HAI MƯƠI TÁM
Trong lúc Bumby say giấc ở nhà dưới sự chăm nom của Marie Cocotte — bà rất nhiệt tình quay lại làm việc cho chúng tôi, kể cả khi phải gánh thêm trách nhiệm vú em — thì tôi bắt đầu gặp Kitty mỗi tuần một lần. Chúng tôi sẽ đi uống trà ở đâu đó hoặc chui vào các cửa hàng cổ kính khi cô có thời gian. Tôi mê mẩn ngắm nhìn các món trang sức, đặc biệt là những đôi hoa tai men khảm rất thịnh hành thời đó, và mặc dù Ernest và tôi chẳng thừa tiền cho những thứ nuông chiều bản thân như vậy, tôi vẫn thích ngắm Kitty lướt qua các cửa hiệu và nghe những bình phẩm có gu của cô. Cô có mắt thẩm mỹ và dường như biết rõ, một cách bản năng, rằng cái gì sẽ giữ giá và cái gì dễ thương nhưng chỉ mang tính nhất thời. Đôi khi cô cố nài ép tôi nhận một món quà, khiến tôi cảm thấy day dứt vì phải từ chối. Thật sự cô chỉ có ý tốt, nhưng Ernest có lòng tự tôn của mình, tôi không muốn liều khuấy đảo bất cứ thứ gì lên.
Dù tôi có cố thuyết phục Ernest tin vào những phẩm chất tốt đẹp của Kitty thế nào, anh vẫn nhất định không ưa cô. Cô ta quá chưng diện, anh nói, và hay chiều theo sự tiện lợi của bản thân, nhưng tôi tự hỏi liệu có phải thực ra anh cảm thấy bị sự độc lập của cô đe dọa. Cô có công ăn việc làm ổn định, phóng viên mảng thời trang và khiêu vũ cho vài tạp chí ở Mỹ, và mặc dù Harold chi tiền cho căn hộ tuyệt đẹp của cô trên đường de Monttesuy thì đó cũng là vì anh khăng khăng họ phải có không gian sống tách biệt, và anh gánh các khoản chi gia đình cho cả hai bên. Kitty cũng được thừa kế nữa, nên nếu không có anh thì cô cũng có thể tự chi trả cho bản thân. Cô lại còn hết sức tự tin, với cung cách di chuyển và nói năng như muốn truyền đạt một điều rằng cô không cần bất cứ ai nói cho mình biết là cô đẹp, cô thú vị. Tự cô biết điều đó, và cái kiểu bình thản ấy khiến Ernest khó chịu.
Tôi cố đấu tranh để có những buổi chiều đi với Kitty, mặc dù chuyện này khiến không khí ở nhà căng thẳng, vì đây là lần đầu tiên kể từ hồi ở St. Louis tôi tìm được một người bạn chỉ của riêng mình. Gertrude và Sylvia luôn thuộc về Ernest. Anh chiếm hữu họ mà không thèm biện giải. Còn với Alice, Maggie Strater và thậm chí Shakespear, có vẻ như tôi không thể hoàn toàn vượt qua lãnh địa của người vợ một văn nghệ sĩ. Kitty gắn với Harold, giờ thì anh và Ernest thường xuyên gặp nhau, nhưng đồng thời cô cũng có cuộc sống rất độc lập của riêng mình. Và cô đã nhắm tìm tôi.
“Cậu đúng thật là một cô gái rất Mỹ nhỉ?” cô nói vậy ở một trong những buổi đi chơi đầu tiên của chúng tôi.
“Là sao? Cậu cũng là người Mỹ còn gì,” tôi nói.
“Không như cậu. Ấy là ở mọi điều cậu nói, cậu rất thẳng thắn và đơn giản.”
“Ai chà,” tôi nói. “Cậu chỉ đang tìm một cách lịch sự để nhắc rằng mình không phù hợp với cái thành Paris này.”
“Đúng vậy,” cô nói. “Nhưng đó là điều hay. Bọn mình cần cậu ở bên để nói cho bọn mình sự thật về bản thân.”
Ngoài những lời càu nhàu của Ernest ra thì vấn đề duy nhất trong tình bạn giữa tôi với Kitty chính là cô liên tục đòi tặng quà tôi, kể cả sau khi tôi đã dai dẳng cố giải thích những lằng nhằng rối rắm trong niềm kiêu hãnh của Ernest.
“Có đáng bao nhiêu đâu,” cô cố nài. “Sao cậu ta có thể bận lòng chứ?”
“Thế mà có đấy. Mình rất tiếc.”
“Mình nghe mà cứ tưởng như chuyện thời nguyên thủy ấy. Cậu ta mà bắt cậu mặc da thú, nhóm lửa để nấu nướng thì chẳng thằng nào khác thèm nhìn cậu ấy chứ, nói gì đến việc mê cậu.”
“Không tàn tệ đến vậy đâu. Chúng mình phải tiết kiệm. Chẳng phải hy sinh gì lớn lao như thế đâu.”
“Thôi được, mình hiểu rồi. Nhưng đó chính là lý do mình không ưa hôn nhân. Cậu phải chịu đựng vì sự nghiệp của cậu ta. Rốt cuộc cậu được gì nào?”
“Niềm thỏa mãn khi biết rằng thiếu mình anh ấy không thể làm được điều đó.”
Ngẩng lên từ cái túi đính hạt cô đang trầm trồ chiêm ngưỡng, cô ngước đôi mắt xanh nhạt chằm chằm nhìn. “Mình yêu cậu vô cùng cậu biết không. Đừng thay đổi một mảy may nào nhé.”
Đúng là lỗi thời đến ngỡ ngàng — và chắc là còn ngây thơ nữa — nhưng tôi thật lòng tin tưởng rằng bất kỳ hy sinh hay khó khăn nào trong cuộc sống của chúng tôi cho sự nghiệp của Ernest đều xứng đáng. Xét cho cùng đó là lý do vì sao chúng tôi đến Paris. Nhưng thật không dễ khi nhìn quần áo mình sứt chỉ mà không thấy xấu hổ, nhất là khi phụ nữ hồi ấy ăn mặc hết sức sành điệu. Nhưng tôi thật lòng không nghĩ mình có thể chạy theo họ, kể cả khi chúng tôi không phải thắt lưng buộc bụng.
Căn hộ của chúng tôi lạnh lẽo và ẩm ướt, thành thử tôi hay bị viêm xoang. Chúng tôi đặt cũi của Bumby ở góc ấm nhất nhà, nhưng nó vẫn đổ bệnh. Mùa xuân năm đó chúng tôi cứ ho khù khụ suốt nhiều tuần, khiến thằng bé ngủ không yên giấc. Nó thức dậy gào khóc đòi ti. Cho con ăn vào ban ngày khi tôi được nghỉ ngơi đầy đủ là niềm vui, nhưng ban đêm thì việc này rút cạn năng lượng của tôi. Chính vào những lúc như thế mà tôi cần ra ngoài chơi với Kitty nhất, hoặc giả tản bộ trong ánh nắng nhẹ cùng Stella Bowen và Julie, hai người họ cũng dần trở thành những người bạn tốt của tôi.
Tôi cũng cố lẻn ra khỏi nhà ít nhất một tiếng mỗi ngày để tập piano. Chúng tôi không đủ tiền để mua hay thậm chí thuê một cái như trước kia, nên tôi phải chơi một cây piano tủ chỉnh âm tệ hại trong khu hầm ẩm ướt của một cửa hiệu nhạc cụ gần đó. Tôi phải thắp nến để nhìn bản nhạc, còn ngón tay thì hay bị chuột rút vì lạnh quá. Đôi khi có cảm tưởng như việc này chẳng đáng để mình nỗ lực đến thế, nhưng tôi vẫn tiếp tục, vì tôi chưa sẵn sàng vứt bỏ đi phần này của bản thân mình.
Trong lúc đó, Ernest làm việc tốt hơn bao giờ hết. Áp lực đè nặng lên anh sau khi chạy khỏi Toronto để tới Paris dường như là yếu tố chủ yếu khích động anh, vì anh viết khỏe và trôi chảy, gần như không cần đọc lại. Các câu chuyện cứ thế xuất hiện nhiều đến nỗi anh gần như chẳng bắt kịp.
Anh tiếp tục công việc biên tập cho Transatlantic, và mặc dù anh không ngớt chỉ trích sếp mình, Ford vẫn rất ủng hộ công việc của Ernest. Khi Ernest tâm sự với Ford rằng anh lo sẽ phải mất nhiều năm trời mới gây dựng được tên tuổi cho mình, Ford gạt đi.
“Chuyện sẽ xảy đến với cậu nhanh như chớp vậy. Khi Pound cho tôi xem tác phẩm của cậu, tôi đã biết ngay rằng mình sẽ xuất bản bất cứ thứ gì cậu viết. Mọi thứ.”
Ernest khá ngượng ngùng đón nhận lời khen này và cố cư xử tử tế hơn với Ford, nhất là vì anh đang thuyết phục ông xuất bản cuốn Quá trình hình thành những người Mỹ, một tiểu thuyết của Gertrude đã mòn mỏi đợi chờ trên bàn viết của bà từ năm 1911. Rốt cuộc Ford cũng đồng ý in cuốn sách theo kỳ, và Gertrude sung sướng ngất ngây. Tờ Review đang dần trở nên quan trọng và được nhiều người trong giới đón đọc, mà đây lại còn là ấn bản lớn đầu tiên của bà nữa. Trong số tháng Tư, tác phẩm của bà sẽ xuất hiện cùng một đoạn tuyển chọn từ tác phẩm mới đang trong quá trình sáng tác của Joyce, quyển sách mà sau này sẽ trở thành Finnegans Wake, vài truyện của Tristan Tzara, và một truyện ngắn mới của Ernest có tên “Trại Anhđiêng”, miêu tả chi tiết đến ghê rợn cảnh một người đàn bà lâm bồn và người chồng nhu nhược tự cứa cổ mình vì không chịu nổi tiếng thét của cô. Ernest rất hài lòng với truyện ngắn này vì anh đã có thể lấy một mẩu ký ức tuổi thơ, khi xem cha mình đỡ đẻ cho một phụ nữ Anhđiêng, rồi gắn nó với một cảnh khác mình từng chứng kiến, cặp vợ chồng tị nạn trên đường Karagatch, tạo nên một câu chuyện duy nhất đầy sức ám ảnh.
“Joyce biết thủ thuật này,” anh nói với tôi về số tạp chí này vào một buổi chiều sau khi đi làm về. “Anh ta tạo ra Bloom(*), và Bloom đúng là quá sống động. Ta phải tiêu hóa cuộc đời này. Ta phải nhai nó ngấu nghiến, yêu nó say mê. Ta phải tận mắt sống trong đó, thật sự ấy.”
“Anh nói hay quá.”
“Phải, nhưng ta có thể cứ nói mãi nói mãi mà vẫn không viết cho ra. Ta phải thực hiện nó.”
Số tháng Tư còn đăng những bài phê bình quan trọng đầu tiên về cuốn Ba truyện ngắn và mười bài thơ của anh, nhìn chung đều nhiệt liệt ca ngợi tài năng và phong cách của Ernest. Anh đang sáng tạo ra một thứ mới mẻ, họ nói, và là một nhà văn đáng chú ý. Tôi sung sướng khi thấy rốt cuộc anh cũng dần có tiếng tăm. Đi đến đâu cũng thấy dường như mọi người muốn được ở gần anh. Khi tản bộ đêm trên đại lộ cùng anh, qua những tiếng nói chuyện đều đều và tiếng nhạc xủng xoảng, chúng tôi nghe ai đó gọi tên anh, và chúng tôi sẽ phải dừng lại, uống rượu thân mật một chút trước khi đi sang quán khác, nơi chuyện tương tự lại diễn ra. Ai cũng có câu đùa hoặc một mẩu tin nào đó dành để kể cho anh, và vòng tròn người quen thân của chúng tôi cứ ngày một rộng ra.
John Dos Passos đã quay lại Paris, cưỡi trên làn sóng thành công văn học của mình và lúc nào cũng sẵn sàng cho những cuộc vui. Ernest gặp anh ta ngay sau khi bắt đầu làm việc cho Hội Chữ thập đỏ hồi ở Italia. Donald Stewart cũng xuất hiện vào khoảng thời gian này. Cậu là nhà văn trào phúng rồi sẽ có ngày trở nên nổi tiếng với những vở kịch như Câu chuyện Philadelphia, nhưng ngay lúc ấy thì cậu chỉ là một anh chàng vui tính đứng gần quầy bar trong bộ vét màu kem lịch sự. Ernest rất tự hào với bộ đồng phục văn sĩ nhếch nhác của anh, nhưng thỉnh thoảng tôi lại thấy mình thầm ngưỡng mộ những chiếc quần âu là ủi thẳng thớm. Quần của Don hoàn hảo. Cậu còn rất điển trai theo kiểu trẻ con mày râu nhẵn nhụi, đôi mắt xanh trong trở nên rất sinh động khi cậu cười.
Khi Ernest giới thiệu chúng tôi với nhau, Don đã ngay tắp lự không hề tỏ ra khách khí với tôi. “Tóc chị đẹp quá,” cậu nói. “Màu tóc hiếm thật.”
“Cảm ơn cậu. Quần áo cậu cũng rất đẹp.”
“Mẹ tôi thích quần áo. Và nghi thức.”
“Và bàn là ủi?”
“Tôi thừa nhận là mình rất xấu tính trong chuyện là ủi.”
Chúng tôi nói chuyện thêm một chút nữa, và tôi cảm thấy vui vẻ đến độ nửa tiếng sau mới nhận ra Ernest đã yên vị ngồi ở một cái bàn gần đó. Tôi không nhận ra những người anh ngồi cùng, kể cả người phụ nữ xinh đẹp đang ngồi cạnh anh. Cô ta mảnh mai và đáng yêu, với mái tóc vàng sẫm cắt cụp sát đầu. Thân hình cô ta có vẻ mảnh khảnh như một cậu trai dưới lớp áo len dáng dài, nhưng không hiểu sao mái tóc đưa cô ta vượt quá vẻ con trai ấy, khiến cô ta nữ tính hơn bao giờ hết. Khoảnh khắc trông thấy cô ta, tôi cảm thấy một cơn ớn lạnh sắc nhọn lan khắp người — trước cả khi Ernest ghé người qua thì thầm gì đó với cô ta. Cô ta cười nghe khàn khàn, cong cong cái cần cổ dài tai tái.
“Chị ổn cả chứ?” Don hỏi. “Chị tái nhợt cả đi.”
“Ồ. Khá ổn, cảm ơn.”
Cậu dõi theo ánh mắt tôi tới chỗ Ernest và người phụ nữ kia. Tôi chắc chắn cậu nhận ra tất cả, nhưng cậu đã uyển chuyển lái câu chuyện đi.
“Đó là Duff Twysden,” cậu nói. “Công nương Twysden thì đúng hơn. Người ta bảo cô ta đã cưới một ngài bá tước Anh nào đó. Bá tước tử tước lãnh chúa vân vân. Tôi chẳng phân biệt nổi ba cái chức tước quý tộc ấy.”
“Ừ. Ai mà phân biệt nổi chứ?”
Tôi nhìn qua chỗ Ernest đúng lúc anh ngước mắt lên. Hai người trao nhau tiếng lách tách ngắn ngủi đầy nghi hoặc, rồi anh đứng dậy bước lại chỗ chúng tôi.
“Xin lỗi Don nhé. Tôi thấy là cậu đã gặp vợ tôi.”
“Và bị quyến rũ,” Don nói, trước khi Ernest nắm khuỷu tay dẫn tôi tới cái bàn nơi Duff đang ngồi ngóng đợi.
“Công nương Twysden,” anh giới thiệu. “Hay dạo này cô thích cái tên Smurthwaite hơn?”
“Sao cũng được miễn vẫn còn là Duff.” Cô ta dợm đứng dậy, chìa tay ra. “Chào chị.”
Tôi chỉ vừa mới hết sức giữ bình tĩnh để nói câu gì dễ chịu thì Kitty bước ra từ đám đông. “Chúa ơi, gặp được cậu thật là mừng quá,” cô nói. “Lại đây uống chút gì nhé.”
Harold đứng ngay sau cô, trông không ổn chút nào. Anh nhợt nhạt, bờ môi trên ẩm ướt.
“Có chuyện gì vừa xảy ra à?” tôi hỏi khi chúng tôi đến gần quầy bar.
“Harold sẽ bỏ mình.”
“Cậu đùa à?”
“Giá mà vậy.” Cô châm thuốc rồi nhìn chằm chằm đầu điếu thuốc một lúc trước khi rít vào thành những hơi ngắn. “Một cơn bồn chồn nào đó đã chui vào rồi chiếm lĩnh anh ta. Chúng mình luôn nói sẽ để cho nhau tự do hết mức. Nhưng mà kỳ lắm, khi chuyện xảy đến thì ta lại không muốn như vậy.”
“Có ai đó khác ư?”
“Chẳng phải lúc nào cũng vậy sao?” Cô thở dài. “Có lẽ là cả do quyển sách mới nữa. Anh ta muốn tái tạo lại mọi thứ. Mình sắp đi Luân Đôn rồi. Mình muốn cậu biết.”
“Ôi, Kitty, thật à? Chuyện tệ đến thế rồi sao?”
“Có vẻ là vậy,” cô nói. “Mình có để cho cậu vài món mình không mang theo được. Mình sẽ ghé qua nhà cậu.”
“Mình không quan tâm đến đống váy xống ấy đâu. Mình không cần chúng.”
“Vớ vẩn.”
“Cậu biết Ernest sẽ nói gì mà.”
Cô bực mình, phả ra một làn khói.
“Đúng, nhưng cậu ta thì biết gì về việc làm phụ nữ khó khăn ra sao.”
Cô hất đầu về phía Duff. “Ở đây khốc liệt quá phải không? Cạnh tranh không chỉ ở chuyện trẻ hơn. Họ còn chăm chút nhiều hơn. Họ dốc mọi thứ mình có vào cuộc đấu.”
Tôi không biết phải đáp lại thế nào nữa. Kitty là một trong những phụ nữ đĩnh đạc tự tin nhất tôi từng biết, thế mà giờ cô quỵ ngã lảo đảo như thế này đây. Điều đó làm tôi chỉ muốn bẻ cổ Harold.
“Cậu có muốn về nhà không?” tôi hỏi.
“Mình không thể tàn tạ như một cô nữ sinh và khiến tất cả thương hại mình được. Thế thì thà chết còn hơn. Chúng mình uống sâm banh đi,” cô nói, khoác lên mình vẻ mặt can đảm nhất. “Thật nhiều thật nhiều sâm banh.”
Suốt phần còn lại của buổi tối hôm đó, tôi ngồi bên Kitty nhưng vẫn để mắt tới Ernest. Nhân vật Duff này quá đáng yêu mà cũng quá lả lơi. Cô ta và Ernest nói chuyện thoải mái đến mức ta tưởng như họ đã quen biết nhau hàng bao nhiều năm trời, và sau khi nghe tin từ Kitty thì tôi cảm thấy mình thật dễ bị tổn thương, một cảm giác mới mẻ. Những việc tồi tệ nhất luôn là kết quả của tai nạn dồn dập, như thể từ trên trời rơi xuống. Nhưng đó chỉ là vì thiếu khả năng nhìn xa trông rộng thôi. Kitty mù tịt không biết gì, chứ Harold chắc chắn đã âm mưu trốn chạy hàng tháng trời rồi. Tôi không thể không tự hỏi liệu điều này có thể cũng xảy ra với mình không. Duff đã ở trong bức tranh này được bao lâu rồi?
Có một lúc quãng sau nửa đêm, khi tôi cảm thấy không thể thức thêm một phút nào nữa, tôi xin phép Kitty rồi gọi Ernest. “Đến lúc đưa cô vợ tội nghiệp của anh đi ngủ rồi,” tôi nói. “Em sắp quỵ đến nơi đây này.”
“Mèo tội nghiệp,” anh nói. “Vậy em cứ về nhà đi. Em có muốn anh tìm ai đưa em về không?”
“Anh muốn ở lại?” tôi sắc giọng. Duff tế nhị quay đi.
“Dĩ nhiên. Sao nào? Anh đâu phải người buồn ngủ, phải không?”
Tôi cứng họng không nói được câu nào, nhưng rồi Kitty xuất hiện để giải cứu tôi.
“Tôi sẽ lo cho vợ cậu, Hem à. Cậu ở lại vui vẻ nhé.”
Cô thách thức anh bằng cái nhìn rắn như thép, nhưng anh không cắn câu.
“Thế mới là bạn tốt chứ, Kitty. Cảm ơn nhé.”
Anh đứng dậy siết tay tôi theo cái vẻ như với người bằng hữu.
“Đi nghỉ thôi em.”
Tôi gật đầu như bị hôn mê trong lúc Kitty túm chặt tay tôi kéo đi. Khi hai đứa ra đến bên ngoài, tôi bắt đầu lặng lẽ khóc.
“Mình xấu hổ quá,” tôi nói.
Kitty ôm tôi thật chặt như muốn tiếp thêm can đảm.
“Cậu ta mới là kẻ cần xấu hổ, cưng à. Cả cô ả kia nữa. Người ta đồn cô ả phải giữ một đống đàn ông xung quanh vì cô ta không tự trả được hóa đơn cho chính mình.”
“Duff,” tôi nói. “Ai lại tự gọi mình bằng cái thứ tên như thế chứ?”(**)
“Chính xác. Mình sẵn sàng cá một đống tiền rằng kể cả một kẻ không biết điều như Hem cũng không đánh đổi một phụ nữ như cậu lấy cái hạng đó. Thôi nào. Ngẩng cao đầu lên.”
“Cậu tốt với mình quá, Kitty. Không thể nói nổi mình sẽ nhớ cậu nhiều đến thế nào đâu.”
“Mình biết. Mình cũng sẽ nhớ cậu, nhưng mình còn biết lựa chọn gì đây? Mình chỉ còn cách chạy trốn về Luân Đôn mà hy vọng Harold sẽ đuổi theo.”
“Anh ấy sẽ làm vậy chứ?”
“Thật lòng mình cũng không biết nữa.”
Khi tôi về đến nhà, Bumby vẫn còn thức và đang gặm gặm một cái vòng tròn nhỏ bằng cao su trong lúc giàn giụa nước mắt.
Marie nhìn tôi với vẻ xin lỗi. “Tôi đoán thằng bé gặp ác mộng gì khủng khiếp lắm. Khổ thân quá. Nó không chịu để tôi dỗ.”
“Cảm ơn bà đã ở lại muộn đến thế này.”
Khi bà đi, tôi cố dỗ dành Bumby, nhưng thằng bé rất cáu kỉnh và thất thường. Phải mất hơn một tiếng đồng hồ tôi mới cho nó ngủ lại được, thành thử đến lúc lên giường thì tôi đã mệt đến mức mê muội cả đầu óc — nhưng tôi vẫn không sao ngủ được. Tôi luôn cảm thấy chắc chắn và hài lòng với cuộc sống của mình, nhưng Kitty nói đúng. Cuộc đấu mỗi lúc một trở nên quyết liệt. Paris đầy những phụ nữ lôi cuốn. Họ ngồi trong các quán cà phê với khuôn mặt tươi mới, cặp chân dài đẹp và chờ đợi một thứ gì đó mãnh liệt xảy tới. Trong khi đó, cơ thể tôi đã thay đổi sau khi làm mẹ. Ernest khẳng định rằng anh thích cặp hông và bộ ngực màu mỡ hơn của tôi, nhưng khi có quá nhiều thứ khác để chiêm ngưỡng thì anh có thể dễ dàng đánh mất sự thích thú dành cho tôi lắm chứ. Mà có khi anh đã mất rồi cũng nên — nếu thế thật thì tôi có thể làm gì chứ? Bất kỳ ai khác có thể làm gì chứ?
Một lúc sau thì Ernest về, tôi vẫn thức và quá mệt đến mức bật khóc. Tôi không nhịn được.“Tội nghiệp mẹ nó,” anh nói rồi trèo lên giường nằm cạnh, ôm tôi thật chặt. “Anh không biết em mệt rã rời đến vậy. Chúng mình sẽ kiếm cho em một kỳ nghỉ dài tuyệt vời nhé.”
“Ôi trời vâng,” tôi thốt lên, thấy nhẹ lòng biết bao. “Ở nơi nào đó thật xa chốn này.”
Chú thích:
(*) Leopold Bloom là nhân vật chính trong tiểu thuyết Ulysses của James Joyce, được cho là lấy cảm hứng từ tình bạn thân thiết giữa Joyce và Italo Sveno, tác giả cuốn tiểu thuyết kinh điển La Conscienza di Zeno (Lời thú tội của Zeno).
(**) Duff: (tiếng lóng) đồ làm giả như mới, sơn mạ lại, đồ hàng.