HAI MƯƠI TƯ
Khi chúng tôi quay lại Paris vào đầu tháng Tư, tôi đã vô cùng sẵn sàng được về nhà. Cây cối vừa mới nở hoa, đường phố được rửa sạch và giăng đầy quần áo mới giặt; trẻ con chạy dọc những lối nhỏ rải sỏi trong vườn hoa Luxembourg. Ernest đang làm việc với cường độ cao, và mặc dù nhớ anh khi anh đi ra ngoài nhưng tôi cũng thấy vui hơn lúc ở một mình trước kia.Nghe có vẻ buồn cười, nhưng lần đầu tiên tôi có dự án của riêng mình. Hằng ngày tôi đi bộ thật xa cho khỏe người, cố ăn thật tốt và nghỉ ngơi thật nhiều. Tôi mua hàng thước hàng thước vải cotton trắng mềm và ngồi hàng tiếng đồng hồ dưới nắng khâu tay quần áo cho con. Tối đến, tôi đọc thư của Abélard và Héloise, một câu chuyện tình hợp với tôi hơn cặp đôi thời đại nhạc Jazz tan vỡ của Fitzgerald kia nhiều. Khi xuân dần chuyển vào đầu hạ thì tôi đã cảm thấy tràn trề hy vọng về tất tần tật mọi chuyện. Bụng tôi dày hơn và ngực tôi đầy hơn. Tôi rám nắng, khỏe mạnh và thỏa mãn — đẫy đà hơn, như Shakespear đã nói — và bắt đầu tin rằng cuối cùng tôi cũng khám phá ra mục đích của đời mình.
Khi không làm việc cật lực trong căn phòng trên đường Descartes, Ernest dành rất nhiều thời gian bên Gertrude. Dĩ nhiên bà đã tỏ ra rất ái ngại khi anh kể về vụ mất bản thảo, nhưng lại ít thông cảm với những lo lắng của anh về đứa con sắp tới.
“Đằng nào mà cậu chả có con. Cậu sẽ buộc phải chấp nhận thôi.”
“Tôi vẫn chưa sẵn sàng chút nào,” anh nói.
Gertrude nheo mắt nhìn anh, nói, “Tôi chưa từng thấy gã đàn ông nào sẵn sàng cả. Rồi cậu sẽ thấy mọi thứ ổn cả thôi.”
“Thế anh mong bà ấy sẽ nói gì?” tôi hỏi khi anh truyền đạt lại câu chuyện cho tôi.
“Anh không biết. Anh nghĩ có thể bà ấy sẽ cho vài lời khuyên.”
“Thế bà ấy có cho không?”
“Thực ra là không. Không gì ngoài “Đằng nào chả phải làm.”
“Đó là lời khuyên tuyệt hảo cho anh đấy. Đằng nào anh chả phải làm.”
“Em nói thì dễ. Em chỉ có mỗi việc cắt may quần áo trẻ con.”
“Việc đó và cả việc đẻ con nữa, cảm ơn anh nhiều nhé. Nó sẽ không từ trên trời rơi xuống đâu.”
“Phải,” anh lơ đãng nói, rồi quay lại làm việc.
Không lâu sau khi chúng tôi trở lại Paris, Jane Heap, biên tập viên tờ Little Review, viết thư đề nghị Ernest đóng góp gì đó cho số sắp tới. Trong số những phác thảo bị mất trong va li là một chùm tác phẩm ngắn được anh gọi chung là Paris, 1922. Tất cả đều bắt đầu bằng cụm “Tôi đã thấy”, vẽ lại những khoảnh khắc đáng nhớ và thường rất dữ dội mà anh đã chứng kiến hoặc đọc được trong năm qua. Một phác thảo khắc họa cú ngã đau đớn của con ngựa Chèvre d’Or ở Auteuil. Một phác thảo khác mô tả người tình Chile của Peggy Joyce tự bắn vào đầu mình vì cô không nhận lời lấy anh ta. Ai ai cũng theo dõi câu chuyện tuyệt vọng của cô đào ấy, nhưng cách nhìn của Ernest về nó sống động hơn bất thứ gì ta tìm được trên báo. Dù anh biết được câu chuyện qua lời người khác hay không, thì mỗi bài miêu tả vẫn đầy hình ảnh, khốc liệt và tuyệt đối thuyết phục. Ernest tin rằng anh chưa từng viết ra thứ gì sắc sảo hay mạnh mẽ hơn thế, và Gertrude đồng tình. Anh đang viết ra những cú đấm nốc ao.
“Có lẽ cậu không muốn nghe điều này đâu,” Gertrude nói, “nhưng tôi nghĩ việc cậu mất mọi thứ hóa ra lại là một điều may. Cậu cần được giải phóng. Được bắt đầu từ con số không và tạo ra thứ gì thực sự mới mẻ.”
Ernest trang nghiêm gật đầu, nhưng tôi biết anh đang thấy nhẹ lòng khủng khiếp. Tôi cũng vậy.
“Tôi muốn viết một chùm tác phẩm ngắn khác về Paris cho Jane Heap. Nhưng tôi không muốn chỉ hồi sinh lại những xác chết. Mới là mới. Tôi đang tính viết chúng thành các đoạn văn, để chúng bắt đầu động cựa thật sự.” Vừa nói anh vừa thận trọng quan sát gương mặt bà, như thể lời khích lệ của bà là thức ăn của anh vậy. “Mỗi đoạn sẽ không giống một phác thảo mà như một bức tiểu họa được lên dây cót và bước đi.”
“Hẳn rồi,” bà nói, và rất nhanh sau đó, anh đã sẵn sàng cho bà xem bản nháp khắc họa cảnh một đấu sĩ bị bò tót húc với sự mãnh liệt đầy hung bạo. Anh đặc biệt nóng lòng muốn bà nhận xét về nó vì cảnh tượng này dựa trên một câu chuyện mà chính bà đã kể cho anh về những trận đấu bò ở Pamplona. Chỉ đọc đoạn văn thôi, ta sẽ chẳng thể biết rằng anh chưa từng đến đó.
“Thật phi thường,” Gertrude nói. “Cậu đã tái tạo chính xác cảnh đó.”
“Thì đó là mục đích của tôi mà,” anh nói, rõ ràng rất hài lòng khi nghe lời khen. “Nhưng trước tiên tôi muốn xem một trận đấu bò hoạt động thế nào đã. Nếu đích thân đi thì tôi có thể thu thập chất liệu cho nhiều phác thảo hơn nữa. Mike Strater muốn đi và Bob McAlmon(*) cũng vậy. Bob nhiều tiền. Anh ta có thể bao trọn chuyến đi.”“Đi đi,” Gertrude nói.“Anh nên đi,” tôi đồng tình. “Mọi thứ đều chỉ theo hướng đó.”
Tối hôm đó khi chúng tôi về nhà, tôi hỏi Ernest liệu tôi có thể đọc tất cả các “bức tiểu họa” mà anh viết được cho tới thời điểm này không, và tôi chết sững trước một đoạn về quãng thời gian anh ở Thổ Nhĩ Kỳ. Câu chuyện lấy bối cảnh là đường Karagatch và miêu tả, giữa rất nhiều thứ khác, cảnh một phụ nữ đẻ con chẳng khác gì súc vật dưới trời mưa.
Tôi trả các đoạn văn lại, ca ngợi chúng lên tận mây xanh, vì chúng xứng đáng với điều đó, nhưng đồng thời cũng không thể không nói, “Anh không phải giấu việc mình sợ đến thế nào khi sắp có con. Nhất là không phải giấu em.”
“Chắc chắn là anh sợ rồi. Anh sẽ làm việc thế nào đây? Chuyện gì sẽ xảy ra với thời gian của chúng ta?”
“Không chỉ thế đâu. Em biết là anh lo cho em.”
“Một chút thôi.”
“Đừng lo anh nhé. Sẽ không có chuyện gì xấu xảy ra đâu.”
“Sao em biết được? Luôn có khả năng một điều gì đó đi chệch hướng. Anh đã tận mắt chứng kiến.”
“Rồi sẽ tốt đẹp thôi. Em có thể cảm nhận được điều đó.”
“Cũng thế cả, anh đang băn khoăn không biết liệu chúng ta có nên sinh em bé ở Toronto không. Anh có thể kiếm một công việc toàn thời gian ở tờ Star. Bệnh viện ở đó được cho là rất tốt, còn anh sẽ có một công việc ổn định. Chắc chắn chúng ta sẽ cần tiền.”
“Anh đã trở thành một ông bố tốt rồi đó sao,” tôi nói, rồi khẽ hôn lên môi anh.
“Anh đang cố mong muốn điều đó đây. Cố giam hãm tất cả những ý nghĩ làm xáo trộn nữa.”
“Và nạp vào càng nhiều sự sống càng tốt trước khi em bé ra đời?”
“Cả điều đó nữa, đúng vậy.”
Những tuần tiếp theo mang đến một cơn mưa những kế hoạch về Tây Ban Nha. Anh thường xuyên gặp Strater và Bob McAlmon trong các quán cà phê để lên lịch trình, nhưng không hiểu vì lẽ gì mà Ernest luôn trở về từ các cuộc gặp gỡ này trong trạng thái cáu kỉnh và tức giận với hai người kia. McAlmon là nhà thơ và bạn của cả Ezra và Sylvia. Cậu ta kết hôn với nữ văn sĩ Anh Annie Ellerman, người viết văn dưới bút danh Bryher (**). Rất nhiều người biết rằng Annie là người đồng tính, và rằng Bob thích đàn ông hơn phụ nữ. Cuộc hôn nhân đó chỉ là để lợi dụng nhau thôi. Dù có những lúc gián đoạn nhưng Annie quan hệ rất mật thiết với nhà thơ H.D., một “học trò” khác của Pound, và mặc dù điều này dường như không làm Bob bận tâm mảy may, nó lại làm Ernest bực mình. Tôi cũng không chắc tại sao lại thế. Vây quanh chúng tôi là đủ kiểu kết đôi kết ba mọi giới tính, vậy nên tôi không nghĩ điều khiến Ernest khó chịu lại là bản thân sự đồng tính luyến ái. Nhiều khả năng hơn đó là do sự phân phối quyền lực. Annie là một người được hưởng thừa kế. Cha cô, một trùm tư bản tàu biển, tình cờ lại là người giàu nhất nước Anh. Mặc dù Bob cũng có tiền riêng nhưng chẳng thấm tháp vào đâu so với tài sản Annie sở hữu, và người ta có cảm giác rằng Annie nắm đằng chuôi Bob, và rằng Bob cần cô nếu cậu ta định tiếp tục vận hành nhà xuất bản mới tinh của mình, Contact Editions. Bob phụ thuộc vào Annie, và một ngày nào đó Ernest có thể sẽ phụ thuộc vào Bob, nếu anh muốn tác phẩm được in. Contact Editions tuy mới nhưng đã tạo được dấu ấn vì quy mô lớn và chuyên tìm kiếm những tác phẩm càng tươi mới, càng sắc sảo càng tốt.
Biết rằng mình nên gây ấn tượng với Bob cũng đồng nghĩa với việc Ernest không tránh khỏi sức cuốn hút của việc làm mất lòng cậu ta. Đến lúc Bob, Ernest và Mike Strater đi Tây Ban Nha thì Ernest và Bob thậm chí còn gần như không nói năng với nhau câu nào. Chuyến đi trở nên khó xử về nhiều mặt. Bob (với sự giúp đỡ từ Annie) chi trả cho tất cả các hóa đơn, và điều này đã khơi gợi nên những cảm xúc tồi tệ nhất trong Ernest. Anh luôn chỉ trích người giàu và ghét cảm giác bị ép buộc. Sau này tôi nghe Mike kể rằng Ernest còn ngay lập tức đóng vai “chuyên gia” của chuyến đi, không ngừng thuyết giảng cho hai người kia. Anh mê đấu bò ngay từ giây phút đầu tiên. Trong những lá thư gửi tôi, anh chỉ nói về lòng can đảm của những đấu sĩ và cả của lũ bò. Toàn bộ cuộc đấu là một bi kịch vĩ đại và cảm động mà ta có thể xem và cảm nhận sát gần đến nỗi dựng cả tóc gáy.
Khi về đến nhà một tuần sau đó, anh tràn đầy nhiệt huyết. Anh tập những cú tung áo choàng qua người đầy kịch tính học được ở Ronda và Madrid bằng tấm khăn trải bàn của nhà.
Anh quay ra đứng song song với cái bàn, con bò duy nhất hiện hữu lúc ấy. “Có một vẻ điềm tĩnh không tưởng lúc người đấu sĩ quan sát con vật lao tới, chỉ tính xem anh ta sẽ phải làm gì để dụ con vật vào cho đúng chứ không một chút nghĩ đến mối hiểm nguy. Sự duyên dáng nằm ở đó. Và cả sự khó khăn nữa, dĩ nhiên.”
“Em rất muốn xem,” tôi nói.
“Có lẽ em sẽ thấy nó khó coi đấy,” anh nói.
“Có thể, nhưng nghe có vẻ như đó là một cảnh tượng mà em sẽ không muốn bỏ lỡ. Thậm chí biết đâu các trận đấu sẽ có ảnh hưởng tốt đến em bé,” tôi nói.
“Đúng, nó sẽ trở thành đàn ông đích thực trước cả khi chào đời.”
“Điều gì khiến anh chắc nó là con trai thế hả?”
“Thế nó còn có thể là gì nữa?”
Chúng tôi lên kế hoạch cùng nhau quay lại Tây Ban Nha vào tháng Bảy, tới lễ hội San Fermin ở Pamplona, nơi hè năm ngoái Gertrude và Alice đã đến. Nó được coi là trường đấu bò tốt nhất, thu hút những con bò khát máu nhất cũng như những đấu sĩ kỹ năng cao nhất. Mặc dù tôi chỉ thể hiện độc có một niềm hứng khởi trước viễn cảnh đó, Ernest vẫn nhất quyết chuẩn bị cho tôi sẵn sàng đón nhận bạo lực.
“Không phải ai cũng tiêu hóa nổi cảnh đó đâu,” anh nói. “McAlmon đã nốc brandy suốt khi xem trận đầu tiên. Mỗi khi con bò xông tới lũ ngựa là anh ta lại xanh mặt. Anh ta bảo không thể tưởng tượng nổi có ai lại tìm thấy cái gì để yêu thích ở trò này, và nếu có thì những kẻ đó loạn trí hết rồi.”
“Em không cho rằng hai người có thể là bạn được.”
“Có lẽ vậy, nhưng có vẻ như anh ta và Annie muốn in một tập truyện ngắn cho anh. Hoặc có thể là truyện ngắn và thơ.”
“Thật sao? Nếu anh ghét cậu ta đến vậy, sao anh còn muốn cậu ta làm quyển sách chứ?”“Phải có ai đó làm thôi. Giờ thì anh chỉ phải viết cái thứ chết tiệt đó.”
Cả Pamplona còn đang thức khi xe buýt của chúng tôi kềnh càng đi vào đô thị thành lũy bao quanh này lúc nửa đêm. Đường phố chen chúc những cơ thể đến độ tôi tự hỏi làm sao chiếc xe có thể nhúc nhích được đây, nhưng những vũ công dạt ra như làn sóng khỏi cỗ máy ầm ầm và rồi lại tụ vào khi chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi tiếp tục leo lên những con phố hẹp về hướng quảng trường công cộng, và khi đến nơi thì một loạt tiếng ồn và chuyển động ùa tới — vũ công xoay tròn, nhạc công gõ trống và thổi sáo có lam, pháo hoa nổ lộp bộp rất to trong làn khói trắng — đến nỗi chúng tôi suýt lạc mất hành lý. Khi hai đứa đã nắm chắc hành lý trong tay rồi tìm được khách sạn thì phòng Ernest đặt từ trước đó vài tuần đã bị cho thuê mất.Quay ra đường, Ernest bảo tôi đứng yên chờ anh đi tìm chỗ trọ. Tôi nhìn anh bị đám đông cuốn đi mà không mấy hy vọng anh sẽ tìm được phòng, thậm chí hy vọng anh sẽ tìm được đường về với tôi còn mong manh hơn. Bản thân các con phố dường như cũng đang chuyển động. Tôi dựa lưng vào một bức tường đá dày, cố đứng chôn chân tại chỗ khi các vũ công quay tròn lướt qua trong sắc xanh và trắng. Các cô gái mặc váy xòe rộng. Họ xoay quanh nhau, bật ngón tay tach tách, giậm những đôi giày gót đen trên nền đường rải sỏi. Tóc họ xõa ra tuyệt đẹp. Một vài người cầm trống prôvăng hoặc chuông, và mặc dù tôi thấy thứ âm nhạc này nghe thật lộn xộn, với tiếng tiêu tiếng trống inh tai khiến xương đầu gối tôi lẩy bẩy, nhưng những cô gái này dường như nghe rất rõ nhịp điệp và di chuyển theo nó một cách hoàn hảo, chân họ nhấc lên đúng nhịp, tay họ cong cong hai bên sườn. Cánh đàn ông mặc sơ mi xanh da trời với quần âu, cổ thắt khăn đỏ, cùng nhau khiêu vũ thành các nhóm lớn. Họ vui vẻ gọi nhau í ới, những tiếng gọi ngay lập tức bị chìm lấp đi. Toàn bộ cảnh tượng ấy không giống với bất kỳ thứ gì tôi từng thấy.
Bằng cách nào đó Ernest cũng đi qua được đám đông điên rồ này. Anh quay lại đón tôi, và mặc dù tất cả các khách sạn đều bị đặt trước, đã như thế vài tuần rồi, anh vẫn xoay xở kiếm được cho chúng tôi một phòng trong một căn nhà tư gần đó, sáu đêm với giá gấp đôi tiền thuê nhà mỗi tháng ở Paris.
“Nhiều vậy sao?” tôi nói, cảm thấy muốn bệnh trước số tiền ấy. “Chúng ta làm sao trả nổi chứ?”
“Hất cằm lên, bé con. Chúng ta sẽ trả bằng bản thảo. Anh cần phải ở đây. Anh cảm thấy điều đó một cách mạnh mẽ như thế đấy.”
Tôi không thể tranh cãi với bản năng của anh, vả lại tôi cũng đã kiệt sức. Chúng tôi lấy phòng và cảm thấy mình thật may mắn, nhưng rốt cuộc hóa ra ở trong phòng cũng chẳng khác gì ở ngoài phố cả đêm như tất thảy những người khác. Toàn thành phố đã đợi cả năm trời cho tuần lễ này, đêm hội này. Dường như họ có thể nhảy múa mãi mãi, và tôi thấy thật buồn cười khi chúng tôi tha thiết đến đây để thoát khỏi sự hỗn loạn ngày Bastille ở Paris trong khi ở đây cũng điên cuồng chẳng kém, nếu không muốn nói là còn tệ hơn.
Cuối cùng tôi cũng ra khỏi giường lúc gần sáu giờ sáng, biết rằng sẽ chẳng nghỉ ngơi gì được, rồi đi ra ban công. Trên con phố phía dưới tôi, vẫn khoảng từng ấy người giống đêm hôm qua, nhưng họ có vẻ tập trung và có định hướng hơn. Đã gần đến giờ bò chạy, nhưng tôi không biết điều ấy. Tôi chỉ biết có điều gì đó sắp xảy ra. Tôi đi vào trong và thay đồ thật khẽ, nhưng dù sao Ernest cũng đã tỉnh sau giấc ngủ rất nông, và đến lúc chúng tôi cùng nhau quay lại ban công thì có tiếng đại bác nổ bùm. Chúng tôi thấy làn khói trắng của khẩu súng tản ra phía trên quảng trường công, rồi đám đông tụ tập ở đó bắt đầu hát. Phòng chúng tôi nằm ở vị trí tuyệt đẹp. Từ nơi đứng bên lan can, chúng tôi có thể nhìn và nghe thấy mọi thứ. Một nhóm gồm cả đàn ông lẫn các cậu bé hát một bài tiếng Tây Ban Nha nghe rất nồng nàn. Tôi chẳng hiểu gì cả, nhưng cũng không thật sự cần phải hiểu.
“Em đoán bài hát nói về hiểm nguy,” tôi nói với Ernest qua tiếng ầm ĩ.
“Mối hiểm nguy hạnh phúc,” anh nói. “Họ háo hức muốn được thử thách bản thân. Xem họ có thể chiến thắng nỗi sợ hãi không.”
Anh biết lũ bò sắp được thả ra. Gertrude và Alice đã thuật lại vô cùng chi tiết tất tầt tật những gì họ đã chứng kiến ở lễ hội này năm ngoái, và cả Mike Strater cũng vậy. Nhưng Ernest không thỏa mãn với việc nghe tả; anh muốn được trực tiếp trải nghiệm. Và nếu không có tôi đi cùng, tôi biết anh sẽ không đứng trên ban công đâu. Anh vô cùng muốn xuống dưới quảng trường kia, chuẩn bị tinh thần để chạy.
“Viva San Fermin,” đám đông hô to. “Gora San Fermin!”
Tiếng đại bác nổ cùng lúc lũ bò được thả, và chúng tôi thấy những người chạy túa ra rất nhanh dọc theo những con phố lát sỏi bên dưới. Ai cũng mặc áo trắng, quần âu, thắt khăn đỏ tươi quanh bụng và cổ. Vài người còn cầm theo tờ báo để xua lũ bò đi, và mặt tất cả đều lộ vẻ mê dại. Theo sau đám người chạy, sáu con bò rầm rầm phóng qua với sức mạnh khiến căn nhà dưới chân chúng tôi rung chuyển. Móng guốc của chúng vang dội trên đường lát đá sỏi, và những cái đầu đen to đùng chúi xuống thấp, đằng đằng sát khí. Vài người mệt quá phải lồm cồm bò qua rào chắn dọc hai bên phố. Những người đứng xem chạy tới giúp họ trốn thoát, nhưng đồng thời sự trông chờ của đám đông rằng một kẻ xấu số nào đó không đủ nhanh nhẹn mềm dẻo cũng rõ ràng đến mức gần như có thể sờ nắm được.
Không có ai bị húc hôm đó, ít nhất thì chúng tôi cũng không thấy ai, và tôi nhẹ cả người khi lũ bò được an toàn trong trường đấu. Toàn bộ lễ nghi này chỉ kéo dài vài phút thôi, nhưng tôi nhận ra mình đã nín thở suốt lúc ấy.
Chúng tôi dùng điểm tâm với café con leche (***)ngọt ngào ngon tuyệt và bánh cuộn đặc ruột, sau đó tôi cố chợp mắt một chút trong phòng trong lúc Ernest đi dạo phố phường Pamplona để ghi chú lại những điều anh thấy. Tất cả với anh đều thật nên thơ, khuôn mặt những ông già xứ Basque nhăn nheo chằng chịt, cụ nào cũng đeo mũ lưỡi trai màu xanh lam giống nhau. Thanh niên trai tráng thì đội mũ rơm rộng vành, đeo những bầu rượu khâu tay trên vai, tay và lưng nổi cơ bắp cuồn cuộn vì lao động nặng nhọc. Ernest trở về phòng trong tâm trạng phấn khích vì tất cả, anh kể về bữa trưa về ăn, cá hồi sông giòn rụm tuyệt hảo nhồi hành và thịt muối rán.
“Món cá ngon nhất anh từng ăn. Thay đồ đi. Em phải nếm nó mới được.”
“Anh thật lòng muốn quay lại đúng cái quán cũ để ngồi nhìn em ăn sao?”
“Nhìn là nhìn thế nào. Anh sẽ ăn tiếp chứ.”
Chiều muộn hôm đó, khi trận đấu bò đầu tiên bắt đầu, chúng tôi ngồi ở vị trí tốt, hàng đầu tiên ngay sát vòng đấu. Ernest đã trả thêm để đảm bảo chúng tôi có thể quan sát trận đấu thuận lợi nhất, nhưng đồng thời anh vẫn rất bảo bọc tôi.
“Quay đi ngay,” anh nói khi kỵ mã đầu tiên xiên cây trường lao có ngạnh vào vai con bò, máu tuôn xối xả. Anh nhắc lại câu đó khi con ngựa đầu tiên bị húc rất mạnh, và nhắc lại lần nữa khi đấu sĩ trẻ tuổi tài ba, Nicanor Villalta, giết chết con bò của mình bằng sự chính xác khéo léo. Nhưng tôi không quay đi.
Chúng tôi ngồi ở hàng ghế đầu cả chiều hôm đó, chứng kiến cái chết của sáu con bò, và trong suốt quãng thời gian ấy tôi nhìn, lắng nghe và cảm thấy toàn bộ cuộc đấu cuốn hút vô cùng. Giữa các trận đấu, tôi thêu một tấm chăn cotton trắng theo kiểu chữ thập cho con.
“Em làm anh ngạc nhiên đấy,” Ernest nói lúc gần cuối ngày.
“Vậy ư?”
“Em không được nuôi dạy để biết cách xem những thứ như thế này. Anh tưởng em sẽ sợ bủn rủn chân tay. Anh xin lỗi, nhưng đúng là anh đã tưởng vậy.”
“Trước khi xem em không chắc mình sẽ cảm thấy thế nào, nhưng giờ thì em có thể nói với anh. An toàn và khỏe mạnh.”
Thêu đến cuối hàng, tôi thắt một nút chỉ gọn gàng theo cái cách mẹ đã dạy hồi tôi còn nhỏ. Khi lướt đầu ngón tay trên lớp chỉ thêu, hài lòng với tác phẩm của mình, tôi không thể không nghĩ mẹ sẽ sốc đến thế nào khi thấy tôi ở cái nơi bạo lực, sôi nổi thế này mà không rúm ró đến một mảy may, lại còn vượt qua nó như một kẻ can đảm bẩm sinh.
“Khi còn bé xíu, em từng rất dũng cảm. Em đã kể anh nghe rồi mà.”
Anh gật đầu.
“Khi em đánh mất đức tính ấy, em nghĩ gia đình em đã rất vui mừng.”
“Anh không biết là em đã từng đánh mất đức tính ấy thật chưa. Lúc này anh đang thấy nó trong em.”
“Em mạnh mẽ hơn vì con đấy. Em có thể cảm thấy thằng bé động cựa khi tiếng sáo vút cao và đám đông gào thét. Hình như con thích chúng thì phải.”
Ernest mỉm cười với niềm tự hào hiển hiện, rồi anh nói, “Gia đình có thể là môi trường xấu xa đồi bại, nhưng gia đình của chúng ta sẽ không thế.”
“Điều gì mình biết thì con mình cũng sẽ biết. Chúng mình sẽ rất trung thực và không giữ lại bất cứ điều gì.”
“Và chúng mình sẽ không đánh giá thấp con.”
“Hoặc khiến nó sợ hãi cuộc đời.”
“Đấy sẽ là một nhiệm vụ khó nhằn phải không?” Ernest nói, và chúng tôi phá lên cười vui vẻ, cảm thấy phấn chấn lên vì những ước nguyện của mình.
Khuya hôm đó, khi một lần nữa chúng tôi lại không ngủ được vì pháo hoa, tiếng trống và màn nhảy múa riau-riau, Ernest nói, “Đặt tên con là Nicanor thì sao?”
“Thằng bé sẽ trở thành một đấu sĩ bò tót giỏi với cái tên đó. Sẽ không khác được đâu mà.”
“Chúng mình đã rất vui, em nhỉ?” Anh ôm tôi thật chặt trong vòng tay.
“Đã kết thúc đâu anh.”
“Ừ, nhưng anh đoán anh sẽ phải ổn định khi em bé chào đời. Anh sẽ phải kiếm miếng ăn, rồi làm bố, và sẽ không có thời gian mà nghĩ về những điều mình muốn nữa.”
“Năm đầu tiên thì có lẽ vậy, nhưng đâu phải là mãi mãi.”
“Thế thì hy sinh một năm vậy. Rồi sau đó thằng bé sẽ phải phó mặc số phận cùng với lũ còn lại chúng ta.”
“Nicanor,” tôi nhắc lại. “Nghe kêu anh nhỉ?”
“Ừ, nhưng thế không có nghĩa là thằng lỏi con sẽ có hơn một năm của anh đâu đấy.”
Chú thích:
(*) Robert Menzies McAlmon (1895-1956): nhà văn, nhà thơ, nhà xuất bản người Mỹ.
(**) Bryher (1894-1983) là bút danh của tiểu thuyết gia, nhà thơ, người viết hồi ký và biên tập viên tạp chí Annie Winifred Ellerman, một trong những nhân vật độc đáo ở Paris trong những năm 1920.
(***)Tiếng Tây Ban Nha: cà phê sữa.