HAI MƯƠI LĂM
Tôi thèm ăn dưa vàng và một miếng phô mai thật ngậy, thèm cà phê và mứt ngon và bánh xốp. Chỉ nghĩ về những thứ ấy thôi tôi đã đói đến độ không chợp mắt nổi.
“Bánh xốp,” tôi nói với cái lưng đang cuộn lại của Ernest lúc trời gần sáng. “Nghe có ngon lành không cơ chứ?”
Khi thấy anh chẳng động cựa gì, tôi nhắc lại, lần này to hơn, rồi đặt tay lên lưng anh đẩy một cái nhẹ nhàng thân thiện.
“Ôi, vì Chúa,” anh kêu lên, lăn khỏi giường. “Nó biến mất rồi.”
“Cái gì biến mất?”
Anh ngồi trên mép tấm đệm dày, gãi gãi một bên đầu gối. “Những từ ngữ thích hợp cho bản phác thảo.”
“Ôi, em xin lỗi,” tôi nói.
Tôi nhìn anh thay đồ rồi đi vào bếp. Vài phút sau tôi nghe thấy tiếng cà phê sôi, ngửi mùi cà phê khiến tôi càng thêm đói. Tôi nghe tiếng anh rót cà phê, rồi lại nghe tiếng ghế kéo ra ken két khi anh ngồi vào bàn. Im lặng.
“Bé con?” tôi gọi, vẫn nằm trên giường. “Anh nghĩ sao về bánh xốp hả?”
Anh rên rỉ rồi đẩy ghế ra phía sau. “Lại thế nữa rồi.”
Tháng ngày đang bao vây lấn át chúng tôi. Em bé dự tính sẽ chào đời vào cuối tháng Mười và chúng tôi sẽ lên tàu đi Canada cuối tháng Tám. Nghĩa là chúng tôi có sáu đến bảy tuần để tìm một căn hộ và làm ổ. Khi thời điểm đó ngày càng gần, Ernest làm việc cật lực và mỗi lúc một thêm lo lắng. Anh sợ mình sẽ không còn thời gian để viết nốt những “bức tiểu họa” cho Jane Heap và tờ Little Review. Anh đang cùng lúc viết năm đoạn văn mới, mỗi đoạn miêu tả một khía cạnh của đấu bò. Từ xưởng sáng tác về nhà, thường thì anh cần uống đến vài ly liên tiếp rồi mới có thể kể cho tôi nghe về công việc, việc thì vẫn tiến triển tốt thôi, nhưng có vẻ như nó đang rút hết mọi thứ anh có.
“Anh đang cố làm nó sống động,” anh nói. “Cố bám sát trận đấu, và không đưa cảm nhận riêng của mình vào. Không nghĩ gì đến bản thân, chỉ nghĩ đến những gì đã diễn ra trong thực tế. Đó mới là nơi ẩn chứa cảm xúc thực sự.”
Đây là một trong những ý niệm mới của anh về việc viết lách, và bởi vì những đoạn văn ngắn này sẽ là nơi thử nghiệm nó, nên anh đang sống chết cố viết sao cho đúng. Tôi không mảy may nghi ngờ rằng chúng sẽ thành công và hoàn hảo, nhưng ngay lúc này đây, thật khó cầm lòng khi phải chứng kiến anh làm việc quá sức như vậy.
Anh cũng đang đầu tắt mặt tối sửa bản in thử cho Bob McAlmon. Kể cả sau quãng thời gian mếch lòng đôi bên ở Tây Ban Nha, Bob vẫn giữ lời hứa về đề nghị xuất bản một cuốn sách cho Ernest thông qua Contact Editions. Tập sách sẽ lấy nhan đề Ba truyện ngắn và mười bài thơ, và mặc dù Ernest đang reo mừng vì phấn khích trước viễn cảnh về cuốn sách, anh vẫn lo mình sẽ không sửa bản in kịp thời gian. Anh làm việc đến khuya dưới ánh nến; và cuối cùng, khi anh đã hoàn thành các ghi chú và gửi tất cả lại cho McAlmon qua thư thì cũng là lúc nói lời tạm biệt.
Trong một loạt những bữa tối buồn bã, chúng tôi gặp nhà Strater, nhà Pound, Sylvia, Gertrude và Alice — mỗi lần gặp là một lần hứa chúng tôi sẽ quay lại sau một năm, khi em bé đã sẵn sàng để đi xa.
“Nhớ là không lâu hơn đâu nhé,” Pound nói đầy vẻ u ám. “Cảnh tha hương làm vướng bận tâm trí lắm đấy.”
“Cũng không hẳn là tha hương, phải không?” Ernest nói.
“Thế thì sự quên lãng vậy,” Pound nói, hơi có vẻ chùn lại.
“Một từ nhẹ nhàng hơn chỉ khi ông không đặt nó vào Kinh Cựu Ước,” Ernest làu bàu.
Mười ngày sau, chúng tôi lên tàu.
Chúng tôi đến Quebec vào đầu tháng Chín, và đến lúc tới Toronto thì đã có một lá thư đầy nhiệt tình đang chờ sẵn từ John Bone cùng một thư khác của Greg Clark, một người bạn phóng viên của Ernest hồi xưa, nồng nhiệt chào đón chúng tôi đến thành phố. Dường như tất cả đều báo điềm may, nhưng khi lên trình diện ở tòa sạn vào mồng 10 tháng Chín, Ernest mới biết Bone sẽ không phải sếp trực tiếp của mình như anh đã hy vọng, mà là Harry Hindmarsh, trợ lý của chủ bút tờ Star. Chỉ sau một cuộc gặp gỡ thôi Ernest đã biết mối quan hệ này sẽ không tốt đẹp gì. Hindmarsh không những nặng nề trong ngoại hình mà còn cả trong lời nói lẫn hành động; gã thích quăng sức nặng của mình đi khắp nơi.
“Ngay lập tức, hắn định giá anh,” Ernest nói khi quay về phòng chúng tôi thuê ở khách sạn Selby. “Anh chưa kịp nói đến ba từ thì hắn đã quy ngay cho anh cái tội tự mãn.” Anh nhăn nhó đi đi lại lại trong phòng. “Hắn thì sao? Nếu không cưới con gái chủ bút, chắc hắn đang quét vỉa hè.”
“Em rất tiếc, bé con à. Em chắc chắn ông ta sẽ thay đổi quan điểm và nhận ra anh tuyệt vời thế nào,” tôi an ủi.
“Đừng hòng. Có vẻ như hắn chỉ chăm chăm cố tình đối xử với anh như một thằng phóng viên mới vào nghề. Anh sẽ không được đề tên dưới tiêu đề bài báo đâu, mà hắn lại còn cử anh đi tỉnh nữa chứ.”
“Bao giờ?”
“Tối nay. Tới Kingston để tường thuật một vụ vượt ngục nào đó. Chỉ năm sáu giờ tàu chạy thôi, nhưng anh không biết câu chuyện này sẽ giữ anh ở lại đó bao lâu.”
“Hindmarsh có biết con mình có thể chào đời bất cứ lúc nào không?”
“Anh không cho rằng hắn quan tâm.”
Tôi tiễn Ernest đi bằng một nụ hôn và một lời đảm bảo được nhắc đi nhắc lại rằng mọi việc sẽ tốt đẹp cả. Anh bắt tôi thề sẽ tìm thêm người đến giúp, và tôi đã làm theo. Greg Clark có một cô vợ rất đáng mến, Helen, cô đã nhiệt tình đồng ý khi tôi nhờ cô giúp tìm nhà. Tiền vẫn luôn là mối lo của chúng tôi như trước nay vẫn vậy, thậm chí giờ còn đáng lo hơn vì chúng tôi đang dành dụm từng đồng xu cho em bé. Chúng tôi không đủ khả năng ở những khu dân cư đẹp đẽ mà cô gợi ý, nhưng chúng tôi cũng tìm được một chỗ tương đối trên phố Bathurst. Đó là một căn hộ ven đường sắt trên tầng bốn, có bồn tắm chân kiềng và một giường xếp âm tường trong căn phòng ngủ mà, lạ thay, bị kẹp giữa bếp và phòng khách. Mặc dù bản thân căn hộ thiếu đi hơi ấm và sức cuốn hút, nhưng nó trông xuống một hẻm núi thuộc phần đất nhà Connable. Ernest quen Ralph và Harriet Connable từ ngay sau chiến tranh, khi anh tới Toronto thử tìm một công việc ở tòa báo. Ralph sở hữu chuỗi cửa hàng đồng giá năm xu Woolworth của Canada và theo như chúng tôi biết thì giàu như một vị thần. Cả hai vợ chồng đều rất tốt với tôi ngay khi họ biết chúng tôi là hàng xóm, còn tôi thì vui mừng vì có ai đó, bất kỳ ai, ở gần bên khi tôi tới sát ngày sinh nở.
Ernest từ Kingston trở về với vẻ mệt mỏi, cáu kỉnh, rồi chỉ vài ngày sau lại đi tường thuật một câu chuyện khai thác mỏ ở lòng chảo Sudbury, dễ phải xa gấp đôi từ Toronto đến Kingston. Anh còn gần như chẳng có thời gian thăm nom tán thưởng căn hộ.
“Ôi, Mèo ơi. Anh thấy mình thật tệ vì sẽ không có ở đây để giúp em ổn định chỗ ở.”
“Có mấy việc phải làm đâu anh. Em sẽ thuê người vận chuyển.”
“Anh không thể không nghĩ chúng mình thật dại dột khi tới đây. Lúc nào em cũng phải ở một mình. Anh đầu tắt mặt tối làm việc để làm gì kia chứ? Những mẩu tin được chăng hay chớ ở những nơi khỉ ho cò gáy sao? Thật thảm hại.”
“Em biết anh đang phải làm việc quá sức, bé con à. Nhưng một khi con ra đời, mọi thứ sẽ có ý nghĩa.”
“Có Chúa chứng giám, anh mong là em đúng.”
“Em đúng mà. Rồi anh sẽ thấy,” tôi nói. Rồi hôn tạm biệt anh.
Tôi chẳng thoải mái gì khi nói những câu xoa dịu như thế quá nhiều, thật vậy, nhưng tôi thực sự tin rằng việc đến một nơi vô cùng lạnh lẽo cô đơn như Toronto sẽ xứng đáng một khi con chúng tôi chào đời suôn sẻ khỏe mạnh. Trong lúc đó, tôi cố hết sức biến khoảng không gian mới này thành tổ ấm. Chúng tôi mang từ Paris sang các thùng gỗ đóng quần áo, bát đĩa, tranh ảnh bên trong. Tôi thuê một phụ nữ lau dọn và một người gác cổng trông có vẻ già cả đẩy đồ của chúng tôi lên tầng bốn bằng xe kéo. Bàn ghế thì chúng tôi chẳng có mấy, vậy nên trong vài tuần đầu tiên, khi Ernest đi ngang dọc khắp bang Ontario như một tay bán hàng lưu động, thì tôi cắm chốt trên chiếc giường xếp âm tường, mình quấn chăn để chống chọi với nhiệt độ ngày càng hạ và đọc nốt những lá thư của Abélard và Héloïse
Tôi đang tha thiết mong có thứ làm mình xao nhãng, nên thật dễ đắm chìm vào từ ngữ và câu chuyện của họ. Có những ngày tôi chỉ đứng dậy để pha trà hoặc nhét chăn dưới khe cửa chính và bệ cửa sổ để ngăn gió lạnh luồn vào. Tôi cũng viết thư về Paris, cho những người bạn chúng tôi nhớ, và về nhà ở Mĩ. Fonnie ráng hết sức để vui mừng cho tôi vì đứa bé sắp chào đời, nhưng chị đang gần mức suy sụp về nhiều mặt. Gần đây Roland bị suy nhược thần kinh và phải điều trị trong một bệnh viện tâm thần ở Massachusetts. Đó là một cơ sở được đánh giá cao, Fonnie nói trong thư, như mọi bệnh viện kiểu thế. Nhưng lũ trẻ thì hoang mang và cứ hỏi liệu bố có bao giờ về nhà nữa không. Tôi không biết phải nói gì với họ. Tôi thấy rất thương tất cả bọn họ, nhưng không ngạc nhiên khi một chuyện như thế có thể xảy ra. Giữa hai anh chị đã luôn có quá nhiều bất ổn, như giữa chính bố mẹ tôi. Và khi căng thẳng quá mức như vậy trong một thời gian dài, thì phải có thứ gì đó đứt gãy. Làm sao mà khác được?Tôi cũng viết cho cha mẹ Ernest. Anh quá bận nên chẳng trả lời được thư gửi cho mình, nhưng sự thiếu rộng lượng của anh với cha mẹ mình còn phức tạp hơn thế. Anh không bao giờ muốn họ, đặc biệt là Grace, can thiệp quá sâu vào cuộc sống của mình. Khi anh đi Paris, tôi nghĩ anh đã cảm thấy lần đầu tiên trong đời anh có tự do để tái tạo hoàn toàn bản thân. Cha mẹ anh nhắc anh nhớ về thuở ban đầu của mình, cái thuở anh thà vứt bỏ tất cả. Tôi hiểu anh cần được độc lập thế' nào, nhưng chúng tôi ở đây, chỉ còn cách ngày em bé chào đời có vài tuần, vậy mà Ernest chưa nói lời nào với họ. Tôi nghĩ họ có quyền biết, và tôi vẫn luôn bảo anh thế khi anh tạt qua nhà hết sức nhanh chóng giữa những lần đi công tác.
“Anh sẽ làm nếu em cứ khăng khăng vậy,” cuối cùng anh cũng chấp thuận. “Nhưng đó là một sai lầm. Họ sẽ đến đánh hơi xung quanh như lũ sói vẫn làm ấy.”
“Anh không thực sự có ý như vậy phải không?”
“Quỷ tha ma bắt anh đi nếu anh có ý khác. Em tưởng tượng xem, đời nào mẹ anh lại không can thiệp vào mọi chuyện liên quan đến đứa bé, ném bùm bụp những quan điểm với lời khuyên của bà ấy vào chúng ta? Chúng ta không cần bà ấy. Chúng ta không cần ai cả.
“Mẹ và bố Ed sẽ rất mong có cơ hội giúp đỡ mình.”
“Thì cứ để họ giúp, nhưng anh sẽ không xin một xu nào.”
“Em hiểu,” tôi nói, nhưng lại thấy biết ơn vô cùng khi họ đáp lại bức điện của Ernest hết sức nhanh chóng và hào phóng bằng cách gửi hàng rương nhét đầy những món quà cưới mà chúng tôi để trong kho nhà họ, và cả đồ đạc nữa, từ căn hộ hồi xửa hồi xưa của chúng tôi trên phố Dearborn. Không thứ gì trong số ấy đặc biệt đẹp đẽ, nhưng có những thứ đồ của riêng mình ở xung quanh khiến cho nơi ở của chúng tôi trên phố Bathurst trở nên đỡ tạm bợ hơn. Và tất cả đến nơi vừa kịp lúc.
Hindmarsh lại cử Ernest đi xa, vào tuần đầu tiên của tháng Mười, lần này là để tường thuật chuyến viếng thăm của thủ tướng Anh David Lloyd George ở thành phố New York.
“Cứ như là trả thù riêng vậy,” tôi nói khi nhìn anh xếp đồ cho chuyến đi.
“Anh đoán là mình chịu được,” Ernest nói. “Nhưng còn em thì sao?”
“Bác sĩ bảo chúng ta còn thời gian đến cuối tháng, thậm chí có khi đến tận đầu tháng Mười một. Lúc ấy thì anh về đây rồi.”
“Đây là chuyến cuối cùng,” anh nói, đoạn đóng sập chiếc va li mới. “Anh sẽ nhờ John Bone nói lý với Hindmarsh.”
“Nếu là lời trực tiếp của Bone thì ông ta sẽ phải chấm dứt, đúng không?”
“Y tưởng là thế. Chăm sóc mèo con thật tốt nhé.”
“Em hứa.”
“Và cả mèo mẹ nữa.”
“Vâng, bé con à, nhưng anh phải nhanh lên thôi. Họ sẽ không dừng tàu chờ anh đâu.”Vài ngày sau, hôm mồng 9 tháng Mười, bà Harriet Connable ghé qua thăm tôi kèm theo lời mời ăn tối.
“Cháu muốn đi lắm,” tôi đáp. “Nhưng giờ cháu to quá chẳng mặc vừa thứ gì nữa. Cháu sẽ phải quấn khăn trải bàn mất thôi.”
“Cô chắc chắn cháu quấn khăn trải bàn cũng rất đẹp, cưng à,” bà nói, miệng cười ấm áp. “Cô chú sẽ cho xe đến đón cháu lúc tám giờ nhé.”
Rốt cuộc, tôi rất mừng vì bà đã khăng khăng mời tôi đến. Cả chiều hôm ấy tôi cứ có cảm giác sao đó trong người mà tôi tự cho là chứng khó tiêu. Dĩ nhiên là không phải vậy. Bản thân cơ thể tôi đã sẵn sàng, nhưng tôi cố lờ đi. Tôi nghĩ nếu mình cứ giữ bình tĩnh và không làm gì quá sức, em bé sẽ chờ đến khi Ernest về mới ra đời. Tôi xúc từng thìa xúp ngon tuyệt lên một cách lặng lẽ như một con chuột, rồi ngồi trên chiếc trường kỷ bọc nhung lộng lẫy nhà Connable lắng nghe bà Harriet chơi bản “I’ll Take You Home Again, Kathleen” vui tươi mà thậm chí còn chẳng dám nhịp chân. Nhưng tất nhiên, dù tôi có sẵn sàng hay không thì đứa bé cũng sắp chào đời, và khi buổi tối dần trôi qua thì biểu hiện mỗi lúc một rõ hơn.“Hadley cưng à, chú nghĩ là cháu đang thấy không được khỏe lắm thì phải,” Ralph Connable lên tiếng khi ông không thể lịch sự phớt lờ vẻ mặt căng thẳng, nghiêm trang của tôi nữa.“Cháu hoàn toàn khỏe mạnh mà,” tôi đáp, bướng bỉnh đến giây phút cuối cùng, nhưng rồi tôi bắt đầu khóc ngay khi nói xong câu đó, cảm xúc vỡ òa tràn qua con đập tôi đã cẩn thận xây lên. Cơn đau đã trở nên quá mức chịu đựng. Tôi gập người vì đau và bắt đầu run lên bần bật.“Ôi, cô bé tội nghiệp,” Harriet thốt lên. “Không phải lo gì cả. Chúng ta sẽ đảm bảo cháu được chăm sóc thật tốt.”
Họ lái xe đưa tôi tới bệnh viện, Harriet vỗ về bàn tay tôi, phát ra những âm thanh xoa dịu, trong lúc Ralph quả quyết tăng tốc. Phố phường tỏa sáng nhè nhẹ dưới ánh đèn đường thắp bằng gas.
“Cô chú cố liên lạc với ai ở tờ Star được không ạ? Chắc phải có cách báo cho Ernest biết chứ.”
“Dù có phải chuyển núi dịch sông chúng ta cũng sẽ làm,” bà Harriet đảm bảo với tôi. “Cô nghĩ vẫn còn một ít thời gian.”
Ấy thế nhưng không còn thời gian nữa. Nửa tiếng sau, tôi đã thay đồ bệnh viện nằm trên bàn mổ, xung quanh là một bác sĩ và vài y tá, và bắt đầu rặn đẻ. Đó là lý do vì sao chúng tôi lại đến Toronto — để có những chuyên gia được đào tạo bài bản và đầy năng lực giám sát mọi việc. Nếu ở Paris, chắc tôi sẽ có một bà đỡ đun nước trên chính cái bếp của tôi để khử trùng dụng cụ. Ngay cả ở Mỹ, các bác sĩ cũng chỉ vừa mới bắt đầu thực hiện việc đỡ đẻ ở bệnh viện thôi. Hồi còn ở Michigan, cha Ernest vẫn còn thức dậy lúc đêm hôm để đáp lại các cuộc gọi, và mặc dù biết phụ nữ bao lâu nay vẫn sinh con ở nhà — cả mẹ tôi, dĩ nhiên, và mẹ Ernest nữa — nhưng sinh ở bệnh viện thế này tôi thấy an toàn hơn nhiều. Đặc biệt là khi tôi rặn mãi mà không có kết quả.
Tôi căng thẳng trong suốt hai tiếng đồng hồ, cho đến khi cổ đau nhức còn đầu gối thì run lên vì cố quá. Cuối cùng họ cho tôi ngửi thuốc tê. Tôi hít vào cái mùi như sơn mới ấy trong lúc họ kéo mặt nạ che miệng và mũi tôi, mùi hăng xông lên làm cay xè hai mắt. Sau đó thì tôi chẳng hay biết gì nữa, mãi cho đến khi mù mờ tỉnh lại để thấy y tá đang chìa ra cho tôi một cái bọc quấn chặt. Đây là con trai tôi, quấn trong hàng lớp vải len xanh. Tôi đắm đuối nhìn nó qua những giọt lệ hạnh phúc. Nó thật hoàn hảo, từ những vòng xoắn hồng hào của đôi tai xinh xẻo và đôi mắt nhắm nghiền, đến mái tóc nâu sẫm với hai bên mai lún phún lông tơ. Tôi thất vọng vì Ernest đã bỏ lỡ mất giây phút con chào đời, nhưng ở nơi đây, an toàn, mạnh khỏe và tuyệt đối diệu kỳ, chính là con trai anh. Chỉ điều ấy là quan trọng mà thôi.
Khi Ernest cuối cùng cũng đến nơi vào sáng sớm hôm sau, thở hổn hển và hết sức xúc động, thì tôi đang ngồi trên giường cho con bú.
“Ôi Chúa ơi,”
Ernest thốt lên rồi bật khóc. Anh đứng ngay bên ngưỡng cửa mà thổn thức không che giấu, tay ôm mặt.
“Anh đã lo cho em kinh khủng, bé con à. Anh nhận được điện lúc ngồi trên xe dành cho phóng viên, bức điện nói rằng con đã chào đời khỏe mạnh, nhưng không có lấy một từ về em.”
“Bé con ngọt ngào của em. Anh cũng thấy là em khỏe mà. Mọi chuyện đều trôi chảy, và hãy đến đây mà ngắm cậu chàng này. Trông thằng bé có tuyệt vời không kia chứ?”
Ernest băng qua phòng đến bên tôi, len lén ngồi trên mép tấm đệm.
“Trông nó bé nhỏ quá đi mất. Em có sợ sẽ làm điều gì sai không?”
Anh đặt một ngón tay lên bàn tay nhỏ còn nổi gân của con.
“Lúc đầu em cũng sợ, nhưng thực ra con rất chắc khỏe. Em nghĩ xét cho cùng thì các trận đấu bò cũng có ảnh hưởng lên con đấy. Con nhanh như một đấu sĩ giỏi vậy.”
“John Hadley Nicanor Hemingway. Thằng bé đẹp tuyệt vời. Và em cũng phải thế nào đấy thì mới vượt qua chuyện này trôi chảy như vậy, nhỉ?”
“Em thấy khỏe đến ngạc nhiên, nhưng còn anh, bé con à. Trông anh kinh quá đi thôi. Anh không ngủ trên tàu à?”
“Anh đã cố ngủ, nhưng anh có linh cảm kinh khủng rằng em đang gặp nguy hiểm.”
“Em đã rơi vào tay những người tuyệt vời. Cô chú Connable tỏ ra rất quan tâm và giúp đỡ em rất nhiều. Chúng mình nợ họ nhiều lắm.”
“Có lẽ xét cho cùng chúng ta đã đúng khi đến Toronto,” Ernest nói.
“Dĩ nhiên rồi. Em đã bảo anh là rồi tất cả sẽ có ý nghĩa mà.”
“Anh mệt quá đến mức muốn gục xuống đây này.”
“Thế thì ngủ đi thôi.” Tôi chỉ vào một cái ghế ở góc phòng.
“Hindmarsh sẽ thắc mắc anh đang ở đâu cho mà xem.”
“Để ông ta thắc mắc. Anh lên chức bố rồi.”
“Em có tin nổi không?”
Tôi cười với chính mình và không nói gì, trong lúc anh cuộn mình dưới tấm chăn và thiếp ngủ say. Hai người đàn ông, tôi thỏa mãn nghĩ thầm. Và cả hai đều là của tôi.