← Quay lại trang sách

BA MƯƠI MỐT

Trong khu đường sắt, lũ bò tót bước xuống các toa tàu, vừa rống lên vừa đi vòng vèo, hoảng loạn, mắt chúng đảo ngược về phía sau. Chúng không biết phải đi đâu, và thật khó khăn khi phải chứng kiến vì chúng tôi biết đến cuối ngày chúng sẽ chết. Lúc ấy đang là buổi sáng, tiết trời khá mát mẻ so với một ngày tháng Bảy. Móng guốc lũ bò hất tung bụi vào không khí khiến mắt chúng tôi cay sè, trong khi Ernest chỉ vào khoảng cơ gồ lên giữa hai xương bả vai nơi thanh kiếm có nhiệm vụ đâm trúng.

“Vâng, thưa quý ngài,” Harold Loeb nói. “Đó là giây phút của sự thật.”

Mặt Ernest trở nên chua chát.

“Anh thì biết gì về việc đó?”

“Biết đủ, tôi đoán vậy,” Harold nói.

Đúng lúc ấy Duff đến và nắm lấy khuỷu tay Ernest.

“Tất cả những điều này tuyệt quá phải không?”

Cô ta nhìn anh như một đứa trẻ sắp có mọi thứ theo ý mình, mắt tít lại và nụ cười rộng mở. “Nhưng mà nó khiến cho một cô nàng đói quá đi mất. Ai sẽ cho tôi ăn nào?”

“Ồ, được thôi. Hẳn rồi,”

Ernest nói, vẫn với vẻ chua chát, và hai người họ dẫn đường tới quán ăn.

Ernest đội mũ bê rê, mặc áo len xanh lính thủy và quần trắng, chiếc khăn quàng tối màu thắt ở cổ. Duff thì hoàn hảo hơn bao giờ hết trong chiếc áo len sợi bông dáng dài, cổ cồn Eton bằng lụa xanh lục nhạt. Tóc cô ta chải ngược lên từ trán, và cô ta bước đi với dáng vẻ cao ráo, thẳng thớm. Ernest sải bước song song cô ta, cằm anh hất lên kiêu hãnh. Có lẽ anh vẫn

tức Harold, nhưng đang cố nuốt vào trong bụng. Từ đằng sau, hai người họ với nhau trông như thể thuộc về một tạp chí thời trang, và tôi nhận ra hôn phu của Duff, Pat Guthrie, cũng để ý thấy điều này. Ai cũng thấy, và Pat tội nghiệp trông có vẻ đau khổ nhiều ngày nay rồi.

Tôi thấy thương hại Pat, dù nếu là mình thì tôi sẽ chẳng muốn sống với anh ta. Anh ta uống quá nhiều và có thể trở thành một mối phiền nhiễu kinh khủng khi uống. Chiều nào cũng vậy, anh ta sẽ khởi đầu tươi tỉnh và hài lòng với mọi thứ. Anh ta thích nói về nhạc đại chúng và có thể hát hò nhảy nhót hết sức khỏe và nhiệt thành, nhưng sau ba hay bốn ly cocktail thôi là anh ta trở nên ác ý và trịch thượng như bị cái gì nhập vào. Nếu anh ta tiếp tục uống mà Duff không

đuổi anh ta về, thì anh ta lại thay đổi lần nữa, trở nên lầm lì và khinh khỉnh. Tôi tự hỏi không hiểu làm thế nào Duff theo kịp tâm trạng của anh ta – hay làm thế nào anh ta theo kịp chính mình. Khi tỉnh dậy, liệu anh ta có thấy ghê tởm cái cách anh ta xoắn vặn hết bên này đến bên khác như thế? Liệu anh ta có nhớ chút gì không?

“Chúng ta uống đến tối luôn nhé?” Harold vừa nói vừa bước lên đi cạnh tôi.

Tôi mỉm cười khoác tay anh, muốn làm anh thấy khá hơn, dù chỉ một lúc thôi. Mà biết đâu nếu chúng tôi đi cùng nhau, anh cũng sẽ cố làm tôi thấy khá hơn. Có Chúa mới biết tôi cần điều ấy thế nào.

Tuần trước đó, chuyến đi khởi đầu không suôn sẻ ở Burguete, khi chúng tôi đi câu cá ở Irati – một trong những con sông Ernest yêu thích nhất thế giới – để rồi thấy rằng nó đã bị hủy hoại hết cả. Bà chủ khách sạn chúng tôi ở đã cố cảnh báo rằng không còn chỗ câu cá tốt nữa đâu, nhưng Ernest cười lớn bỏ qua lời khuyên của bà. Đám tiều phu đã đến đó đốn gỗ thông gỗ sồi, và khi chúng tôi đến dòng sông thì thấy nó ngập rác rưởi và trôi nổi gạch vụn. Đập vỡ. Cá chết giăng khắp hai bờ và làm tắc các hồ nhỏ. Cảnh tượng đó gần như quá sức chịu đựng, nhưng chúng tôi cũng cố chịu thêm vài ngày, đi xa hơn về phía các con suối nhỏ. Không ai câu được một con cá nào.

Bill Smith, một người bạn cũ từ Chicago, cũng đi cùng chúng tôi, cậu bị những bài báo của Ernest về câu cá đẳng cấp thế giới nhử đến đây, và cả những bài về các trận đấu bò mà chúng tôi đi xem tiếp sau đó nữa. Chúng tôi không gặp cậu lần nào kể từ thời ở Chốn Cư Ngụ. Khi tình bạn giữa Kenley và Ernest rạn vỡ thì căng thẳng cũng len lỏi trong các mối quan hệ của chúng tôi với họ nhà Smith, nhưng từ đó đến giờ chúng tôi vẫn thư qua thư lại khá đều đặn với Kate, cô vẫn làm nhà báo ở Chicago. Và khi Bill đến gặp chúng tôi ở Paris, chúng tôi vui mừng nhận thấy cậu vẫn như xưa, đầy những câu chuyện sống động và cái gì cũng lấy làm trò cười được. Cậu mang theo toàn bộ lũ ruồi giả mình có cho chuyến đi Tây Ban Nha này – phần thưởng cho tất cả những kẻ chiến thắng hồi xưa ở các cuộc thi câu cá mùa hè hồ Sturgeon hay hồ Black trên mạn Michigan – và tôi nghĩ Ernest suýt bật khóc khi Bill mở hộp dụng cụ của mình ra cho anh xem lũ ruồi, vì giờ chúng trở nên vô dụng.

Đến Pamplona, chúng tôi vẫn cảm thấy có gì không ổn. Xung quanh có rất nhiều bạn bè, và lẽ ra phải rất vui, nhưng không. Ở Paris, Ernest và Duff đã thôi vờn nhau rồi, nhưng phần lớn chuyện ấy gần như vô hại. Tuy nhiên, một thứ khác đã xuất hiện làm thay đổi nó, và thứ khác đó là Harold. Anh say Duff như điếu đổ và lôi cô ta đi St. Jean-de-Luz một tuần. Khi Kitty kể tôi nghe về vụ lăng nhăng này, cô nói gần đây Harold cư xử quá lạ lùng nên cô đã nghi chuyện

như thế sắp xảy đến. Tôi chưa bao giờ hiểu được làm sao thỏa thuận giữa Harold và Kitty có thể xuất phát từ tình yêu. Giờ thì tôi thấy khó hiểu chẳng kém và khá bực mình trước cách phản ứng cực đoan của Ernest. Anh đâu có quyền gì với Duff – chuyện này lẽ ra không có gì quan trọng với anh cả, thế mà có đấy, và thoắt nhiên mọi người đều biết.

Sáng hôm đấu bò, tất cả chúng tôi đều dậy từ sớm xem lũ bò chạy trên phố. Lần đầu tôi xem vào mùa hè tôi mang thai Bumby, mọi chuyện dường như trôi qua quá nhanh đến độ tôi không nhớ nổi mình đã thấy những gì. Giờ thì Bumby đang an toàn ở Paris với Marie Cocotte, và dù tôi vẫn luôn mong mỏi cũng như rất cần nghỉ ngơi khỏi vai trò liên tục của một người mẹ, tôi vẫn không biết chắc mình nên cảm thấy thế nào khi được tự do.

Sáng hôm ấy đường phố rất trơn. Lúc gần sáng có mưa nhỏ, và ta có thể thấy lũ bò vất vả bấu víu lấy mặt đường lát đá cuội. Một con ngã ra và vật lộn, cần cổ dày rướn lên, mắt đảo toàn lòng trắng, toàn bộ chuyện đó trôi qua như trong một cảnh quay chậm.

Chúng tôi đứng ngay sau một bức tường thấp, gần đến độ ngửi thấy cả mùi mồi hôi hoang dại của lũ bò lẫn nỗi phấn khích của tất cả người xem. Dù vài người không nhìn, hoặc không thể nhìn.

“Lũ bò như đến từ thời tiền sử,” đêm hôm trước Ernest đã nói với Bill như vậy. “Chúng được nuôi sáu trăm năm để làm nhiệm vụ này, để chạy tới đấu trường, để ra sức húc cho tới chết một cái chết đã định sẵn. Bản chất của chuyện này quá sức đẹp đẽ. Hãy đợi mà tận mắt chứng kiến.”

“Tớ sẵn sàng rồi đây,” Bill đã nói vậy, nhưng khi đứng trên phố và nhìn rõ ràng hơn mọi sự thì sự chắc chắn của cậu dường như lay động. Khi chúng tôi đang xem, một thanh niên chạy quá gần một con bò lớn và bị xô vào tường, chỉ cách chỗ chúng tôi đứng khoảng sáu mét. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng cánh tay anh ta bị gãy quặt lại sau lưng. Anh ta thét lên cố bò lên bờ tường, nỗi khiếp sợ trên khuôn mặt anh ta là một hình ảnh vô cùng xấu xí.

“Quá sức cậu à bạn già?”

Ernest nói khi thấy Bill quay đi.

“Có lẽ thế,” Bill nói.

Ernest đang đứng gần Duff, sắc mặt anh hết sức phấn khích. “Thấy chưa?” Anh chỉ vào con bò đang xông về phía người thanh niên, cái đầu vuông của nó chúi xuống thấp. “Thị lực của con bò rất kém, nhưng nó đánh hơi thấy hắn ta, và nó đang rất thong thả. Nhìn nó kìa. Nó đang xông tới, Chúa ơi.”

“Tôi không thể tin nổi cậu thấy đây là trò giải trí,”

Bill lặng lẽ nói với Ernest.

“Còn có thể là gì nữa đây? Đó là sự sống và cái chết, người anh em, chuyện thường ngày ở huyện.”

Con bò xông tới, vươn sừng bên phải ra trước, cái đầu to tướng của nó hất sang một bên khiến nó trông như con ác quỷ, thật sự, dồn người kỵ sĩ đang lăn lê bò toài vào bờ tường. Nhưng rồi một bàn tay xuất hiện ở bên kia bức tường. Chúng tôi không thấy ai đã đưa tay giúp đỡ, nhưng thế là đủ. Người kỵ sĩ có đủ lực kéo để chạy lên vượt qua bờ tường, và thế là thoát. Đám đông rộ lên tiếng hoan hô nhỏ khi anh ta được an toàn.

“Chắc cậu thất vọng lắm,” Bill vừa nói vừa nhìn Ernest với vẻ châm chọc.

“Không hề.”

“Anh ta có thể đã bị thương rất nặng phải không?”

Duff hỏi.

“Có lẽ. Chuyện như thế có thể xảy ra. Tôi từng chứng kiến rồi.”

“Chắc phải thú vị kinh lên được ấy nhỉ?” cô ta nói.

“Một màn biểu diễn hay nhất từ trước đến nay.”

Con bò cuối cùng chạy qua chúng tôi, và rồi các pastore cầm gậy chạy theo chúng, sau đó pháo thăng thiên được phóng lên, thông báo tất cả lũ bò đã an toàn trong vòng đấu.

“Tuyệt đẹp,” Duff nói.

Tôi cố nhớ lại liệu tôi có nghĩ những cảnh tượng này là tuyệt đẹp hồi xem lần đầu, khi Ernest dạy tôi theo cái cách anh đang dạy Duff bây giờ. Cuộc sống của tôi đã thay đổi quá nhiều trong hai năm ngắn ngủi sau đó, nhưng tôi nhớ mình đã hào hứng và đồng thời bĩnh tĩnh đến lạ lùng, vì tôi đang mang bầu và cảm thấy mình an toàn, được che chở khỏi mọi thứ theo cách tốt nhất. Cơ thể tôi đã làm đúng nghĩa vụ của nó, và những con vật này, chúng cũng đang sống theo định mệnh của mình. Tôi có thể xem mà không cảm thấy đau đớn hay sốc, chỉ ngồi cạnh Ernest khâu quần áo chăn gối cho đứa con sẽ chào đời trong ba tháng nữa, mặc cho ngày hôm đó có xảy ra chuyện gì. Và tôi nhớ đêm hôm trước mình đã cảm thấy rất vui vẻ về mọi việc, cả điệu nhảy riau-riau và màn bắn pháo hoa, mặc dù tiếng ồn khiến tôi không thể ngủ nổi.

Cái năm đầu tiên ấy, chúng tôi dường như là những người Mỹ duy nhất ở Pamplona. Ernest đã gọi nó là Vườn Địa Đàng – nhưng giờ thì điều đó chắc chắn đã thay đổi rồi. Những chiếc limousine đưa cả xã hội từ Biarritz tới. Các tài xế vận đồng phục mở cửa xe cả đêm và ngồi gần xe chờ đám người dự hội chơi chán rồi chui trở lại cái kén da ngập ngụa mùi sâm banh. Nhưng kể cả không có đám nhà giàu đổ đến phá hỏng mọi thứ, nó cũng đã hỏng sẵn từ trước rồi.

Harold vẫn điên cuồng vì Duff. Ta có thể thấy rõ điều đó vào bữa trưa, khi có lúc anh tái nhợt mặt vì cô ta, rồi sau đó bắt đầu làm loạn lên với người bồi bàn để đảm bảo cô ta có đúng thứ đồ uống đã gọi.

“Ôi, không sao đâu mà cưng,” cô ta nói. “Em vẫn còn sống sót ở đây, ít nhất là cho đến lúc này.”

Tất cả chúng tôi tụ lại ngồi xung quanh một chiếc bàn ngoài trời, với Duff, Ernest và Harold ở một bên và Pat, Bill cùng tôi ở bên kia. Pat mặc một bộ vét mùa hè tuyệt đẹp với gi lê vải lanh màu xanh lính thủy. Anh ta tìm thấy một chiếc mũ bê rê giống của Ernest khi ra ngoài chơi và giờ đang đội nó cao phía trên trán theo một góc nhìn rất yêu đời. Ấy thế nhưng mặc cho những tỉa tót lịch sự ấy, khi Harold tỏ ra ân cần một cách quá lộ liễu với Duff, anh ta trở nên cáu kỉnh và hiếu chiến.

“Thôi đi Harold,” anh ta quát. “Đi mà dạo quanh khu nhà ấy.”

“Sao cậu không im đi nhỉ,” Harold đáp. “Hoặc là tôi bảo này, hãy uống thêm một ly nữa.” Anh quay ra hét to về phía sau không với người nào cụ thể, “Mang cho ông này một ly nữa nhé!”

Đúng lúc ấy Don Stewart đi tới, trông bình thản và gọn gàng trong chiếc quần flanen xám và áo sơ mi trắng mới tinh. Anh liếc quanh bàn và lập tức ngửi thấy mùi căng thẳng.

“Ai vừa chết hả các cậu?”

“Không ai quan trọng cả đâu,” Ernest đáp.

“Đột nhiên tôi thấy đau đầu quá,” tôi nói. “Xin phép tất cả mọi người nhé.” Tôi chuồn ra phía bên bàn mình rồi đứng cạnh Don.

“Cậu đưa cô nhóc tội nghiệp về nhà được không Donald?” Ernest hỏi.

“Em không sao mà,” tôi nói. “Em sẽ ổn thôi.”

“Vớ vẩn,” Don gạt đi. “Trông chị trắng bệch như ma ấy.”

Trước cả khi chúng tôi đi tới cửa, khoảng cách đã siết lại quanh bàn, thậm chí chẳng thể nhận ra tôi đã từng ngồi đó. Ernest giờ đã ngồi sát Duff hơn, Pat cũng xích qua để được gần hơn nữa. Duff ngồi chính giữa trông như một hòn đảo bánh trứng chanh trôi nổi. Thế mà cô ta thậm chí không có vẻ gì là để ý đến điều ấy.

Tôi biết ơn vì Don đã đề nghị đưa tôi về nhà. Thực ra tôi đang thấy cô đơn khủng khiếp, và ở bên Don rất thoải mái. Kể từ khi chúng tôi gặp nhau hồi hè năm ngoái, cậu luôn bầu bạn với tôi khi chúng tôi đi chơi thành nhóm. Tôi cảm giác cậu như một người bạn đồng điệu của mình, vì cậu cũng không hoàn toàn thích hợp với Paris. Cậu là một nhà văn thông minh hiểu biết, một cựu sinh viên Yale, nhưng về nhiều mặt cậu vẫn chỉ là cậu bé lớn lên trên nông trại ngoại ô Columbus, Ohio. Ở Paris, ai nấy đều quyết liệt và cường điệu, sẵn sàng quăng mình xuống mương vì nhau.

“Tôi hiểu tại sao không ai thèm để tâm đến những quy tắc thông thường,” có lần cậu nói với tôi. “Tôi cũng từng tham chiến mà, chị biết rồi đấy. Sau chiến tranh, không gì còn có vẻ ngoài hoặc có cảm giác như cũ nữa, vậy thì giữ gìn quy tắc còn ích gì?” Mặt cậu trở nên nghiêm nghị. “Dẫu vậy, tôi vẫn nhớ những con người kiểu cũ tốt bụng chính trực chỉ cố đạt được gì đó trong đời. Rất đơn giản, và không làm tổn thương bất cứ ai khác. Tôi biết nếu làm thế mình sẽ

biến thành thằng khờ.”

“Cậu sẽ muốn tìm một cô gái giống mẹ mình, tôi cá đấy.”

“Có lẽ vậy. Tôi muốn mọi thứ trở lại hợp lý như xưa. Đã lâu rồi chúng không còn có lý nữa.”

Tôi tin rằng lúc ấy tôi đã hiểu cậu, nhưng giờ đây khi Don đưa tôi về khách sạn, tôi cảm thấy mối liên kết giữa chúng tôi còn mạnh mẽ hơn. Tôi cũng muốn mọi thứ có lý trở lại. Hơn bất cứ điều gì khác.

“Chị cầm cự thế nào, chị bạn quý mến?” cậu hỏi.

“Khá hơn vài người, mong là vậy. Tội nghiệp Harold.”

“Tội nghiệp Harold ư? Thế còn Pat thì sao? Anh ta mới là người có hôn ước với Duff.”

“Tôi thấy có vẻ như mối ràng buộc giữa họ quá lỏng lẻo,” tôi nói. “Cô ta lôi Harold đi Riviera hai tuần rồi sau đó lại tỏ ra ngạc nhiên khi thấy anh ấy thương nhớ mình, và hơn thế nữa, làm Pat phát điên lên. Thật độc ác.”

“Tôi không nghĩ cô ta cố tình độc ác. Tôi thấy cô ta có vẻ buồn bã khủng khiếp trước chuyện này.”

Chúng tôi đi tới góc phố nơi chợ ngày đang tan. Một bà đang đang xếp chồng giỏ lên nhau, một bà khác thì vốc những nắm ớt khô đỏ màu máu vào một chiếc bao bố. Gần đó, một cô bé ngồi trên nền đất, vừa ôm một con gà vừa nghêu ngao hát cho nó nghe. Tôi bước chậm lại để chúng tôi có thể ngắm cô bé lâu hơn. Mái tóc đen tuyệt đẹp ôm lấy khuôn mặt hình trái tim của cô bé. Cô bé vừa hát vừa vuốt ve chú gà và có vẻ như hoàn toàn chìm đắm trong đó.

“Chị nhìn con bé như muốn ăn tươi nuốt sống nó vậy,” Don nói. “Hẳn chị phải nhớ bé Bumby lắm.”

“Nhớ như điên. Không nghĩ về thằng bé khiến tôi thấy thoải mái hơn. Đôi khi tôi tự nhủ mình là hai con người. Tôi là mẹ khi ở bên thằng bé và là một người khác khi ở đây, rất xa.”

“Là Hadley của Hem.”

“Có lẽ. Hoặc có thể chỉ là Hadley của riêng tôi thôi.”

Chúng tôi có thể thấy mái vòm lấm chấm của khách sạn La Perla và bức tường hoa giấy chằng chịt. Tôi dừng lại quay qua cậu.

“Sao cậu không dính lấy Duff luôn? Tất cả những người khác đều thế mà.”

“Cô ta đúng là món ngon, và muốn đầu hàng cũng dễ thôi. Chị biết không, cô ta từng đề nghị tôi thanh toán tiền khách sạn ở đây hộ, vì giờ cô ta không thể nhờ Harold nữa. Có khi cô ta cũng hỏi Hem rồi cũng nên.”

“Tôi chẳng ngạc nhiên.”

“Chị và Hem vẫn ổn chứ? Cậu ta sẽ không ngu ngốc đến độ bỏ chị mà chạy theo cái danh hiệu Công nương mặc áo len đẹp ấy đâu, phải không?”

Tôi rụt người lại.

“Có lẽ chúng ta nên uống một chút gì đó.”

“Xin lỗi chị, lẽ ra tôi không nên nói thế. Tôi rất quý trọng hai người. Nếu hai người không giữ gìn hạnh phúc được thì bọn còn lại chúng tôi làm sao còn cơ hội gì chứ?”

“Cậu thật dễ thương quá, Don ạ,” tôi nói rồi tiến tới trước hôn lên má cậu. Da cậu cạo nhẵn nhụi như da em bé, và từ cậu tỏa ra một thứ mùi tinh sạch như mùi tonic.

“Còn chị thì có lẽ là cô gái tuyệt vời nhất trên đời,” cậu nói giọng tràn đầy cảm xúc, và hôn lại tôi. Môi cậu khô rang và mộc mạc trên má tôi, nhưng rồi cậu di chuyển thật khẽ khàng và hôn lên môi tôi. Khi rời ra, mắt cậu ướt và đầy chất vấn.

“Chắc không phải chị cũng yêu tôi chứ, dù chỉ một chút thôi?”

“Giá mà thế thật. Như vậy mọi thứ sẽ cân bằng.”

Tôi vòng tay qua cổ cậu, ôm cậu thật chặt trong một lát, cảm giác được sự buồn bã và hoang mang, tất cả những cảm xúc ấy xáo trộn trong cậu.

“Cái chốn này khiến tất cả chúng ta phát rồ rồi.”

“Chị không giận tôi sao?”

“Không,” tôi nói. “Có lẽ chúng ta là bạn thì tốt hơn.”

“Chẳng phải đó là cách nói rất hay sao? Tôi biết tôi đã không nhầm về chị.” Cậu lùi ra, vuốt tóc khỏi mắt tôi. “Tôi hy vọng Hem biết cậu ta đang có những gì.”

“Tôi cũng thế,” tôi nói, rồi đi vào khách sạn. Bên trong, một señora đang trùm một tấm vải lên lồng con chim hót của bà ta.

“Nó không thích pháo thăng thiên,” bà ta vừa nói vừa cố định tấm chăn trùm sát hơn quanh những song lồng.

“Thấy pháo thăng thiên là nó tự giật lông mình ra. Cô đã xem chưa?”

“Rồi, Señora.” Tôi đi qua bà ta trên đường tới cầu thang. “Bà làm ơn mang rượu brandy lên cho tôi nhé!”

Bà ta nhìn ra sau tôi để xem có ai đi cùng không, nên tôi nói thêm, “Chỉ một chiếc ly thôi.”

“Señora vẫn khỏe chứ?”

“Không khỏe lắm,” tôi nói. “Nhưng brandy sẽ giúp.”