← Quay lại trang sách

HAI MƯƠI SÁU

Chớm trưa hôm ấy, Ernest gửi vung vãi điện tín khắp nơi thông báo mọi chuyện trôi chảy tốt đẹp ra sao. Anh tỏ ra tự hào thái quá về việc tôi sinh con rất nhanh, đến cả tôi cũng tự hài lòng vì bản thân mình nữa là. Quả thật tôi cũng được các bác sĩ và thuốc tê giúp đỡ, nhưng tôi cũng đã kiên cường trong suốt thử thách ấy như một nhà vô địch về kìm nén cảm xúc, trong khi Ernest đang ở cách xa hàng trăm dặm.

Anh đi làm, chuẩn bị tinh thần đối mặt với những lời quở trách của Hindmarsh, nhưng chuyện còn tệ hơn dự đoán của anh. Hindmarsh không chờ Ernest trong văn phòng mình mà sỉ nhục anh trước mặt mọi người, nói rằng lẽ ra anh nên nộp bài trước khi đến bệnh viện. Thật nực cười, dĩ nhiên là vậy, nhưng tối hôm đó Ernest thuật lại với tôi, sau khi đã hâm nóng lại toàn bộ câu chuyện với Greg Clark trong một quán rượu với chẳng biết bao nhiêu ly bourbon, anh vẫn tức tối và giận dữ.

“Toronto chết rồi. Chúng ta không thể ở đây nữa.” Rượu cũng không làm anh bình tĩnh hơn là bao, và tôi lo y tá trực sẽ vào đuổi anh ra trước khi tôi được nghe hết chuyện.

“Thật sự không cứu vãn gì được nữa hả anh?”

“Còn khuya. Cả hai đều tức điên lên. Hắn không giữ ý giữ tứ gì nữa, tên cục súc ấy, còn anh thì văng ra những thứ mà chắc người ta còn phải bàn tán nhiều năm nữa.”

“Ôi trời, bé con. Thế ông ta sa thải anh à?”

“Hắn thuyên chuyển anh sang tờ Weekly. Nói thế' không có nghĩa là anh nhận. Em nghĩ khi nào thì mình có thể đi lại được?”

“Vài ngày nữa là em khỏe thôi, nhưng con thì phải nhiều tháng nữa mới đi biển được. Chúng ta đành tiếp tục chịu đựng vậy.”

“Anh có thể giết chết tên khốn đó. Làm thế có lẽ sẽ giải quyết được vấn đề.”

“Nhưng không được lâu đâu.”

Anh nhăn mặt, kéo ghế ken két trên sàn rồi ngồi phịch xuống.

“Thế tay cự phách tí hon đâu rồi? Anh muốn nhìn thằng bé thêm lần nữa.”

“Nó đang ngủ trong phòng trẻ. Anh cũng nên ngủ nữa. Về nhà đi, bé con. Sáng mai mình sẽ đối mặt với chuyện này.”

“Đối mặt với cái gì? Anh đã bảo em là nó chết rồi.”

“Đừng nghĩ về chuyện đó nữa. Cứ đi về đi, và uống ít soda nữa nhé. Không thì anh sẽ thức dậy với cái đầu đau như búa bổ đấy.”

Chúng tôi đã không lao về Paris ngay lập tức — nhưng chỉ là do chúng tôi không thể. Con chúng tôi thật sự còn quá bé để đi một chuyến như vậy, vả lại hai vợ chồng cũng cạn kiệt tiền tiết kiệm sau vụ di chuyển vừa rồi. Chúng tôi gần như phá sản, với một đống hóa đơn bệnh viện. Chỉ còn cách cố thủ và chấp nhận — “như một con chó cái,” câu nói yêu thích của Ernest. Anh đồng ý thuyên chuyển, và dù không làm việc trực tiếp dưới trướng Hindmarsh nữa, anh vẫn cảm giác thấy cái bóng của ông ta. Mỗi khi bị phân công làm một nhiệm vụ ngớ ngẩn, anh lại tự hỏi liệu Hindmarsh có đứng đằng sau không — chẳng hạn cái lần anh bị cử tới sở thú Toronto để chào mừng một con công trắng mới đến.

“Một con công, bé con à. Họ đang âm mưu giết anh đây mà. Chết nhục, kiểu chết kinh tởm nhất.”

“Có lẽ vậy,” tôi nói. “Nhưng họ không thể. Anh quá mạnh mẽ mà.”

“Anh không dám chắc đâu.”

Mùa đông đến Toronto mang theo những trận tuyết thổi bạt về hai ngả, đe dọa quật ngã chúng tôi. Nếu mùa đông Paris ẩm ướt và xám xịt, thì mùa đông ở đây trắng đến nhức nhối và dai dẳng. Gió dễ dàng xuyên thủng áo và chăn của chúng tôi, tìm đường chui vào mọi ngóc ngách của căn hộ, nơi tôi và con cố thủ bên cái lò sưởi. Tôi đun nước để giữ ẩm không khí và bắt đầu phải khoác cái áo choàng to đùng của Ernest khi cho con bú. Tôi không đưa thằng bé ra ngoài một tí nào và thuê một người giúp việc trông nó khi phải đi mua sắm. Tối đến, sau khi bóng đêm đã sụp xuống, Ernest mới lếch thếch về nhà, và lúc nào trông anh cũng mệt lử, kiệt quệ. Anh rất giỏi khoản ồ lên thán phục những thành tựu mới của thằng bé khi tôi tường thuật lại cho anh nghe — nó đã cười với tôi khi tắm; nó nhấc đầu lên như một nhà vô địch — nhưng hồi ấy Ernest khó mà vui cho được.

“Cứ kiểu này thì anh không biết mình sẽ sống sao cho qua một năm nữa,” anh nói.

“Nghĩ thì có vẻ không thể, em biết. Nhưng khi mình già yếu và run lẩy bẩy thì một năm thế này sẽ trôi qua trong chớp mắt thôi mà.”

“Thậm chí không phải là vì nỗi nhục phải hăm hở viết những câu chuyện dưới tầm mình đâu. Thế không là gì cả. Mà là bởi anh chẳng được viết những thứ của riêng anh tí nào, mà đó lại là tất cả những gì anh hằng mong muốn. Anh cảm giác như các chất liệu trong mình đang bị ôi thiu đi. Nếu không sớm viết chúng ra thì anh sẽ mất chúng mãi mãi.”

“Thế thì thức khuya mà viết ngay đi. Em sẽ pha ít cà phê đặc cho anh.”

“Anh không thể. Anh quá mệt chẳng nghĩ được gì. Đúng là đôi khi cảm hứng có bật lên vào buổi sáng, nhưng ngay khi anh cố viết ra được bất cứ điều gì thì con lại khóc, hoặc anh lại phải đi làm. Đến cuối ngày thì chẳng còn từ ngữ nào sót lại. Chưa hết, ở đây chúng ta cách xa mọi thứ quá. Anh chẳng biết ai đang viết cái gì, hay điều gì mới là quan trọng.”

“Phải, nhưng anh đã kết giao được với vài người bạn tốt đấy thôi. Anh mến Greg Clark. Thật may.”

“Anh mến Greg thật, nhưng anh ấy không chơi đấm bốc, cũng chẳng biết gì về đua ngựa. Mà anh cũng chưa bao giờ thấy anh ấy say.”

“Không phải ai cũng có tửu lượng khá như anh đâu, bé con à.”

“Nhưng anh vẫn không thể tin tưởng một gã mà anh chưa từng thấy say xỉn.”

Khi tháng Mười một chuyển thành Mười hai, tâm trạng của Ernest mỗi lúc một thêm tồi tệ đến mức đáng lo. Anh ngủ không ngon, và việc con thức đêm chỉ càng khiến chuyện tệ hơn. Các cuốn Ba truyện ngắn và mười bài thơ đã đến, Ernest gửi vài bản cho Ezra, Gertrude và Sylvia, vài bản về cho gia đình ở Oak Park — rồi anh đợi những lời ca tụng. Anh lùng sục báo chí mỗi ngày, nóng lòng chờ một bài bình luận, nhưng chẳng có lấy một lời bóng gió nào về sự tồn tại của quyển sách. Nếu thế giới không biết về quyển sách, thì liệu việc nó đã được xuất bản là có thật hay không? Anh có một ấn bản tờ Little Review của Jane Heap đăng các “bức tiểu họa” cuộc đấu bò tót, và đôi khi anh vừa lật qua các trang tạp chí vừa chau mày.

“Anh không chắc cái người đã viết ra những thứ này với anh là một. Quỷ tha ma bắt, anh chẳng viết được cái quái gì.”

Tôi không thể nói thẳng với anh suy nghĩ của mình, rằng anh đang bi kịch hóa mọi chuyện, bởi anh thực sự cảm nhận một cách sâu sắc rằng anh đã mất đời sống viết lách của anh thật rồi. Anh cần tôi giữ cho anh ấm áp, cho anh cảm giác được yêu, được ràng buộc chắc chắn với mặt đất; anh cần công việc để cảm thấy ôn hòa. Việc ấy tôi không thể giúp anh. Tôi chỉ có thể dõi theo, lòng bồn chồn không yên vì cuộc sống của chúng tôi nặng gánh âu lo ở vào một thời điểm mà lẽ ra chúng tôi phải đang rất hạnh phúc.

“Chuyển đến đây thật là một sai lầm kinh khủng,” anh nói sau khi về nhà một tối nọ, trong tâm trạng hết sức thê thảm.

Tôi không thể chịu đựng nhìn anh đau khổ lâu hơn nữa.

“Anh nói đúng,” tôi bảo. “Chuyển đến đây là một sai lầm. Chúng ta sẽ quay về Paris và anh có thể cống hiến hết thảy cho việc viết lách của anh.”

“Mình lấy đâu ra tiền chứ?”

“Em không biết. Mình cứ về thôi.”

“Quỹ ủy thác của em chỉ trả có hai ngàn mỗi năm. Không có thu nhập từ anh thì anh không hiểu chúng ta sẽ xoay xở ra sao.

“Nếu anh không viết được, thì con và em sẽ thành gánh nặng với anh. Anh sẽ căm ghét chúng em. Làm sao mình có thể sống như thế?”

“Chúng ta đã bị trói chân trói tay rồi. Chắc chắn thế.”

“Mình hãy đừng nghĩ về việc này theo kiểu đó. Đây có thể là một cuộc phiêu lưu lắm chứ. Một canh bạc lớn của chúng ta. Biết đâu rốt cuộc chúng ta lại được bạc.”

“Anh chẳng biết mình sẽ làm gì nếu không có em nữa, bé con à.”

“Mua vé thôi. Em sẽ đánh điện cho bố mẹ anh hỏi xin tiền. Họ muốn giúp mà.”

“Họ muốn ép anh thì có. Anh không nhận đâu.”

“Thế thì đừng nhận. Còn em thì có, vì con.”

“Thế nếu anh viết một loạt bài cuối cho tờ Weekly thì sao? Anh có thể hủy hoại bản thân mà viết thêm bảy hay mười bài nữa, rồi xin nghỉ. Với số tiền đó cùng một ít từ Oak Park, có lẽ chúng ta sẽ có một ngàn để mang theo. Một ngàn cùng một lời cầu nguyện.”

“Làm thế được đấy.”

Thế là sau mồng một tháng Giêng năm 1924, ngay khi nghĩ con mình đã có thể đi lại an toàn, chúng tôi lên tàu hỏa đi New York, rồi lên chiếc tàu thủy Antonia thẳng hướng nước Pháp. Trước đó chúng tôi đã bắt đầu gọi con là Bumby vì thằng bé rất tròn và chắc, như một chú gấu bông. Trên giường ngủ của tàu, tôi quấn chặt chăn quanh thằng bé, nói chuyện với nó, để nó nghịch tóc tôi, trong lúc trên boong, Ernest sẽ tìm bất cứ ai để bắt đầu bâng khuâng tâm sự về Paris.

Tôi sẽ ở lại Toronto một năm hay năm năm cũng được, nếu phải làm thế để có một tổ ấm tốt đẹp cho Bumby, nhưng tôi sẽ không mất mát theo cùng một cách như Ernest. Có những người đàn ông có khả năng nén lòng lại và chịu đựng một thời gian, nhưng Ernest thì có thể sẽ hoàn toàn đánh mất mình ở đó. Ở Paris phía trước kia, chẳng ai đoán được chúng tôi sẽ sống ra sao, nhưng tôi không thể cứ lo lắng chuyện đó. Giờ đây Ernest cần tôi mạnh mẽ cho cả hai, và tôi nhất định sẽ mạnh mẽ. Tôi sẽ tằn tiện, sẽ có gì dùng nấy, sẽ không than thân trách phận chút nào, vì xét cho cùng đó là lựa chọn của tôi. Tôi đang chọn anh, nhà văn, ở Paris. Chúng tôi sẽ không bao giờ sống cuộc sống tầm thường thêm một lần nữa.