← Quay lại trang sách

HAI MƯƠI CHÍN

Cái “nơi nào đó thật xa” ấy là một ngôi làng nhỏ tên Schruns thuộc bang Vorarlberg nước Áo. Chúng tôi đến đó ngay trước Giáng sinh năm 1924, và ngay từ ngày đầu tiên đã cảm thấy nơi đây như là nhà, còn hơn những gì hai đứa có thể tưởng tượng. Chỉ cần chưa đến một nửa số tiền tiêu mỗi tuần ở Paris, chúng tôi đã có hai căn phòng tiện nghi ở khách sạn Taube và một vú em để chăm Bumby, tên là Tiddy. Có tới ba mươi tám loại bia và vang đỏ và brandy và rượu anh đào và sâm banh. Cả đến không khí cũng như rượu sâm banh vậy. Bumby hít thở tốt hơn ở Schruns; tất cả chúng tôi đều thở tốt hơn. Tiddy kéo thằng bé đi khắp làng trên chiếc xe trượt gỗ trong lúc Ernest làm việc, hoặc cố làm việc, trong phòng chúng tôi khi ăn sáng xong, còn tôi ngồi tập piano ở tầng dưới, chiếc đàn chỉ có mình tôi sử dụng trong căn phòng ấm áp. Chiều đến, sau khi thưởng thức phô mai, xúc xích, bánh mì đặc ruột và đôi khi vài quả cam, chúng tôi đi trượt tuyết.

Chúng tôi trượt tuyết rất nhiều. Một vận động viên trượt tuyết chuyên nghiệp về vườn, Walther Lent, đã mở một lớp dạy trượt, chúng tôi là học sinh của anh. Mấy tuần liên tục, chỉ có một màn tuyết khô lạnh trắng muốt không thay đổi. Chúng tôi đi bộ hàng tiếng đồng hồ, lên cao, cao mãi, bởi vì còn gì là thú nếu như không lên đến đỉnh, khi không có ai khác quanh ta, không còn dấu vết hay ký ức về bất kỳ ai, bất kỳ đâu? Trượt tuyết kiểu này đòi hỏi thể lực — một sức khỏe và khả năng chịu đựng phi thường. Không có xe điện hay thang máy. Chúng tôi vác ván trượt trên vai và tất cả những thứ cần dùng khác nhét trong ba lô. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy mình có thể làm được. Rời khỏi Paris đúng là điều tốt nhất cho tôi. Tôi ngủ ngon, có người giúp chăm con, không khí trong lành và việc luyện tập khiến tôi khỏe mạnh cân đối hơn bao giờ hết. Trong lúc chậm chạp trèo lên thung lũng dài, chúng tôi thấy gà gô trắng, hươu, chồn mactet, đôi khi cả một con cáo trắng Alps. Lúc xuống thì chúng tôi chỉ biết có tuyết trắng; cú lao mình và rượt đuổi dọc theo những dòng sông băng, đám bột khổng lồ tóe lên từ ván trượt của chúng tôi. Tôi trượt giỏi hơn, nhưng Ernest là kẻ thưởng thức giỏi hơn bất cứ thứ gì mới mẻ - không khí mới, lớp áo choàng tuyết màu vỏ trứng mới. Chúng tôi cứ rơi và rơi. Chúng tôi bay.

Nếu tựa vào cửa sổ căn phòng tầng hai khách sạn Taube của chúng tôi, nhoài người hết cỡ ra ngoài, đầu ngón tay bám vào bức tường thạch cao, ta sẽ thấy ít nhất mười ngọn Alps phủ trong tuyết.

“Em có thích không?” Ernest hỏi sau khi anh làm trò này lần đầu tiên rồi đứng sang bên để tôi thử.

“Em thích lắm,” tôi đáp. Lúc này anh đã bước đến ép mình vào tôi, tay anh vòng qua người tôi cho đến khi chính anh mới là người đỡ tôi phòng khi tôi muốn rơi xuống. “Em thích lắm,” tôi nhắc lại, vì tôi có hai cánh tay chắc khỏe và mười ngọn Alps trong tầm mắt. Anh kéo tôi vào phòng, chúng tôi nằm xuống chiếc giường lót lông vũ và làm tình. Tôi lại nhớ ra những điều tuyệt vời nhất thuộc về hai đứa. Chúng tôi với tư cách là hai cơ thể có thể dễ dàng và tự nhiên biết bao, không quan điểm gay gắt, không hành động lầm lạc, không cần phải nói năng. Trên giường, không ở bất cứ đâu khác, anh lại là loài thú tôi yêu nhất, và tôi cũng được anh yêu nhất.

Đằng sau khách sạn có một quả đồi thấp nơi tôi tập trượt trên lớp tuyết mới, trong lúc Ernest cố làm việc nhưng không mấy thành công. Riêng về công việc mà nói thì anh nhớ Paris, cái bận rộn của thành phố và lề thói hằng ngày của anh. Thường thì nếu công việc của anh mà không tốt thì chẳng gì tốt được nữa, nhưng ở Schruns thì dường như ngày được bao phủ một lớp vải mềm mại hơn. Tôi có thể trượt tuyết trên đồi mà biết rằng anh đang phóng tầm mắt ra đồng cỏ, nông trang và cánh đồng, đầu thì căng thẳng nhưng lòng không buồn bã. Đôi lúc anh dõi theo tôi trượt thẳng xuống đồi, người cúi rạp trên ván trượt, lao vù vù về phía khách sạn và đến phút cuối thì quay ngoắt sang hướng khác.

Mùa đông năm ấy Ernest để râu đen kịt trông rất đẹp. Công việc không thuận lợi, nhưng đến tối luôn có những ván bowling và poker bên lò sưởi cùng rượu schnapps ủ từ cây long đởm núi, đem lại cảm giác nóng bỏng tê tái và xanh lè trên lưỡi ta cũng như trong họng ta, hệt như cảm giác ta nghĩ có thể có nếu uống nước ép hoa violet. Buổi tối phòng ăn khách sạn dày khói. Sau bữa tối, tôi sẽ chơi những bản Bach hoặc Haydn mà tôi đã luyện hồi ban ngày. Ernest sẽ đọc Turgenev trên ghế cạnh lò sưởi, hoặc vừa chơi poker vừa hút thuốc, hoặc nói về chiến tranh với ông chủ khách sạn Herr Nels. Khói củi và len, tuyết và làm tình — tất cả những điều ấm áp và tê lạnh ấy đã làm nên một mùa đông tuyệt vời của chúng tôi.

Điều duy nhất không hoàn hảo trong khoảng thời gian này là nỗi lo lắng về sự nghiệp của Ernest. Dù cho tất cả bạn bè đều đã bị thuyết phục rằng anh có tài, hay các bài phê bình cuốn Ba truyện ngắn và mười bài thơ đều gần như tung nó lên mây, anh vẫn không thấy yên tâm. Đó chỉ là một cuốn sách nhỏ, hoàn toàn không sánh được với giấc mơ lớn của anh. Ngay khi cuốn sách vừa ra lò anh đã gửi ngay cho gia đình mình vài bản, và họ đáp lại bằng một lá thư lạnh nhạt từ cha Ernest nói rằng ông và Grace không thấy thoải mái khi giữ những thứ như vậy trong nhà. Nó quá thô tục và báng bổ, ấy là nói nhẹ nhàng nhất. Họ mong muốn những điều tuyệt vời nhất dành cho anh và hy vọng một ngày nào đó anh sẽ tìm ra cách sử dụng năng khiếu trời ban của mình để viết thứ gì mang tính đạo đức cao đẹp hơn. Cho đến lúc đó thì anh không cần cảm thấy bắt buộc phải gửi về nhà bất kỳ thứ gì được in ra. Lá thư khiến Ernest đau nhức tận tâm can. Dù anh có nói gì thì sâu thẳm trong lòng, anh vẫn muốn được gia đình mình ủng hộ.

“Quỷ tha ma bắt họ đi,” anh nói, nhưng anh vẫn giữ lá thư, cẩn thận gập nó lại cất trong ngăn kéo nơi anh lưu giữ tất cả những thư từ quan trọng. Gia đình có thể là môi trường xấu xa, anh vẫn hay nói vậy, nhưng giờ tôi mới hiểu rõ ý anh. Tôi cũng thấy được anh đã lợi dụng sự hủy hoại từ gia đình mình ra sao, đặt áp lực lên đó, nỗ lực gấp đôi để chứng tỏ cho họ thấy anh không cần tình yêu hay sự tán thành từ họ. Anh sẽ còn tiếp tục chiến đấu mãi cho đến khi có tờ Vanity Fair và Saturday Evening Post. Mãi cho đến khi một biên tập viên Mỹ đánh liều đặt cược vào anh và anh có một cuốn sách, một cuốn sách thực thụ, xuất bản theo cái cách anh vẫn hằng mơ tưởng.

Công việc của Harold cứ lên như diều, việc này không khiến Ernest vui thêm chút nào. Anh ta hoàn thành cuốn tiểu thuyết của mình đúng như đã hẹn trước đó, rồi gửi thẳng đến Boni và Liveright. Và họ nhận nó. Chúng tôi nghe được tin này ngay trước khi đi Schruns. Harold đã tới căn hộ của chúng tôi, vỡ òa vì háo hức.

“Cậu biết gì nào Hem? Cậu có bao giờ nghĩ tôi sẽ thành công không?”

“Có chứ, sao lại không?”

Ernest đã nói vậy. Dĩ nhiên anh sôi lên vì ghen tị nghề nghiệp, nhưng anh biết giữ mồm mà cư xử cho đúng mực, anh mở một chai brandy và mang ống hút xi phông tới.

“Anderson vẫn thuyết phục tôi thử gửi cho Liveright. Tôi có dăm ba truyện ngắn tốt, và tôi đang nghĩ đến việc gửi cho họ vài phác thảo mình đang viết, mấy ‘bức tiểu họa’ ấy.”

“Gửi cho họ là chính xác đấy,” Harold nói. “Cậu còn chờ gì nữa?”

“Tôi cũng không biết nữa. Biển còn lắm cá, đúng không? Scribner’s thì sao? Hay là Henry Doran?”

“Chọn bãi đáp ở đâu thì cậu cũng làm tốt cả thôi. Thành công rồi cũng sẽ đến với cậu nữa. Rồi cậu sẽ thấy.”

Tôi biết chắc như đinh đóng cột rằng Ernest hẳn sẽ nhảy cẫng lên trước khả năng có nhà xuất bản lớn nào chịu in sách của anh ấy chứ, nhưng phải để tôi với Harold, và cả Sherwood nữa, phỉnh phờ mãi thì cuối cùng Ernest mới chịu gửi bản thảo cho Boni và Liveright ngay trước Giáng sinh. Rốt cuộc anh chốt cái tên Trong thời đại chúng ta vì anh đã cố nắm bắt cho được cốt lõi cuộc sống ở ngay chính khoảnh khắc này, với tất cả sự bạo lực, hỗn độn và vẻ đẹp lạ lùng của nó. Đó là tác phẩm hay nhất anh từng viết được, và anh cảm thấy hài lòng vì đã gửi nó ra với thế giới, nhưng quá trình chờ đợi hồi đáp với anh đúng là như tra tấn. Khi thư từ được chuyển tiếp đến chỗ chúng tôi ở khách sạn Taube, Ernest nôn nóng lục lọi trong cái đống ấy để tìm kiếm một thứ duy nhất, lá thư chấp thuận. Đó là tất cả những gì anh hằng mong mỏi.

Cuối tháng Hai, Herr Lent(*) dẫn chúng tôi lên thung lũng tới Madlenerhaus, một trạm Alps mở cửa kể cả vào cuối đông. Chỗ đó có một căn bếp đơn giản tiện dụng và một nhà tập thể cứ lắc lư khi có gió mạnh chẳng khác nào giường ngủ trên tàu thủy. Từ đó, chúng tôi có thể đi bộ năm trăm mét lên dốc rồi lại lao xuống dọc theo Silvretta, một dòng sông băng cổ xưa, ván trượt của chúng tôi làm văng lên lớp bột nguyên sơ. Sau khi trượt tuyết cả ngày, đến đêm chúng tôi thả phịch người xuống giường, hoàn toàn kiệt sức.

“Mình đừng quay về nữa,” một đêm nọ tôi nói với Ernest khi hai đứa nằm trên giường trong nhà tập thể, lắng nghe tiếng tuyết, tiếng gió, và ngoài ra không còn một âm thanh nào khác.“Được thôi,” anh nói, ôm tôi chặt hơn nữa. “Mình thật may mắn vì yêu nhau đến vậy em nhỉ? Không ai nghĩ chúng ta sẽ tiến xa được đến mức này. Chẳng ai về phe chúng ta cả, em còn nhớ không?”

“Vâng,” tôi đáp, cảm thấy hơi rùng mình. Chúng tôi không thể trốn tránh thế giới mãi mãi.Sau ba ngày, chúng tôi xuống núi, để rồi thấy hai bức điện tín đang chờ Ernest. Một từ Sherwood, và một là từ Horace Liveright, và cả hai đều nói cùng một điều: Trong thời đại chúng ta sẽ thành sách. Họ sẽ ứng trước hai trăm đô và sẽ sớm gửi hợp đồng đến.

Đó quả là một khoảnh khắc kinh điển, một giây phút chúng tôi sẽ không bao giờ quên — và bằng cách nào đó cuộc trượt tuyết cơ hồ đã trở thành một phần không thể tách rời của thời khắc ấy, như thể chúng tôi buộc phải leo đến gần đỉnh trời rồi bay trở xuống để nhận được cái tin này. Đó cũng là kết thúc quá trình vật lộn học nghề của Ernest, và kết thúc cả những chuyện khác. Anh sẽ không bao giờ là kẻ vô danh tiểu tốt như trước nữa. Chúng tôi sẽ không bao giờ hạnh phúc đến nhường này nữa.

Ngày hôm sau chúng tôi lên tàu trở lại Paris.

Chú thích:

(* )Tiếng Đức: ngài Lent.