← Quay lại trang sách

HAI MƯƠI BẢY

Tôi biết chúng tôi đã định đi một năm,” Ernest nói với Gertrude lúc chúng tôi tới thăm căn hộ của họ lần đầu sau khi về, “nhưng ở Canada thì bốn tháng cũng tương đương với một năm.”“Cậu đã hết nợ với báo chí, đó là điểm cốt yếu,” Gertrude nói. “Đã đến lúc dồn hết sức, ngay lúc này, để viết thứ mà số phận đã định sẵn cho cậu.”

“Tôi sẵn sàng rồi, thề có Chúa,” anh đáp, rồi rót cho mình thêm một li rượu lê nữa.

Tôi quan sát Alice trong lúc hai người tiếp tục nói chuyện theo cái cung cách đó, người này lấy sự quả quyết và nhiệt tình của người kia làm nguồn dưỡng chất cho mình. Alice có vẻ căng thẳng và khép mình, tôi tự hỏi có phải bà không vui khi thấy Ernest quay lại; phải chăng bà đã quen với việc có Gertrude cho riêng mình khi chúng tôi đi. Cứ cho là luôn có người quanh quẩn bên Gertrude mong được bà chú ý và khen ngợi, nhưng bà và Ernest khi bên nhau lại tạo ra một xúc cảm mãnh liệt — gần như thể họ là chị em song sinh với một ngôn ngữ riêng, hết sức chú mục và lắng nghe dường như chỉ duy nhất người kia. Tôi cũng cảm thấy điều đó, và cho dẫu đôi khi thấy tổn thương vì mối liên kết giữa họ, hiếm khi tôi nhớ được cảm giác cô đơn là như thế nào nữa. Con tôi cần tôi, phản ứng trước mọi lời nói hành động của tôi. Thằng bé quay về hướng có giọng tôi, thích nhịp tay tôi đu đua ru nó ngủ nhất, thích cái cách tôi vỗ về xoa lưng khi nó tỉnh giấc giữa đêm. Tôi quan trọng với thằng bé, và với cả Ernest nữa. Ngay lúc này, tôi khiến mọi thứ vận hành.

Việc làm mẹ có thể vắt kiệt sức ta, điều này là chắc chắn. Lúc nào tôi cũng thiếu ngủ, và đôi khi chẳng còn sức mà gội đầu hay ăn bất cứ thứ gì phức tạp hơn bánh mì phết bơ. Nhưng khi tôi cho Bumby bú, tay thằng bé nắm chặt áo tôi, ánh mắt mềm dịu, sâu thẳm dán chặt vào mắt tôi, như thể tôi là trung tâm vũ trụ của thằng bé, thế là tôi lại tan chảy. Và khi Ernest về nhà sau một ngày làm việc dài với cái vẻ như muốn nói với tôi rằng anh đã cô độc xiết bao và trong tâm trí anh, tôi là người không thể thiếu. Anh cần tôi, và cần cả Bumby nữa; không có chúng tôi, anh không thể thoát ra khỏi chính bản thân anh và cảm thấy mình lại toàn vẹn.

Cuộc sống gia đình có tác dụng vô cùng rõ rệt với chúng tôi khi chúng tôi còn lại một mình vào mỗi cuối ngày, tái kết nối và nâng đỡ lẫn nhau. Nhưng nó lại là của hiếm đối với cái đất Paris phóng túng này. Gertrude và Alice rất thương Bumby. Họ tặng thằng bé một món đồ chơi sột soạt lấp lánh ánh bạc và một đôi ủng len. Đến lễ rửa tội của thằng bé, họ mang đến một chai sâm banh rất ngon, chúng tôi uống cùng với bánh ngọt, hoa quả khô và mứt hạnh nhân, và Gertrude thậm chí còn đồng ý làm mẹ đỡ đầu. Nhưng cơ hồ không phải người bạn nào cũng biết phải làm gì với chúng tôi, giờ đây khi chúng tôi có một đứa trẻ bám đuôi. Pound và Shakespear vẫn đến nhà chúng tôi uống rượu đêm khuya hoặc hẹn gặp ở quán nếu chúng tôi tìm được ai trông Bumby, nhưng Pound đã tuyên bố rất rõ rằng ông ta không chào đón trẻ con vào xưởng sáng tác. Không phải vì ồn ào hay sợ chúng làm lộn tung lên, mà vì nguyên tắc.

“Chỉ là tôi không tin bọn trẻ con,” ông nói. “Không có ý xúc phạm đâu Hadley.”

Ông đã giúp chúng tôi tìm căn hộ thứ hai ở Paris — không phải một nhiệm vụ dễ dàng. Đồng đô la đang dần mất giá so với đồng franc, một điều chúng tôi đã ngu ngốc không hề liệu trước. Trước kia chúng tôi thuê nhà rất rẻ; chúng tôi định cứ tiếp tục như thế, vì giờ không chỉ có hai mà có tới những ba miệng ăn — nhưng giá thuê nhà giờ đây đã tăng vọt. Cuối cùng, khi chúng tôi tìm được một căn hộ khả dĩ thì giá thuê đã gấp ba lần căn hộ ở Cardinal Lemoine. Nhưng vẫn phải chi thôi. Chúng tôi nuốt nước miếng mà giao tiền nhà tháng đầu tiên, đặt xe đẩy của Bumby trong sân cạnh đống than, và gọi đây là nhà.

Đó là căn hộ cạnh xưởng cưa, trên đường Notre-Dame- des-Champs, và chẳng bao lâu sau vài người bạn của chúng tôi đã dần quen gọi nó là “gác xép thợ mộc”. Tiếng ồn và bụi bặm trong khoảnh sân chất gỗ xẻ bên dưới đôi lúc vượt quá sức chịu đựng, nhưng vị trí của căn hộ này tốt hơn nhiều so với phòng chúng tôi thuê phía trên sàn khiêu vũ. Nó gần nhà Gertrude và Alice, gần vườn hoa Luxembourg, mà chỉ cách đại lộ Montparnasse và nhiều quán cà phê hay ho chỉ một quãng ngắn.

Ernest từng thấy khinh bỉ các nhà văn làm việc ngoài quán, cho rằng họ là đám rởm đời chỉ muốn được người ta chú ý, nhưng giờ thì chính anh cũng hay lui tới những chỗ ấy. Một phần cũng vì lý do thực tế thôi. Anh cần yên tĩnh, mà Bumby thì bắt đầu mọc răng và rất hay quấy. Nhưng khi bắt đầu làm việc hằng ngày ở quán Closerie des Lilas, anh ngạc nhiên thấy mình thích thế này hơn là một mình một phòng, đổ mồ hôi chịu đựng trong im lặng, như anh thường nói. Ngồi ngoài quán cũng ấm hơn và vui hơn nữa. Bạn bè có thể tìm anh nếu muốn, và luôn có ai đó thú vị để tán chuyện hoặc uống cùng khi đã xong việc viết lách của ngày.

Đôi khi anh nói về việc bắt tay viết một cuốn tiểu thuyết khác, nhưng vẫn chưa nảy ra ý tưởng thích hợp nào. Mỗi ngày anh một hiểu ra bản nháp bị mất theo va li cùng các bản thảo khác không phải cuốn tiểu thuyết tốt gì cho cam, dù cho anh có đầu tắt mặt tối vì nó ra sao, muốn nó là cuốn sách hoàn hảo thế nào. Dẫu vậy, anh vẫn lo ngại chưa dám một lần nữa đâm đầu vào một dự án gì quá lớn và mất thời gian như vậy. Anh sẽ chờ, và trong lúc chờ anh sẽ viết truyện ngắn.

“Một truyện ngắn,” anh nói, “dành cho mọi điều anh biết. Thật sự biết, từ tận xương tủy ấy.”

Anh nói vậy khiến tôi tự hỏi thứ chính tôi thực sự biết theo ý anh là gì, và rồi chỉ có thể trả lời rằng đó là Ernest và Bumby, là cuộc sống của chúng tôi bên nhau. Đó là một ý tưởng lỗi thời đến hổ thẹn, tôi biết, và nếu tôi thú nhận điều này với bất kỳ người phụ nữ nào trong các quán cà phê ở Montparnasse, tôi sẽ bị tiếng cười đuổi theo đến tận ngoài phố. Lẽ ra tôi phải có ý tưởng và tham vọng của riêng mình, phải hết lòng khao khát trải nghiệm chính những điều mới mẻ ở đủ mọi kiểu. Nhưng tôi chẳng khao khát gì; tôi bằng lòng.

Thứ xuất hiện lấp đầy tôi không chỉ có mục đích sống thôi. Ngày tháng của tôi phong phú và có ý nghĩa hơn. Bumby thật xinh đẹp, và hằng ngày khi hai mẹ con đi dạo, hai lần mỗi ngày, chúng tôi thường phải đứng lại tán gẫu với những người hâm mộ thằng bé. Tiếng Pháp của tôi vẫn ngắc ngứ như thường lệ, nhưng một em bé vui vẻ là một lực đẩy hoàn hảo ngay cả với các cuộc hội thoại chủ yếu là một chiều. Tiếng ê a của thằng bé khiến hai mẹ con thu hoạch biết bao nhiêu là táo lê ở chợ làm quà, thậm chí thi thoảng khi tôi đưa con đến các quán cà phê để dùng bữa cùng Ernest, Bumby cũng chiếm được niềm yêu mến của tất cả mọi người. Vài người bạn của chúng tôi có lẽ cũng không biết phải nói hay làm gì, nhưng những người lạ thì trăm người như một, thích thằng bé mê mệt.

Mùa xuân năm đó hai vợ chồng Pound lại đi nghỉ ở Rapallo như thường lệ, nhưng thậm chí dù xa xôi như vậy, Ezra vẫn kiếm được cho Ernest một công việc với Ford Madox Ford, làm phó tổng biên tập tờ Transatlantic Review. Ford có một văn phòng tối tăm chật chội trên bến tàu Quai d’Anjou, và đó chính là nơi Ernest hướng tới vào một ngày đầu tháng Hai, trên đôi giày cũ mòn, khoác chiếc áo vét sờn rách và trong tâm trạng dễ nổi khùng. Anh không muốn kiếm tiền mà muốn có kinh nghiệm biên tập và các mối quan hệ. Có điều anh không thể để Ford biết điều đó, vì anh không chịu đựng nổi việc mình không ở thế thượng phong, nhất là khi thế thượng phong là điều bất khả. Cuốn tiểu thuyết Anh lính cừ của Ford đã nhận được nhiều sự quan tâm đáng kể. Ông cũng đã viết thêm những cuốn khác và xuất bản các tác phẩm của Yeats, Thomas Hardy, Joseph Conrad và nhiều người khác trong một tạp chí ông sáng lập trước đó tên là English Review. Chừng đó đã đủ tệ rồi, thế mà Ford lại còn là một quý ông nhiều tiền và con nhà dòng dõi, một sự kết hợp mà Ernest chưa bao giờ có đủ kiên nhẫn chịu đựng. Sau cuộc gặp, anh trở về nhà miệng lẩm bẩm rằng gu của Ford thụt lùi xa đến mức gã đó thể nào cũng sẽ ngã giập mông.

“Thế nghĩa là ông ta không tân tiến. Sao tất cả mọi người lại phải hiện đại chứ? Em có thế đâu.”

“Đúng, mèo con ạ, em không tân tiến. Nhưng em xinh đẹp và tốt bụng, và lại còn là một bà mẹ ngoại hạng. Còn gã Ford này thì đầy những định kiến cá nhân, mà gã còn vừa nói vừa thở khò khè. Ghê đến nỗi khiến ta tưởng như mỗi từ vừa phát ra phải vùng vẫy bơi qua phổi gã mới tới được mồm.”

“Trời đất. Thôi thì hãy nói với em là anh đã nhận công việc này rồi đi.”

“Dĩ nhiên là anh nhận rồi.” Anh cười rõ tươi và nham hiểm, với tay ra cù cù chân Bumby.

“Em tưởng anh điên chắc?”

Khi gặp Ford, tôi lại có phần mến ông, ngay cả sau tất cả những điều Ernest đã nói. Ông và người tình, họa sĩ Stella Bowen, mời chúng tôi tới ăn trưa, và tôi vui mừng nhận thấy họ cũng có em bé, một cô bé đáng yêu tên Julie cỡ tuổi Bumby. Vì muốn giữ lịch sự với các vị chủ nhà nên tôi không đem Bumby theo, nhưng tôi bảo Stella rằng lần tới tôi sẽ đưa thằng bé đến cùng. Cô nồng nhiệt ủng hộ ý kiến này, cũng như nhiệt tình trong mọi chuyện khác nữa — thết chúng tôi một bữa trưa bốn món ngon tuyệt và duyên dáng cuốn hút tôi bằng chất giọng Úc quyến rũ. Ford thì hồng hào mập mạp, mái tóc vàng lưa thưa và để ria. Thoạt đầu tôi thực sự băn khoăn không hiểu làm thế nào mà Ford, đã khá đứng tuổi rồi, lại tán được một phụ nữ đáng yêu như Stella, nhưng chẳng bao lâu sau ông đã bộc lộ một cung cách vô cùng lịch lãm và nói chuyện với một vẻ hết sức cuốn hút về tất cả những điều ông quan tâm, bao gồm Stella, rượu ngon, xúp kem, và văn học. Suốt bữa ăn, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ông giúp đỡ những nhà văn trẻ như Ernest tìm hướng đi. Tôi biết Ernest ước gì không cần đến sự giúp đỡ của Ford hay của bất cứ ai, nhưng sự thật là anh vẫn cần.

“Anh có thể mang lại nhiều điều cho tạp chí này,” Ernest nói khi chúng tôi chào tạm biệt và đi về nhà. “Ông ta nên thấy may mắn vì có anh.”

“Em mến ông ấy.”

“Còn phải nói.”

“Anh nói thế là ý gì?”

“Chả ý gì cả.” Anh vấp phải một viên đá bị trật khỏi vỉa hè và đá văng nó xuống đường.

“Em thấy ông ta trông có giống con hải mã không?” “Hơi giống,” tôi công nhận.

“Lại còn tiếng khò khè nữa chứ?”

“Cái tật đó hơi nặng nhỉ? Stella nói ông ấy bị như thế trong một vụ tấn công bằng khí ga hồi chiến tranh.”

“Thế thì anh có thể tha thứ cho ông ta cái tội ấy, nếu ông ta không trịch thượng quá như thế.”

“Anh có cần phải mến ông ấy đâu. Cứ làm việc của anh là được.”

“Nhiều việc phải làm lắm. Thật may, anh nghĩ vậy.” “May quá đi ấy chứ, bé con. Rồi anh sẽ thấy.”

Ford và Stella hay tổ chức những bữa tiệc trà đàm đạo thơ văn ở Quai d’Anjou vào các thứ Năm. Tôi thường đến ngồi cùng, đưa cả Bumby theo nữa, xe đẩy của thằng bé được đặt ở bất cứ chỗ nào có ánh nắng tràn qua cửa sổ. Chính trong những buổi tiệc trà như thế mà tôi đã lần đầu gặp Harold Loeb. Trông Harold có vẻ trạc tuổi Ernest và rất điển trai — cao, mũi thẳng và sắc nét, khuôn cằm mạnh mẽ và những sóng tóc đen vuốt cao. Ngay khi Ford giới thiệu chúng tôi với nhau, chúng tôi đã bắt đầu nói chuyện thoải mái về nước Mỹ.

“Tôi không hẳn là nhớ nhà,” anh nói. “Nhưng dường như tôi không thể ngừng mơ về nó. Chẳng biết là tại sao nữa.”

“Chắc vì nó là một phần trong anh,” tôi nói. “Như là bị niêm phong vào đó, phải không?”

“Dùng từ hay lắm,” anh nói, rồi chăm chăm nhìn xuống tôi bằng đôi mắt xanh trong nồng nàn. “Cô cũng là nhà văn à?”

“Không hề.” Tôi cười lớn. “Nhưng tôi nghĩ mình viết cũng không quá tệ đâu. Tôi luôn yêu sách và cảm giác như chúng đang nói chuyện với mình. Tôi chơi piano từ bé, nhưng không chuyên tâm mấy.”

“Tôi không chắc mình viết văn có chuyên tâm không,” Harold nói. “Thực ra là, tôi cố hết sức để tỏ ra hài hước.”

“Tôi cho rằng anh sẽ rất hài hước nếu anh để tâm.”

“Cô thật tốt bụng quá khi nói vậy. Đây, hãy qua mà bảo Kitty. Cô ấy nghĩ tất cả những lời nói đùa của tôi đều nhạt như nước ốc.”

Chúng tôi cùng bước tới bên kia phòng để gặp bạn gái anh, Kitty Cannell, một cô gái hết sức xinh đẹp, mảnh dẻ, duyên dáng và lấp lánh ánh vàng từ đầu đến chân.

“Kitty từng là vũ công chuyên nghiệp,” anh nói. “Cô sẽ thấy ngay nếu cô ấy di chuyển để đi lấy thêm rượu.”

“Ôi Harold,” cô nói. “Xin anh đừng cố tỏ ra mình cuốn hút nữa.”

“Thấy chưa Hadley. Tôi phải hết sức nghiêm nghị khi ở bên Kitty, nếu không cô ấy sẽ mất kiên nhẫn với tôi ngay.” Anh làm mặt xấu và Kitty phá lên cười, khoe hàm răng đẹp. “Nhưng cũng có lúc,” Harold nói tiếp, “cô ấy lại làm tôi hoàn toàn sửng sốt, cô gái đáng yêu này.”

“Đó là lý do anh luôn giữ em bên mình đó.”

“Vì thế, và cả vì đôi mắt cá chân của em nữa, em yêu ạ.”

Đến cuối buổi chiều thì tôi đã hoàn toàn bị cả Harold lẫn Kitty cuốn hút, và hết sức vui vẻ nhận lời khi họ mời Ernest và tôi hôm sau tới ăn tối ở quán Nègre de Toulouse.

“Đó là một chốn bí mật tuyệt vời của người bản địa,” Kitty nói. “Hai người sẽ không thấy nó trong mấy quyển sách hướng dẫn du lịch đâu.”

“Tôi thề sẽ không hở một lời với ai,” tôi nói, sau đó bắt đầu băn khoăn không biết nên ăn mặc ra sao. Tối hôm sau, mãi đến lúc sắp đi rồi mà tôi vẫn chưa biết phải mặc gì. Tôi sinh Bumby được năm tháng. Lúc này tôi đã bơi trong mấy bộ đồ bầu rồi, nhưng vẫn chưa thể chui vừa quần áo trước kia.

“Chẳng ai quan tâm đâu,” Ernest nói. “Em mặc bao tải đi cũng vẫn thu hút được mọi người thôi.”

“Không đâu. Anh thì có thể chẳng để tâm gì đến quần áo.”

Tôi ra dấu về phía cái áo nỉ cùng bộ vét vá víu, đồng phục anh diện suốt đêm ngày mà không bận tâm gì đến thời trang hay thậm chí là phép lịch sự.

“Nhưng người đời nói chung đều để tâm và muốn tạo ấn tượng tốt đấy.”

“Em đã tạo ấn tượng tốt rồi còn gì, rõ là vậy. Nhưng nếu em muốn, anh sẽ bảo họ rằng chẳng qua anh nghe lời Gertrude quá thôi, bà ấy luôn nói hãy mua tranh thay vì quần áo.”

“Bà ấy nói thế thật, nhưng chúng ta đâu có mua tranh, phải không?” tôi cau mày ngắm mình trước gương.

“Đừng bực dọc làm gì, Tatie à,” Ernest nói, rồi anh đi đến phía sau tôi đặt một nụ hôn lên gáy. “Chẳng ai xinh đẹp và thẳng thắn và giản dị bằng em đâu.”

Tôi nhìn vào mắt anh qua gương.

“Anh đáng yêu quá đấy, biết không?”

Anh lại hôn tôi, rồi kiên quyết đẩy tôi ra cửa.

Rốt cuộc quán ăn đó chìm trong ánh sáng lờ mờ, và tôi thấy mình chẳng còn biết trời trăng gì nữa sau chai rượu đầu tiên. Khi đám đàn ông nói chuyện về Princeton, nơi Harold từng theo học, và về việc bắt đầu sáng tác tiểu thuyết đầu tay từ con số không (lúc này Harold đang viết cuốn đầu tay của chính mình), thì Kitty và tôi có cuộc trò chuyện riêng tư đáng ngạc nhiên về cuộc hôn nhân đầu của cô với Skipwith Cannell, một nhà thơ có vẻ như đã khiến cô khốn khổ rồi lại không chịu ly dị cô.

“Tội cậu quá. Làm sao mà cậu đi bước nữa được đây?”

“Mình sẽ không bao giờ đi bước nữa, cưng à. Ơn Chúa Harold và mình đồng thuận với nhau về khoản ấy. Nhưng mình ước gì mình mãi mãi không bị ràng buộc gì với Skip. Chịu đựng hắn ở gần bên đã đủ khó khăn lắm rồi. Thế mà giờ hắn cứ nhặng xị lên hành hạ mình từ tận Luân Đôn.”

“Vậy là cậu muốn được tự do.”

“Chúa ơi, đúng thế. Cậu thì sao?”

“Mình không biết. Có lẽ mình muốn được hạnh phúc.”

“Hạnh phúc quá sức là phức tạp đi, trong khi tự do thì không. Hoặc ta bị ràng buộc, hoặc không.”

“Đổ lỗi cho hôn nhân đâu có giải quyết được vấn đề. Ngay khi ta yêu một ai đó là ta đã ràng buộc với họ rồi. Đó là điều không thể tránh khỏi — trừ phi ta thề sẽ không yêu.”

“Kể cả mình cũng không chai sạn đến thế đâu.” Cô cười và nâng ly lên.

“Vì tình yêu nào.”

Harold quay lại nhìn chúng tôi vẻ kỳ quặc.

“Chuyện gì đang diễn ra ở đây thế?”

“Hadley đang biến em thành một kẻ lãng mạn,” Kitty nói.

Harold cười khùng khục.

“Không có cơ nào đâu cưng, nhưng ý hay đấy.”

“Mỗi bàn chỉ một kẻ lãng mạn,” Ernest chen vào. “Ngoài cửa có đề biển đó.”

Sau bữa tối ê hề, hai người họ cùng chúng tôi quay về căn hộ xưởng cưa để uống đêm, và dù họ vờ như vẫn thoải mái trước tình cảnh tối tăm như đường hầm của căn hộ, tôi có thể thấy họ không quen với cuộc sống bình dân. Bumby đang ngủ ở phòng bên, nên chúng tôi tụ tập quanh bàn bếp.

“Tôi đoán chắc độ một tháng nữa là tôi viết xong cuốn tiểu thuyết này,” Harold nói, “Sau đó tôi sẽ đi nghỉ. Tôi muốn có một nhà xuất bản Mỹ, một khoản nhuận bút trả trước, và một loạt bài bình ngắn hay trên báo.”

“Anh quên mất các cô nàng nhảy múa rồi,” Ernest nhếch mép nói.

“Họ cũng sẽ có trong hợp đồng,” Harold nói. “Nhưng mà nói thật đấy, tôi đang nhắm nhà Boni và Liveright. Ford bảo họ là nhà xuất bản đáng chú ý ở New York.”

“Họ xuất bản sách của Sherwood Anderson,” Ernest nói. “Họ cư xử với ông ấy được lắm, và ông ấy kể họ rất quan tâm đến các nhà văn Mỹ đương đại.”

“Chính là tôi,” Harold nói. “Cả cậu nữa.”

“Anh nên gửi mấy truyện ngắn của mình, Tatie à. Sherwood sẽ nói hộ anh vài lời,” tôi nói.

“Có lẽ vậy,” Ernest đáp. “Anh cũng nghĩ đến rồi.”

“Thế là xong nhé,” Kitty nói, “giờ hãy nói chuyện gì khác thú vị đi.”

“Như là chuyện mũ mão á, Kitty yêu dấu?” Harold hỏi.

“Chắc vậy.” Cô quay sang tôi. “Mình rất muốn đưa cậu đi mua sắm cùng. Cậu có thể trở thành dự án yêu thích của mình.”

“Ôi trời ơi,” Ernest nói.

“Sao nào? Ai chẳng thích những thứ đẹp đẽ,” Kitty nói. “Tôi hứa sẽ không phủ ngọc trai hay bánh trứng đường lên cô ấy đâu.”

“Mình thích lắm,” tôi hưởng ứng. “Hãy mau xếp một cái hẹn đi.”

Nhưng khi họ về rồi, tôi lại thấy nhận lời Kitty là một sai lầm,“Cô ta chỉ muốn làm bẽ mặt em thôi, em không thấy sao?” Ernest nói.

“Cô ấy đang cố tỏ ra tử tế thôi mà. Em sẽ không chấp nhận sự thương hại nào cả, nếu đó là điều anh đang lo.”

“Không phải thế. Cô ta muốn quyến rũ em và khiến em nghĩ mình đang bị đối xử không ra gì.”

“Em sẽ không bao giờ nghĩ như thế.”

“Cứ đợi mà xem. Nếu cô ta cứ thủ thỉ vào tai em thì rồi thể nào em cũng sẽ bắt đầu ghét anh vì chúng ta sống trong cảnh quá tồi tàn.”

“Anh đang cực đoan quá đấy, Tatie ạ. Chúng ta đang nói về chuyện mua sắm, vì Chúa.”“Không phải thế,” anh lừ lừ đáp, rồi bỏ đi rót cho mình một ly.