BA MƯƠI
Mùa xuân năm ấy trời mưa triền miên, nhưng kể cả trong mưa, Paris vẫn là một bữa tiệc nhiều món đối với Ernest. Anh biết tất cả về nó và thích đi bộ xuyên qua thành phố, nhất là vào ban đêm, tạt qua các quán xá xem ai ở đó, ai không. Người ta dễ dàng nhận ra anh ở khắp mọi nơi, với mái tóc dài bờm xờm, đôi giày thể thao và chiếc áo vét vá khuỷu tay, nhà văn tinh hoa của tả ngạn sông Sein. Thật mỉa mai khi thấy anh trở thành đúng kiểu nghệ sĩ đã
khiến anh khúm núm hai năm trước, và cũng là một niềm đau nhoi nhói với tôi nữa. Tôi nhớ anh và tôi không chắc mình luôn nhận ra anh, nhưng tôi không muốn giữ anh lại. Nhất là khi mọi thứ rốt cuộc đã bắt đầu mở ra cho anh. Nếu Ernest thay đổi thì Montparnasse cũng thế.
Khách du lịch Mĩ tràn ngập nơi đây mong bắt gặp một cô nàng digan thực thụ trong khi những đối tượng tình nghi thường lệ thì càng lúc càng trở nên phóng túng lạ lùng hơn để đáp ứng nhu cầu của đám khán giả mới. Kiki là một trong những người mẫu ảnh họa nổi tiếng nhất, đồng thời là người tình kiêm nàng thơ của Man Ray(*). Người ta hay thấy cô ở quán Dôme hoặc Rotonde cùng con chuột cưng. Nó trắng và nhỏ xíu, cô đeo nó vào cổ tay bằng một sợi dây chuyền bạc mảnh. Cô nàng tóc đỏ ngồn ngộn Flossie Martin thì thiết triều phía trước quán Select, văng những lời lẽ tục tĩu vào cả dân địa phương lẫn đám du khách.
Bob McAlmon thì nôn mửa rất gọn vào bồn hoa tất cả các quán cà phê tốt nhất rồi gọi thêm một chầu absinthe nữa. Cái thực tế rằng absinthe là thứ bất hợp pháp cũng chẳng cản trở được ai, tương tự đối với thuốc phiện và côcain. Ernest và tôi thấy chỉ rượu thôi là đã quá đủ thỏa mãn rồi, nhưng với nhiều người họ có cái cảm giác rất thực, rằng nhất định phải tăng liều – phải cảm nhận nhiều hơn, liều lĩnh nhiều hơn.
Càng ngày càng khó làm người ta sửng sốt. Duff Twysden cũng là một trong những cô nàng phóng túng nơi các quán hàng ấy. Cô ta uống như đàn ông, kể một câu chuyện cười tục tĩu và có thể nói thao thao bất tuyệt một mình. Cô ta tự tạo ra luật lệ của riêng mình và chẳng thèm bận tâm có ai biết không.
Khi chúng tôi từ Áo trở về, Ernest bắt đầu gặp gỡ cô ta thường xuyên hơn. Đôi khi có cả hôn phu của cô ta, Pat Guthrie, nhập cuộc. Pat là một tay nghiện rượu có tiếng và thường không đủ tỉnh táo để rời căn hộ của họ mà không gây gổ một trận. Tôi thấy nhẹ người phần nào khi biết Duff đã có ràng buộc và, có vẻ như, đang yêu – nhưng chuyện ấy không phải lúc nào cũng có ý nghĩa như nó đáng ra phải thế.
Duff lúc nào cũng mong có bầu bạn đêm hôm và Ernest cũng vậy, và một cách tự nhiên họ bị hút về phía nhau. Tôi lo lắng về cô ta lắm, nhưng khi rốt cuộc anh cũng đưa cô ta về căn hộ xưởng cưa để chơi với tất cả chúng tôi, cô ta đã quỳ rạp xuống sàn nhà ngay trước mặt Bumby.
“Chào cưng. Cưng đẹp trai quá đi mất!”
Bumby cười khanh khách và chập chững đi ra nấp sau tôi; thằng bé vừa học đi hồi mùa đông vừa rồi, và khi nó chạy, nó nhấc đôi chân chũn chĩn thẳng đơ đến độ ta tưởng nó sắp ngã giập đầu đến nơi.
“Thật kinh điển,” Duff nhìn theo nó và phá lên cười. “Tại sao tất cả đàn ông đều chạy khỏi tôi? Chắc tôi phải đáng sợ lắm.”
“Cô không biết được đến một nửa sự đáng sợ của cô đâu,” Ernest nói.
Suốt phần còn lại của chuyến viếng thăm, cô ta ngồi ở bàn của tôi và không đòi hỏi yêu sách bất cứ điều gì. Cô ta tỏ ra là người có giáo dục nhưng không kiểu cách, và có tiếng cười thô ráp tươi rói khiến mọi thứ phải chuyển động cùng nó. Tôi mến cô ta. Tôi không muốn, nhưng quả thực tôi mến cô ta.
Cũng khoảng thời gian này, Kitty từ Luân Đôn trở về và viết thư mời tôi tới dùng bữa trà.
“Cô ta quay lại làm cái gì thế?” Ernest nói. “Anh cứ tưởng chúng ta đã thoát được con khốn mạ vàng ấy rồi chứ.”
“Anh công tâm chút đi!” tôi quát.
“Anh rất công tâm. Chỉ cần nhìn là anh nhận ra ngay ai là con khốn.”
Tôi cố lờ anh đi. Anh sẽ chẳng bao giờ thay đổi quan điểm về Kitty, dù tôi có nói hay làm gì chăng nữa. Đó là một trong những tính cách của anh khiến tôi bực mình nhất, nếu ta đã bị đánh dấu đen trong sổ của anh thì coi như xong. Tôi chẳng muốn phải cãi nhau với anh về cô, nhưng dù thế nào tôi vẫn cứ đi gặp Kitty.
Rủi thay, những cái váy đẹp hiếm hoi tôi sở hữu đều là những thứ chính cô đã tặng tôi, và vì tôi nhất định sẽ không xuất hiện trong trang phục cô đã thải ra, tôi đành đi mặc áo len với một cái chân váy nhếch nhác. Ngay khi bước vào căn hộ của cô, tôi đã phải hối hận về lựa chọn của mình. Cô còn mời thêm hai chị em gái từ Trung Tây, Pauline và Jinny Pfeiffer, và họ chưng diện đến độ hoàn hảo. Tôi nhanh chóng được biết rằng Pauline tới Paris để làm cho Vogue. Cô ta sành điệu đến mức khó tin, mặc áo khoác may từ hàng trăm miếng da sóc chuột khâu lại và đi đôi giày màu sâm banh mà có lẽ là thứ đẹp nhất tôi từng trông thấy. Trong hai chị em thì Jinny xinh hơn với cặp mắt hình hạnh nhân đẹp tuyệt, nhưng Pauline lại có thứ gì đó khác, một sự cởi mở gần như các cậu trai. Hông và vai cô ta nhỏ nhắn, tóc mái màu đen cắt bằng chằn chặn gần chạm đến lông mày.
Hai chị em là con gái một địa chủ giàu có ở Arkansas, nhưng họ lớn lên ở St. Louis. Kitty vừa mới bắt đầu kể cho tôi nghe Pauline và Kate Smith đã từng có thời thân thiết đến mức nào thì Harold và Ernest đi vào sau một trận luyện quyền Anh, mồ hôi mồ kê và cười ha hả.
Tôi ngạc nhiên khi thấy Harold – anh và Kitty quay lại với nhau rồi sao? – nhưng cô nhanh chóng bắn cho tôi một cái nhìn ngầm ý Đừng hỏi. Ngoài ra, sao Ernest lại đến đây nếu không phải là để quấy rối Kitty? Cứ tưởng lẽ ra anh phải cố tránh mặt cô mới đúng chứ. Tôi mong một cuộc đoàn tụ thân mật với cô bạn thân của mình chứ không muốn căng thẳng và lúng túng, và càng không phải với Ernest và Harold khụt khịt quanh những cô nàng mới ấn tượng này như thể họ là loài vật kỳ lạ trưng trong sở thú.
Buổi chiều dần trôi qua, cả Harold và Ernest đều uống như hũ chìm. Tôi theo Kitty vào trong bếp pha thêm trà đúng lúc Ernest bắt đầu à ơi Jinny.
“Nói thật,” Ernest nói to với Harold. “Tôi muốn đưa cô gái này đi thăm thú thành phố một chút.”
“Mình sẽ không nghĩ ra cái ý tưởng ấy đâu,” Kitty thì thào với tôi. “Jinny không thích con trai.”
“Thật á?” tôi nói. Từ nơi tôi đứng, Jinny đang bắt chước một ả đàn bà mồi chài đàn ông một cách giống không chê vào đâu được. Cô liếc cặp mắt hạnh nhân sang nhìn Ernest và thành thạo chớp chớp.
“Cô ấy chỉ muốn thỉnh thoảng mài giũa kỹ năng chút thôi. Cô ấy coi đàn ông như trò vui, mình nghĩ vậy.”
“Có khả năng kiểm soát như vậy hẳn phải tuyệt lắm,” tôi nói. “Còn cậu thì sao? Chuyện gì xảy ra với Harold vậy?”
“À, quả đúng là một thời gian sau thì anh ta cũng theo mình đến Luân Đôn. Mình đã gần như bỏ cuộc rồi ấy chứ. Harold nói anh ta cũng không chắc anh ta muốn gì nữa.”
“Nhưng anh ấy đã thấy nhớ cậu.”
“Hẳn rồi. Bọn họ luôn như thế khi cậu bỏ đi. Nhưng giờ khi mình đã ở đây rồi, cảm giác ấy kéo dài được bao lâu?”
“Tại sao mọi thứ cứ phải phức tạp vậy nhỉ?” tôi nói.
“Mình chịu,” Kitty đáo. “Nhưng rõ là nó rất phức tạp rồi.”
Trở ra phòng khách, Harold đang nằm một mình trên trường kỷ, châm một điếu xì gà lớn, trong lúc Jinny, Ernest và Pauline đứng trên tấm thảm trải trước mặt anh.
“Tôi có thể đưa cả hai cô đi chơi,” Ernest nói với các cô gái. “Xét cho cùng tôi có đến hai cánh tay kia mà.”
“Không hẳn,” Harold nói khi nhìn thấy tôi, “Vợ cậu đã sở hữu một bên rồi.”
“Thôi được rồi. Tôi sẽ đưa Jinny đi – với điều kiện cô mặc áo khoác của chị cô.”
Tất cả phá lên cười, và đó là một trong những khoảnh khắc đôminô ấy. Trận cười đó dần dà sẽ khuấy lên một loạt các sự kiện khác, nhưng vẫn chưa đâu. Giờ nó chỉ đứng đó, trong căn phòng này, nghiêng dần nghiêng dần, nhưng không đổ. Vẫn chưa đổ. Vẫn chưa.
Những tháng tiếp sau đó, vào mùa xuân năm 1925, vòng tròn bạn bè của chúng tôi tiếp tục chuyển dịch.
Lúc đầu rất khó thấy sự thay đổi, và mỗi trường hợp dường như đều chẳng mấy liên quan đến các trường hợp khác, nhưng bạn bè cũ của chúng tôi cứ rơi rụng dần và được thay thế bằng những mẫu vật giàu có hơn, phóng túng hơn. Pound và Shakespear bắt đầu dành thời gian ở Rapallo càng lúc càng nhiều hơn và giờ thì gần như sống quanh năm ở đó. Gertrude và Ernest thì bắt đầu cãi vã về đủ thứ chuyện từ vụn vặt đến to tát. Anh có vẻ hoang mang không hiểu tại sao, nhưng tôi nghĩ là do anh thay đổi quá nhanh khiến bà thấy không thoải mái.
“Alice chưa bao giờ thích anh,” một tối nọ anh nói khi chúng tôi rời khỏi phòng khách nhà họ. “Và giờ thì bà ta đang cố xoay Stein nghĩ theo bà ta.”
“Vớ vẩn. Alice yêu quý anh mà.”
“Thế thì bà ta thể hiện sự yêu quý đó theo cách hay thật đấy. Tối nay bà ta đã gần như gọi anh là kẻ tham danh vọng. Có vẻ như đầu óc anh phát triển quá nhanh thì phải.”
“Gertrude cũng yêu quý anh. Bà ấy chỉ lo lắng thôi.”
“Anh không cần bà ấy trừng trị, mà bà ấy thì dạy dỗ hay ho gì chứ? Ý anh là, thật ra bà ấy đã làm được cái gì nào?”
Tôi thấy buồn khi nghĩ đến khoảng cách nghề nghiệp đang lớn dần giữa hai người bạn rất tốt này, và tôi cũng không chắc điều đó có ý nghĩa gì đối với mình. Lớp bạn mới toàn những văn nghệ sĩ rất giàu, chỉ chăm chăm vào việc sống sao cho sướng, sao cho sở hữu những thứ tốt đẹp nhất. Chúng tôi vẫn phải chắt chiu sống với chưa đầy ba ngàn mỗi năm, và mặc dù tôi thấy chúng tôi cơ hồ chẳng có điểm gì chung với những con người này, họ vẫn rất thích chúng tôi, hay ít nhất là thích Ernest.
Pauline Pfeiffer là một trong số ấy. Bề ngoài thì cô ta chỉ là nhân viên ăn lương của Vogue – nhưng ngoài ra cô ta còn có một quỹ ủy thác, và rõ ràng nó đã giúp Pauline duy trì số phục trang mà cô ta vẫn chưng diện. Khi ấy là thời huy hoàng của Chanel và Pauline đã viết về bộ sưu tập mới của bà cho Vogue với sự nồng nhiệt gần như tới ngưỡng ám ảnh.
“Chanel đã thay đổi bóng hình của chúng ta mãi mãi,” một tối nọ cô ta nói với cả nhóm ở quán Deux Magots. “Chúng ta sẽ không bao giờ như cũ nữa.”
Tất cả đám phụ nữ khác trong bàn gật đầu như thể Pauline vừa tiên đoán về sự trở lại của Jesus lúc Phán quyết cuối cùng, nhưng tôi thì hoàn toàn lạnh nhạt với thời trang. Quần áo tôi chưa bao giờ ra hồn, và tôi cảm giác không ai có thể thay đổi hình bóng của tôi trừ phi tôi tuyệt thực.
Kitty quen Pauline nhiều năm rồi và rất muốn chúng tôi trở thành bạn. Tôi không thấy tôi và cô ta có chút xíu gì giống nhau cả, nhưng lần đầu tiên Kitty đưa cô ta tới căn hộ của chúng tôi, tôi ngạc nhiên một cách thú vị khi thấy cô ta hết sức vui tươi và hóm hỉnh.
Cô ta còn có vẻ rất háo hức muốn tôi quý mến mình. “Bao nhiêu năm trời Kate Smith cứ kể lể những điều dễ thương về chị,” cô ta nói. “Thật vui quá cuối cùng cũng được gặp chị.”
“Cô và Kate gặp nhau khi nào?”
“Ở Đại học Missouri. Cả hai chúng em đều học
ngành báo.”
“Tôi e là Kate đã cho tôi cắn câu sớm hơn thế nhiều,” tôi nói. “Hồi chúng tôi chín tuổi cô ấy đã khiến tôi buồn nôn vàng cả mặt vì hút mấy điếu thuốc đi ăn trộm được.”
“Nghe giống cô nàng em quen đấy. Chắc chị ấy phải thấy áp lực khó khăn lắm khi tìm cách làm em hư hỏng. Vì em đã quá hư mất rồi.”
Khi chúng tôi phá lên cười, tôi nghe thấy Ernest hắng giọng từ trong phòng ngủ. Tôi thấy xấu hổ vì anh không ra nói chuyện cùng cả hội mà cố tìm cớ thoái thác.
Pauline hơi nhíu mày nhìn về phía cánh cửa. Nó chỉ mở hé, nhưng có thể thấy rõ anh đang nằm trên giường, chẳng bận rộn gì cả, chỉ là không muốn nhập hội thôi.
“Em biết tỏng các ông chồng,” cô ta nói. “Em đã nghiên cứu các lão từ xa hàng bao nhiêu năm trời rồi.”
“Không tự trải nghiệm ở gần sao?” tôi hỏi.
“Thực ra là rất gần rồi đó,” Kitty chen vào.
“Chẳng quan trọng nữa. Giờ em tự do rồi,” cô ta nói. “Tự do tung tẩy, và cảm giác thật tuyệt.”
“Đừng nói với Hadley về tự do.” Kitty cười lớn. “Cô ấy có đủ loại lý thuyết và bài giảng chuẩn bị sẵn đấy.”
Tôi đỏ bừng mặt và cố thanh minh, nhưng Pauline đã đổi chủ đề rất nhanh và tự nhiên. “Kitty nói chị chơi piano rất đỉnh,” cô ta bảo. “Chị có đàn ở đây để chơi cho chúng em nghe không?”
“Buồn là không,” tôi đáp. “Tôi không phải người chuyên nghiệp.”
“Chuyên nghiệp thì có ý nghĩa gì, ngoại trừ ta chơi cho người khác nghe thay vì cho chính mình? Chị đã tổ chức buổi biểu diễn nào chưa?”
“Chưa, kể từ hồi hăm mấy đến giờ, mà ngay cả hồi ấy tôi cũng chẳng có bụng dạ nào cho thứ ấy.”
“Đôi khi thử thách thần kinh của mình cũng quan trọng lắm đấy,” cô ta nói. “Nó giữ cho ta tươi trẻ.”
“Cậu nên tổ chức biểu diễn đi,” Kitty nói. “Sẽ rất tốt cho cậu. Tất cả mọi người sẽ tới.”
“Chỉ cần nghĩ tới điều đó là tôi đã muốn bệnh rồi,” tôi nói rồi cười lớn để gạt ý kiến đó đi.
Nhưng đêm hôm ấy, khi chúng tôi nằm trên giường chuẩn bị ngủ, tôi bảo Ernest rằng tôi muốn có một chiếc piano cho riêng mình. “Em đã không nghĩ rằng mình sẽ nhớ nó đến thế,” tôi nói. “Nhưng quả thực em rất nhớ.”
“Anh biết, Mèo à. Anh cũng rất muốn em có một chiếc. Có lẽ mình sẽ mua khi có tiền ứng trước.”
“Thật là những từ ngữ êm tai anh nhỉ?”
“Ừ, chỉ ‘tạm’ ứng thôi, nhưng khoan hãy vội tiêu gì nhé.”
“Không đâu, Tatie, em sẽ không tiêu đâu.” Nhưng tôi vẫn sung sướng chìm vào giấc ngủ.
Vào một đêm đầu tháng Năm, Ernest và tôi đang đi chơi tối chỉ hai đứa với nhau ở quán Dingo thì Scott Fitzgerald từ quầy bar bước tới và tự giới thiệu.
“Cậu là Hemingway,” Fitzgerald nói. “Vài tuần trước Ford có cho tôi xem một truyện ngắn của cậu và tôi nói, “Chà, đây rồi, phải không? Cậu ta rất có chất đấy.”
“Xin lỗi tôi chưa đọc cuốn sách nào của anh,” Ernest nói.
“Không sao. Tôi cũng không chắc mình còn viết sách không nữa. Kể từ khi hai vợ chồng tôi tới Paris thì có tới hàng ngàn buổi tiệc tùng và chẳng có công việc gì sất.”
Ernest nheo mắt nhìn anh ta qua ánh đèn. “Thế thì anh đâu thể hoàn thành thứ gì được.”
“Sao tôi lại không biết? Nhưng Zelda mê nhảy nhót. Các bạn nên gặp cô ấy. Cô ấy rất đáng để chiêm ngưỡng đấy.”
Mắt anh ta quay qua sàn nhảy nơi vài cặp đôi đang lượn một điệu tango uốn khúc.
“Thật ra tôi cũng có một cuốn tiểu thuyết vừa ra lò. Đại gia Gatsby.”
“Tôi sẽ tìm đọc nó,” Ernest nói. “Anh cầm cự thế nào trong khi chờ các bài phê bình ngắn?”
“Việc ấy không quá khó với tôi. Còn xa mới rắc rối bằng việc đặt bút viết lúc đầu. Và một khi đã xong, dường như tôi không đi tiếp được. Như gã Gatsby này chẳng hạn. Tôi biết gã quá rõ, như thể gã là con tôi. Gã chết mà tôi vẫn lo cho gã. Thế có buồn cười không?”
“Thế ngay bây giờ anh không đang làm bất kỳ cái gì à?” tôi hỏi, lòng băn khoăn không hiểu mình có thu đủ can đảm để nói cho anh ta hay mình đã từng đọc một cuốn của anh ta.
“Ý là ngoài việc nhảy nhót ấy?”
Anh ta nhe hàm răng dễ thương về phía tôi.
“Không, nhưng tôi sẽ viết nếu chị hứa sẽ thán phục mọi từ ngữ một cách ngông cuồng. Nói tôi hay, nãy giờ chị nghĩ gì về tôi?”
Khoảng một tiếng sau, Ernest và tôi tống Scott vào một chiếc taxi.
“Anh không thích một thằng đàn ông không thể cầm chắc ly rượu của mình,” anh nói khi chiếc xe đi rồi.
“Anh cứ tưởng hắn ta sẽ ngất ra trên bàn chứ.”
“Trông cậu ấy nhợt nhạt quá nhỉ? Mà cậu ấy còn hỏi những câu riêng tư đến sửng sốt nữa chứ. Anh có nghe cậu ấy hỏi em đã bao giờ yêu cha mình chưa?”
“Hắn cũng hỏi anh thế, rồi lại còn anh có sợ nước hay không, chúng ta có ngủ với nhau trước đám cưới không. Hắn kỳ lạ thật, phải không?”
Anh ta đúng là kỳ lạ, và đó có lẽ là cuộc gặp gỡ cuối cùng của chúng tôi với Fitzgerald nếu anh ta không nghĩ đến chuyện lùng tìm địa chỉ của chúng tôi để gửi tặng một bản Đại gia Gatsby. Ernest chỉ xếp nó lên giá sau khi mở bưu kiện, và có lẽ nó đã bị lãng quên ở đó nếu tôi không vì quá tò mò mà đọc. Nó không quá ảm đạm, ít nhất lúc đầu truyện thì không.
Nhưng khi mọi chuyện rất nhanh chóng trở nên vô cùng tàn khốc thì tôi đã hoàn toàn bị câu chuyện cuốn hút tự lúc nào. Sau khi tôi ngấu nghiến quyển sách và bị ấn tượng khủng khiếp, tôi bảo Ernest đọc. Anh đọc xong trong một buổi chiều rồi tuyên bố đó là một cuốn tiểu thuyết hay chết bỏ, sau đó gửi một tin nhắn nói những lời tương tự tới Fitzgerald. Vài ngày sau tất cả chúng tôi gặp nhau vào buổi tối, ở quán Nègre de Toulouse. Khi chúng tôi tới thì Fitzgerald
và Zelda đã ở đó và đã uống gần hết chai sâm banh thứ hai. Tâm trí cô đã mờ mịt khi cô đứng lên bắt tay chúng tôi, và trông cô như thể cô đã nuôi dưỡng điều ấy – một sự mù mờ đẹp đẽ. Cô mặc một bộ váy trang trọng nhạt màu gồm nhiều lớp mỏng, lớp này chồng lên lớp kia, chúng bồng bềnh mơ màng quanh cô khi cô ngồi xuống. Làn da cô sáng màu, mái tóc lượn sóng của cô cũng vậy, và toàn bộ con người cô dường như cũng cùng một sắc màu ấy, ngoại trừ đôi môi, được tô son đỏ rất thẫm và rõ nét.
Scott đứng dậy khi chúng tôi tới bên bàn họ, và Zelda mỉm cười với vẻ rất lạ, mắt cô nheo lại. Cô không hẳn là đẹp, nhưng giọng cô thì rất đẹp – trầm và tao nhã.
“Chào hai bạn,” cô nói, rồi nhanh chóng quay qua Ernest.
“Scott bảo anh rất có chất.”
“Vậy sao? Anh ấy cũng bảo cô rất đáng chiêm ngưỡng.”
“Anh đã nói thế ư cưng yêu?” cô hỏi, tay lướt dọc một bên mái đầu như tạc của Scott. Sau cái cử chỉ rất có thể trở nên ngớ ngẩn đến quái gở đó, cô và Scott trượt vào sau một bức màn riêng tư trong thế giới nhỏ của riêng họ. Mắt họ khóa lấy nhau, và họ như không còn ở bên chúng tôi nữa, hay bên bất kỳ ai trong quán, mà chỉ ở bên nhau, bị cuốn đi trong một cái nhìn bí mật dài dằng dặc.
Sau đó chúng tôi xem họ nhảy điệu Charleston và ấn tượng tương tự. Họ không nhảy choi choi điên cuồng như các cặp khác, họ mượt như nước, cánh tay cong lên phía trước lùi về phía sau như có dây kéo. Váy của Zelda bùng lên khi cô di chuyển và cô rất thường xuyên với tay kéo nó lên cao hơn, qua cả phần trên nịt bít tất. Một hành động hơi sốc, nhưng trông như thể cô không có ý làm ai bị sốc. Cô khiêu vũ cho bản thân mình và cho Scott. Họ di chuyển trong quỹ đạo của nhau, bình tĩnh đến không tưởng, ánh mắt họ dán chặt lấy nhau.
“Anh thấy cô ấy sao?” tôi hỏi Ernest.
“Cô ta không đẹp.”
“Ừ, nhưng cô ấy có gì đó rất đặc biệt, phải không?”
“Anh nghĩ cô ta bị điên.”
“Anh đùa à?”
“Thật đấy,” anh nói. “Em đã nhìn vào mắt cô ta chưa?”
Vào cuối buổi tối, họ mời chúng tôi tới căn hộ của họ ở khu hữu ngạn thời thượng gần quảng trường Étoile. Đó là một tòa nhà cho người giàu, ta có thể thấy ngay điều đó, nhưng khi vào bên trong chúng tôi mới thấy bản thân căn hộ thì là một đống hỗn độn, quần áo sách vở giấy tờ đồ trẻ con vương vãi khắp nơi. Chúng tôi đẩy một đống tướng sang bên để có chỗ ngồi trên sofa, nhưng Scott và Zelda có vẻ như chẳng chút ngượng ngùng. Họ tiếp tục giải khuây cho nhau như lúc nãy trong quán, không những thế còn ồn ĩ hơn. Thực ra họ làm ồn đến nỗi chúng tôi nghe tiếng một đứa trẻ khóc từ một chỗ nào đấy sâu trong căn hộ, rồi một vú em người Anh đi ra bế theo Scottie, đứa con gái mũm mĩm của họ. Con bé mặc một bộ đồ ngủ điệu đà, chiếc nơ to nghiêng nghiêng ở một bên mái tóc vàng óng đẹp tuyệt của nó. Mặt nó nhàu nhĩ vì úp lên gối.
“Ôi, đây là cục cưng của tôi,” Zelda vừa nói vừa đứng lên đón lấy con bé. “Món thịt cừu hầm nho nhỏ của mẹ phải không?”
Con bé cười ngái ngủ và có vẻ hài lòng, nhưng khi Zelda ôm con bé ngồi xuống một cái ghế bành mạ vàng nhưng sờn cũ, cô trở nên chú tâm vào việc cố hóng chuyện giữa Scott và Ernest đến nỗi con bé rơi tõm từ lòng cô xuống đất. Zelda hình như thậm chí còn không chú ý chuyện gì vừa xảy ra. Người vú em nhào vào dỗ dành bé Scottie giờ đang khóc thét lên, còn Zelda quay sang tôi nói,
“Cô đang bảo gì nhỉ?” Mắt cô có vẻ lơ đãng và kỳ lạ, như thể tâm trí cô đang hoàn toàn ở trên một hành tinh khác.
“Tôi mong đến chết đi được lúc Scottie của tôi trở thành thiếu nữ, cô biết không. Điệu đà và khó dò thấu và bọc trong ánh bạc.”
“Con bé rất dễ thương,” tôi nói.
“Đúng thật phải không? Nó sẽ không bao giờ là một kẻ không thể tự lo liệu. Cô cũng nhận ra điều đó đúng không?” Cảm xúc của cô đột nhiên trở nên mãnh liệt đến đáng ngại.
“Vâng,” tôi đồng tình và băn khoăn không biết Ernest có nói đúng không. Nhưng ai mà phân biệt nổi giữa điên thật và điên vì sâm banh, một chuyện diễn ra ở khắp mọi nơi?
Nhưng tôi gần như có thể khẳng định rằng với hai con người này, tiệc tùng dường như không bao giờ dứt. Chưa đầy một tuần sau, họ xuất hiện ở căn hộ xưởng cưa lúc sáu giờ sáng, vẫn còn say khướt sau cuộc chơi đêm. Chúng tôi đang say ngủ thì họ đập thình thình lên cửa và réo rắt hét váng tên chúng tôi.
Có vẻ như họ không quan tâm đến chuyện chúng tôi chỉ đang mặc đồ ngủ. Chúng tôi pha cà phê, nhưng họ không uống. Họ cười lớn, và thề trung thành với một nghệ sĩ ba lê nào đó họ gặp trong quán đêm hôm trước nhưng chúng tôi chưa bao giờ nghe tên.
“Zelda rất nhạy cảm với nghệ thuật, các bạn biết không,” Scott nói. “Cô ấy không thật sự thuộc về trái đất này chút nào, cô gái của tôi ấy.”
Mặt Zelda thoắt trở nên ưu phiền một cách rất kịch.
“Anh sẽ không kể với họ chứ?”
“Có lẽ chúng ta nên nói, em yêu à. Đằng nào họ cũng đoán ra.”
“Vâng, thế thì.”
Mắt cô mở to.
“Cách đây không lâu, tôi yêu một người đàn ông khác rất sâu đậm. Việc đó gần như giết tôi và cả Scott nữa.”
Scott đứng lên bên cô và làm một cử chỉ như thể đang vuốt tóc cô mà không thực sự chạm vào.
“Việc đó gần như giết chúng tôi, nhưng nó quả thực đã giết người kia. Khủng khiếp quá. Báo nào cũng đăng.
Chắc hai bạn cũng đọc được đôi chút rồi.”
Tôi lắc đầu nói, “Rất tiếc hai người phải kể lại toàn bộ thôi. Đúng là chuyện này nghe kinh khủng quá.”
“Ừ, thế này,” Zelda nói, đột ngột tách ra khỏi khoảnh khắc này như thể một vị đạo diễn vô hình nào đó vừa hô Diễn.
“Người đó quả đã muốn chết vì tôi. Và điều đó khiến Scott và tôi thêm khăng khít.”
Ernest rụt người lại và nhìn đăm đăm vào cốc cà phê của anh, không nói gì. Tôi có thể đoán ra anh vẫn chưa biết nên nghĩ thế nào về hai con người này. Có vẻ như họ chắc chắn không phải kiểu của chúng tôi, nhưng tôi không chắc là mình biết kiểu của chúng tôi giờ đây là gì nữa. Luật chơi cơ hồ đang biến đổi mỗi ngày.
“Anh đã biết là cô ta gàn dở,” Ernest nói khi họ đi khỏi, “nhưng giờ anh băn khoăn cả về anh ta nữa. Cô ta đang hút anh ta vào. Như kiểu một dạng ma cà rồng.”
“Đúng là có vẻ như cô ấy kiểm soát Scott rất chặt chẽ,” tôi nói.
“Nếu là anh thì anh sẽ không chịu nổi.”
“Anh không phải chịu với đựng gì nữa đâu,” tôi cáu kỉnh tự vệ.
“Nào, Tatie. Anh không có ý gì cả. Em đâu có giống Zelda chút nào. Cô ta quá ghen tị với công việc của Scott, anh cho rằng cô ta sẽ vui lắm nếu anh ta không bao giờ viết thêm một từ nào nữa.”
“Họ không chi trả nổi nếu cậu ấy ngừng viết đâu.”
“Anh ta kể với anh năm ngoái họ tiêu hết ba mươi ngàn đô la, chỉ cứ thế mà bơi qua thôi.”
“Họ sống với ba mươi nghìn còn chúng ta sống được với ba nghìn. Thật kỳ cục.”
“Anh cho rằng chúng ta sống khá hơn, em nghĩ thế không?”
“Vâng,” tôi nhấn mạnh.
Từ một phòng khác, Bumby bắt đầu làm náo động cả lên. Tôi đặt tách cà phê của mình xuống và đứng lên để bế thằng bé sang, và Ernest nói,
“Anh không muốn cuộc sống của họ, nhưng thật khó khăn khi phải chứng kiến bao nhiêu tiền như thế bị lãng phí trong khi chúng ta chẳng có đồng nào. Nếu anh vay tiền Scott cho chuyến đi Pamplona của chúng ta tháng Bảy này thì sao nhỉ?”
“Anh có nghĩ chúng ta đủ quen thân họ để vay tiền không?”
“Có lẽ là không. Chúng ta phải đến đó bằng cách nào đó. Có lẽ Don Stewart chăng?”
“Cậu ấy là người tốt.”
“Ừ,” anh nói. “Nhưng mà em biết gì không. Có vẻ như ai cũng muốn tham gia chuyến đi này. Chuyện này mỗi lúc một thêm phức tạp.”
“Vẫn còn nhiều tuần nữa mới tới cơ mà. Việc có thể phức tạp đến mức nào được chứ?”
“Em không muốn biết đâu.”
Chú thích:
(*) Emmanuel Rudzitsky (1890-1976), nổi tiếng với nghệ danh Man Ray, là một
nghệ sĩ người Mỹ, ông sống phần lớn thời gian sự nghiệp tại Paris.