽ khoảng một tuần.”
“Anh chưa sẵn sàng cho chuyện này, không một chút nào.”
“Đến lúc đó thì có thể anh đã sẵn sàng rồi. Biết đâu anh còn vui mừng ấy chứ.”
“Mấy tháng vừa qua chẳng khác nào địa ngục.”
“Anh sẽ làm việc lại. Em biết là nó sắp đến mà.”
“Một cái gì đó sắp đến,” anh nói vẻ u ám.
Tiếp sau đó là những ngày rất căng thẳng và khó khăn với chúng tôi. Phần nào đó trong tôi đã hy vọng rằng Ernest chỉ hăng hái tranh luận về chuyện không có con quá thôi, ngay khi biết là sắp có một đứa thật rồi thì anh lại vui, hay ít nhất là vui sướng cho tôi. Nhưng dường như anh không nhúc nhích đến một phân theo hướng suy nghĩ của tôi. Một ngày của chúng tôi trôi qua có vẻ rất giống trước kia, nhưng tôi cảm nhận thấy khoảng cách giữa hai đứa và tự hỏi chúng tôi sẽ bắc cầu qua đó để tìm lại nhau bằng cách nào đây.
Thế rồi, trong lúc tôi vẫn đang suy nghĩ ủ ê, một vị khách mới xuất hiện ở biệt thự của Pound. Tên ông ta là Edward O’Brien, một nhà văn và biên tập viên đang lưu lại ở khu đồi phía trên thị trấn, gần tu viện Albergo Montallegro. Ezra nghe nói ông ta ở đó nên đã mời ông ta xuống ăn trưa.
“O’Brien biên tập một tuyển tập các truyện ngắn hay nhất năm,” Pound giới thiệu mọi người với nhau trên hiên gần sân tennis. Quay qua Ernest, ông nói, “Còn Hemingway đây thì viết một truyện hay kinh khủng. Cậu ấy thật sự rất giỏi đấy.”
“Tôi đang thu thập nguyên liệu cho ấn bản năm 1923 đây,” O’Brien nói với Ernest. “Cậu có cái gì ngay ở đây không?”
Thật may là anh có. Anh lôi từ chiếc cặp da ra một bản sao nhăn nhúm của truyện ngắn về người bố nài ngựa, “Ông già tôi,” mà Licoln Steffens mới gửi lại. Anh đưa nó cho O’Brien rồi kể tóm tắt chuyện bị mất các tác phẩm đã viết. “Bởi thế cái này,” anh nói đầy kịch tính, “là toàn bộ những gì tôi còn lại. Chỉ bản thảo duy nhất này thôi, như một mảnh mũi tàu nhỏ nhoi của một con tàu đã mục nát dưới đáy đại dương.”
“Chà, hình ảnh đó rất thơ đấy,” O’Brien nói, rồi ông ta mang bản sao lên đồi để đọc.Khi ông ta đi rồi, tôi nói với Ernest, khẽ khàng hết mức, “Em ước gì anh không nói kiểu đó với O’Brien. Em thấy dạ dày nôn nao lên hết cả đây này.”
“Có lẽ là do đứa bé đấy.”
“Anh giận em đấy à?”
“Sao anh lại phải giận?”
“Anh không cho rằng em cố tình làm việc này đấy chứ?”
“Việc gì cơ, làm mất bản thảo ấy à?”
Tôi cảm giác như anh vừa tát vào mặt mình. “Không. Có bầu ấy.”
“Thế nào thì kết cục cũng như nhau thôi, không phải sao?”
Đến đó thì tiếng thì thầm của chúng tôi đã trở nên dữ dội hơn, và hai cặp vợ chồng kia đều rõ là chúng tôi đang tranh cãi rất ác liệt. Thế là họ bắt đầu kín đáo rút vào trong nhà.
“Không thể tin nổi là anh thật sự có ý đó,” tôi nói mà nước mắt nóng bỏng.
“Để anh kể cho em Strater đã nói gì nhé. Anh ấy nói không một nhà văn hay thậm chí một họa sĩ nào — không một ai đã làm ra thứ gì đó bằng cả tâm hồn — lại có thể để cái va li ấy lại trên tàu. Bởi vì họ biết nó có ý nghĩa như thế nào.”
“Nói thế thì độc ác quá đấy. Em cũng đau khổ vì những bản thảo đó chứ.”
Anh thở dài thật to rồi nhắm mắt lại. Khi mở mắt ra, anh nói, “Anh xin lỗi. Anh đã hứa với bản thân là sẽ không nói về chuyện đó nữa. Dù sao cũng chẳng ích gì.”
Tôi đùng đùng bỏ đi theo một ngả còn anh đi ngả kia, và mặc dù đến giờ ăn tối, ai nấy trong bữa tiệc đều có vẻ chăm chăm giả vờ rằng mình chẳng nghe lỏm được gì nhưng tôi biết rõ rành rành là họ đã nghe được, và tôi nghĩ tốt nhất là cứ nói thẳng ra.
“Chúng tôi muốn những người bạn rất tốt của mình ở đây trở thành những người đầu tiên biết chúng tôi sắp có em bé,” tôi vừa nói vừa với lấy tay Ernest. Anh không rút tay ra.
“Tốt quá,” Shakespear nói rồi đứng dậy nồng nhiệt ôm tôi. “Tôi đã nghĩ trông cô có vẻ đẫy đà hơn mà,” cô thì thầm vào tai tôi.
“Màn diễn hay quá,” Mike nói.
“Phải phải,” Pound đồng tình. “Đó là số phận hạnh phúc của một con khỉ.”
“Ezra!” Shakespear sắc giọng quát.
“Anh nói gì sai à?”
“Chúc mừng chị,” Maggie Strater nói rồi ôm tôi. “Lũ khỉ chúng ta phải gắn bó với nhau thôi.”
Chiều hôm sau, chúng tôi ngồi xem ba người đàn ông chơi tennis. Ernest chơi rất tệ, nhưng điều đó không ngăn cản anh chơi hết sức. Anh vung cây vợt rộng và mạnh, như một gôn thủ. Mike vụt một cú rất đẹp bay qua lưới, rơi xuống gần chân Ernest. Không đỡ được bóng nên anh chửi thề rất to và độc địa rồi quăng vợt xuống đất.
Maggie co rúm người lại. “Rồi dần dần anh ấy sẽ quen với ý tưởng về một đứa con thôi mà,” cô nói. “Mike cũng như thế đấy.”
“Dĩ nhiên là sẽ như thế,” Shakespear đồng tình. “Một lúc nào đó lòng kiêu hãnh sẽ thắng thế, rồi cậu ấy sẽ tin rằng tất cả là ý của cậu ấy.”
“Tôi không dám chắc đâu,” tôi nói.
Thật ra tôi đang có cảm giác rất kinh khủng trước cái cách Ernest kết nối chuyện bản thảo bị mất với đứa con sắp ra đời trong tâm trí anh. Nếu anh cảm thấy — dù chỉ trong góc xa xôi tối tăm nhất của tâm hồn — rằng tôi có khả năng hủy hoại công việc và khát vọng của anh, thì chúng tôi sẽ làm hòa thế nào đây? Niềm tin đã tan vỡ thì hiếm khi hàn gắn lại được, tôi biết điều đó, đặc biệt là với Ernest thì càng không. Một khi hình ảnh của ta trong anh bị hoen ố thì anh không bao giờ có thể nhìn ta theo cách khác nữa.
Tôi cảm thấy rất chán nản mãi cho đến khi Edward O’Brien lái xe xuống đồi và hết lời ca ngợi truyện ngắn của Ernest. Nó hay tuyệt và ông ta muốn xuất bản nó, mặc dù làm thế sẽ phá vỡ truyền thống của loạt tuyển tập này là chỉ chọn những tác phẩm đã được in trên tạp chí. Không chỉ vậy, ông ta còn muốn chọn nó làm chủ đề của ấn bản lần này và đưa vào lời giới thiệu của mình; ông ta ấn tượng với truyện ngắn đó mạnh đến vậy đấy. O’Brien chọn thời điểm không thể hoàn hảo hơn; ông ta đã đáp lại lời cầu nguyện của tôi, và cả của Ernest nữa. Sự tự tin của anh, mà gần đây thiếu vắng một cách đau đớn, đã có một lực đẩy mới, giờ đây đã có một thứ vững chắc để mà hướng tới, để mà trông đợi. Tất cả những nhân vật quan trọng đều sẽ đọc truyện ngắn của anh khi tuyển tập được xuất bản. Tên anh sẽ có ý nghĩa gì đó. Thế nghĩa là anh đã không lao động vất vả một cách vô ích.
Sáng hôm sau khi tôi thức dậy, Ernest ngồi bên bàn cạnh cửa sổ, và anh đang viết.Chúng tôi ở Rapallo thêm hai tuần nữa, và hai tuần ấy trôi qua đầy thành quả đối với cả hai. Dường như Ernest đã cảm thấy bớt bị đứa bé đe dọa hơn, có lẽ bởi từ ngữ đã quay về với anh, anh đã bắt được mạch của chúng. Tôi không còn quá lo lắng về tương lai nữa vì Ernest đã lại là chính mình, phấn chấn lên trước tất cả những điều anh muốn hoàn thành. Cuối cùng tôi cũng có thể hạnh phúc vì đứa bé. Nếu có gì làm hỏng trải nghiệm này thì đó là việc Ezra kéo tôi qua một bên khi chúng tôi chuẩn bị đi. “Cô biết tôi chưa bao giờ thích trẻ con rồi đấy. Đó là một vấn đề khác. Nhưng trong trường hợp này, với Hem, tôi cho rằng sẽ là sai lầm khủng khiếp nếu cô cứ cố biến cậu ta trở thành con người của gia đình hoàn toàn.”“Tôi thích anh ấy như hiện giờ mà. Chắc chắn ông phải tin tôi.”
“Dĩ nhiên. Đấy là bây giờ cô cảm thấy thế thôi. Nhưng hãy nhớ lời tôi, đứa con này sẽ thay đổi mọi thứ. Trẻ con luôn là thế. Hãy cứ khắc sâu điều đó trong đầu và cẩn trọng vào.”“Được rồi, Ezra, tôi hứa,” tôi nói, rồi đi về phía Ernest và con tàu. Pound là Pound và thích diễn thuyết, tôi chẳng coi trọng lời ông ta ngày hôm đó. Tôi quá sức lạc quan về mọi thứ nên chẳng lưu tâm đến bất kỳ lời cảnh báo nào, nhưng nhiều năm sau những lời nhận xét lúc chia tay của ông ta mới vọng lại trong tôi nhói buốt. Pound là Pound, nhưng riêng điều này ông ta đã hoàn toàn đúng.
Chú thích: (*) Henry Strater (1896-1987): thường được bạn bè gọi là Mike, một họa sĩ là bạncủa nhiều nhân vật nổi tiếng trong “thế hệ mất mát”.
(**)Một bài thơ dài chưa hoàn thiện được Ezra Pound viết trong khoảng từ 1915 đến 1962, gồm 120 đoạn, mỗi đoạn được gọi là một canto - khổ thơ.