← Quay lại trang sách

BA MƯƠI CHÍN

Những ngày tiếp theo đó quan hệ của chúng tôi vẫn hết sức căng thẳng và toàn những trận cãi nhau, cả vào ban ngày, cả ở ngoài phố, đến độ Ernest gói ghém đồ đạc đi Madrid sớm. Anh đi rồi tôi thấy dễ thở hơn. Tôi không biết tương lai có những gì, nhưng tôi cần một chút nghỉ ngơi và thời gian để nghĩ.

Tôi thấy mình thật hèn nhát khi làm thế, nhưng tôi đã từ bỏ và hủy buổi diễn. Giờ đây tôi phải đối mặt với sự lúng túng khi xin lỗi mọi người. Cảm giác khi phải nói dối thật kinh khủng, tôi đổ tại tôi không đủ can đảm và thiếu sự chuẩn bị - nhưng tôi +nghĩ cũng không kinh khủng bằng việc đi tới cùng. Nhất là khi tin về vụ ngoại tình đã lan ra, đúng như tôi đã nghi ngờ.

Chính Kitty báo cho tôi hay. Cô đến chơi ngay sau khi Ernest đi Madrid và lắng nghe tất cả theo cái kiểu rất kiên quyết của mình, cô để tôi sụp đổ bên cạnh cô. Khi tôi đã kể xong và chỉ còn biết khóc, cô lặng lẽ nói, “Mình không hề ngạc nhiên, dù mình rất muốn nói thế. Mình đã thấy Pauline trên phố ngay trước khi cô ta đi Schruns. Cô ta vác ván trượt trên vai và lỉnh kỉnh túi xách, và mặc dù cô ta không tiết lộ gì, thật sự, nhưng trong cung cách cô ta nói về hai vợ chồng cậu có cái gì đó, như thể cả hai cậu đều thuộc về cô ta.”

“Cô ta táo gan đấy. Mình sẽ cho cô ta điều đó.”

“Zelda kể cô ấy và Scott đang ở quán Rotonde thì Pauline bước vào và bắt đầu khoe khoang về lá thư cô ta nhận được từ Hem, nào là thật kỳ cục làm sao mà cậu ta biết rất nhiều về nước hoa phụ nữ, nào là có ai khác thấy điều đó kỳ cục không? Cô ta rõ là đang thả câu. Nghi vấn quyến rũ.

“Hoặc cũng có thể là cô ta không kìm lòng được. Cô ta yêu anh ấy.”

“Cậu đang muốn nói cậu thông cảm cho cô ta đấy à?” Kitty hỏi một cách hoài nghi.

“Không hề. Nhưng tình yêu là thế. Nó khiến ta làm những việc ngu ngốc kinh khủng.”

“Mình vẫn rất yêu quý Pauline, có Chhúa cứu giúp, nhưng trong vụ này cô ta quá sai rồi. Tự do thì tự do thật, nhưng chồng của bạn là vùng cấm. Cấm tiệt.”

Thời tiết chuyển mình huy hoàng, đám hoa dẻ ngựa trắng ngà lấp đầy không gian ngào ngạt một mùi hương dịu ngọt – nhưng tôi không thể ra ngoài tận hưởng những điều ấy. Bumby đổ bệnh. Ban đầu thằng bé chỉ xổ mũi, nhưng rồi nhanh chóng chuyển thành sốt. Giờ thì nó nhợt nhạt, ủ ê, và phải chiến đấu với cơn ho dữ dội chỉ hoành hành vào ban đêm khiến cả hai mẹ con đều không ngủ được. Chúng tôi ở rịt trong nhà. Tôi đọc sách cho thằng bé, chế ra những

bài hát ngộ nghĩnh để làm nó sao lãng, nhưng thật khó, dù chỉ trong vài phút liên tiếp thôi, quên đi thực tế rằng đời tôi đang tan rã.

Cứ vài ngày lại có một bức điện từ Ernest. Anh đang rất thảm thương ở Madrid. Thành phố quá lạnh lẽo và bụi bặm, các trận đấu bò hay đều ở xa và rất hiếm. Lũ bò thì ốm yếu một cách bí ẩn; và anh thấy mình cũng chẳng khác nào một con bò ốm. Không có ai để uống cùng. Tất cả những người bạn thân của anh đều đang ở nơi khác, và anh rất cô đơn. Nhưng anh

vẫn đang viết.

Chỉ trong một chiều Chủ nhật, anh đã hoàn tất ba truyện ngắn mà trước đó chỉ mới viết nháp, và năng lượng tốt ấy có vẻ như không hề chậm lại. Anh sẽ tiếp tục viết ở đó và chơi cho đến cùng. Bumby và tôi có đến đó không? Nếu có thì hai mẹ con nên nhanh lên. Anh cần người bầu bạn để ngăn mình khỏi phát điên.

Tôi viết lại rằng Bumby không đủ khỏe để đi lại. Tôi cũng không trong trạng thái muốn đi. Tôi không biết quan hệ giữa Ernest và tôi đang đứng ở đâu, và không nghĩ rằng mình có thể chịu đựng việc chờ mọi thứ rõ ràng trong một phòng khách sạn Tây Ban Nha, nhất là nếu tôi lại phải chứng kiến điện thư từ Pauline đến mỗi ngày. Không, tốt hơn là nên giữ khoảng cách thế này, vả lại việc viết lách của anh vì thế mà cũng trôi chảy hơn bao giờ hết. Anh luôn làm việc

tốt trong những thời điểm khó khăn, như thể chính nỗi đau đã giúp anh chạm đến đáy của điều gì đó nơi bản ngã của anh và khiến bộ máy thực sự vận hành.

Tôi cũng chẳng ngạc nhiên trước việc anh cảm thấy thương hại chính mình. Có những người đàn ông thích ở một mình, nhưng Ernest không phải người như thế. Nỗi cô độc khiến anh uống quá nhiều, và uống nhiều khiến anh không ngủ được, và việc không ngủ được sẽ rước những giọng nói xấu xa, những suy nghĩ đen tối từ dưới mồ sâu sống dậy, và rồi anh lại uống nhiều hơn để cố làm chúng câm họng lại.

Tôi cũng chẳng ngạc nhiên trước việc anh cảm thấy thương hại chính mình. Có những người đàn ông thích ở một mình, nhưng Ernest không phải người như thế.

Nỗi cô độc khiến anh uống quá nhiều, và uống nhiều khiến anh không ngủ được, và việc không ngủ được sẽ rước những giọng nói xấu xa, những suy nghĩ đen tối từ dưới mồ sâu sống dậy, và rồi anh lại uống nhiều hơn để cố làm chúng câm họng lại. Và cho dù anh không công nhận với tôi, tôi biết anh đau khổ vì anh đã làm tôi tổn thương sâu sắc với vụ ngoại tình kia. Biết anh đau khổ khiến tôi cũng đau. Tình yêu ràng buộc chúng ta như thế đấy. Tôi không thể ngừng yêu anh, không thể vùi dập những cảm xúc mong muốn quan tâm đến anh – nhưng tôi cũng không nhất thiết phải vội vã trả lời thư anh làm gì. Tôi cũng đau đớn mà, nhưng làm gì có ai chạy đến với tôi đâu.

Gần cuối tháng Năm, những cơn ho của Bumby đã có phần thuyên giảm, thế là tôi thu xếp túi xách để hai mẹ con đi Cap d’Antibes, tới Villa America của Gerald và Sara Murphy, họ đã mời chúng tôi tới ở căn nhà nghỉ. Rất nhiều người trong đám bạn chúng tôi đã đến đó trước rồi. Scott và Zelda ở Villa Paquita gần đó, trong thị trấn Juan-les-Pins, còn Archie và Ada MacLeish thì trú ở một cái vịnh nhỏ phía trên bãi biển vài dặm. Sẽ tràn ngập ánh nắng, bơi lội và đồ ăn ngon, và mặc dù biết có thể tôi sẽ thấy ngượng nghịu vì lời đồn đã lan đi được một thời gian rồi, nhưng tôi cũng không đến nỗi quá quê mùa để mà nghĩ rằng chuyện của chúng tôi sẽ khiến cái nhóm này quan tâm được lâu. Xét cho cùng, Zelda có những anh chàng sẵn sàng chết vì cô và rất tự hào khoe khoang về điều đó. Nếu nghĩ theo lối ấy thì chuyện của chúng tôi chưa xứng được một chầu buôn chuyện. Vả lại tôi cần nghỉ ngơi, mặc kệ nguy cơ có thể là gì. Ernest sẽ đến nhập hội khi xong việc ở Madrid, và đến lúc đó, tôi hy vọng tôi đã trở về là chính mình để có thể đối mặt với anh.

Gerald đón chúng tôi ở ga và chở chúng tôi về Villa America trên một chiếc mui trần màu vàng chanh phóng nhanh đến sửng sốt. Tôi không khỏi bị ấn tượng trước tất cả. Vợ chồng Murphy đã chạm khắc và hoàn thiện tòa dinh thự mất hơn một năm trời, trong thời gian ấy họ ở tại một khách sạn của thị trấn. Trước khi họ đến Antibes, ở đây chẳng có cảnh sắc gì đáng kể. Thị trấn nhỏ xíu và buồn tẻ, mùa xuân thì ngắn ngủi. Mùa hè chẳng có ai đến vùng Riviera cả, nhưng vợ chồng Murphy yêu mùa hè và họ yêu Antibes; họ sẽ tìm ra cách biến nơi này trở thành phù hợp với họ. Họ trả tiền cho một chủ khách sạn trong thị trấn yêu cầu mở cửa quanh năm cho riêng mình họ, và chẳng bao lâu sau, các khách sạn khác cũng mở cửa và ngày càng nhiều nhà nghỉ mới được xây lên. Bãi biển từng bị chôn vùi trong rong tảo, nhưng

Gerald đã đích thân dọn, mỗi lần vài thước, và giờ nó sạch sẽ ban sơ. Trước khi nhà Murphy đến và khiến nó trở nên thời thượng, chưa ai từng nghĩ tới việc tắm nắng trên bãi biển. Họ sáng tạo ra việc tắm nắng, và chỉ cần ở quanh họ một lúc là ta sẽ nghĩ họ sáng tạo ra mọi thứ tốt đẹp, vui vẻ và văn minh.

Điền sản của họ nằm trên bảy mẫu đất vườn đắp cao, cây vòi voi mọc lan khắp nơi. Có các cây chanh, chà là, ô liu và hạt tiêu. Có những cây vả đen và trắng cùng một cây phong Ả Rập kỳ thú với lá màu trắng trong suốt. Ngoài căn nhà khách, còn có một nông trại cùng chuồng ngựa nhỏ, một nhà cho người làm vườn, một nhà cho tài xế riêng, một nhà chơi cho ba đứa con nhà Murphy, và một xưởng vẽ riêng cho +Gerald. Trước khi chúng tôi đi đến ngôi nhà chính, anh ta dẫn chúng tôi đến cuối một đường mòn gồ ghề đá dẫn ra bãi cát trắng phau phau của bãi biển riêng nhà họ. Scott và Zelda đang ở đó, ngả lưng trên hai tấm thảm mây rộng và uống rượu xêret từ những chiếc ly pha lê thanh nhã. Gần đó bé Scottie đang nghịch

sóng cùng lũ trẻ nhà Murphy, tất thảy đều tóc vàng hoe, da đen sì vì nắng.

“Lại đây uống chút gì đi Hadley,” Zelda gọi, rồi +ngồi dậy hôn lên cả hai má tôi. “Cô cần uống một ly sau khi ngồi sau tay lái của Gerald.”

“Đúng là tôi đã tê liệt cả người vì sợ khi đi trên con đường ven biển,” tôi nói.

“Cocktail của Scott cũng khiến ta tê liệt, nhưng đấy lại là điểm tốt,” cô nói, và tất cả mọi người cười lớn.

“Hem dạo này sao rồi?” Scott hỏi, lấy tay che mắt “Khá khỏe, tôi nghĩ vậy. Việc viết lách rất trôi chảy.”

“Quỷ tha ma bắt cậu ta,” Scott vui vẻ nói. “Việc đó bao giờ cũng trôi chảy đối với cậu ta, đúng không nhỉ?”

“Anh ấy nói thế à? Đừng tin.”

“Thấy chưa,” Zelda nói, như thể đã giải quyết xong tranh luận gì đó giữa họ.

“Rồi, em yêu. Anh nghe thấy cô ấy nói rồi.” Và cả hai đưa ly của mình cho Gerald để lấy thêm rượu.nheo nheo nhìn tôi.

Ngôi nhà chính có sàn lát đá hoa cương đen, bàn ghế bọc xatanh đen và những bức tường sơn trắng sáng. Sự phối màu giản dị ấy được đền bù, khắp nơi, bởi hoa hái từ vườn – hoa nhài, hoa dành dành, trúc đào, hồng và hoa trà mới hái. Toàn bộ hiệu ứng rất ấn tượng, và tôi thấy mình lạc điệu một cách lộ liễu ngay cả khi chỉ đứng ở lối vào trong chiếc áo khoác mùa hè sờn rách. Thực ra, không bộ quần áo nào của tôi hợp với nơi này.

“Sara đang nằm trên nhà vì hơi nhiễm cảm lạnh,” Gerald giải thích. “Tôi chắc chắn cô ấy sẽ đỡ hơn và sớm xuống đây thôi.”

Bumby và tôi thay đồ bơi rồi đi ra biển chờ Sara, nhưng cả ngày hôm ấy cô cũng không xuống. Tôi đang bắt đầu tự hỏi không biết mình có nên cảm thấy bị coi thường không thì tối hôm đó bác sĩ riêng của nhà Murphy đến để khám cho cô.

“Ông ấy cũng có thể khám cho Bumby nữa,” Gerald nói. “Từ tận trên gác mà Sara cũng nghe thấy tiếng thằng bé ho. Thật sự đáng lo ngại đấy.”

“Vâng, đúng thật. Tôi đang hy vọng khí hậu Địa Trung Hải sẽ khiến thằng bé khỏe lên.”

“Có thể lắm, nhưng sao không hỏi ý kiến bác sĩ? Chỉ để an tâm thôi.”

Tôi đồng ý, và sau một lúc thăm khám rất kỹ với Bumby ngoan như cừu chỉ mặc mỗi áo lót nằm trên chiếc giường trong nhà khách, vị bác sĩ chẩn đoán bệnh ho gà.

“Ho gà?” tôi nói với vẻ kinh hoảng cao độ. “Bệnh đó nặng lắm phải không?” Từ xuất hiện trong đầu tôi là “chết người”, nhưng tôi không thể chịu đựng nổi việc nói nó ra thành lời.

“Xin hãy bình tĩnh, thưa bà Hemingway,” vị bác sĩ nói. “Dựa trên các triệu chứng thì chắc cậu bé đã nhiễm bệnh này vài tháng. Giai đoạn tệ nhất đã qua rồi, nhưng cậu bé cần nghỉ ngơi rất nhiều để hồi phục hoàn toàn, và không được để cậu bé lại gần những đứa trẻ khác. Chúng ta sẽ phải cách ly cậu bé trong ít nhất hai tuần.”

Ông kê một đơn gồm thuốc ho đặc trị và một lọ dầu khuynh diệp để xoa ngực và lưng thằng bé, nhưng kể cả có thuốc thang và những lời đảm bảo trong tay, tôi vẫn hết sức lo cho Bumby. Tôi cũng cảm thấy hối hận khủng khiếp vì đã không biết phải cho thằng bé đi khám ở Paris.

Ngay khi chúng tôi biết kết quả chẩn đoán, Sara trở nên rất kích động và bắt đầu lên kế hoạch để chúng tôi chuyển đến một khách sạn trong thị trấn.

“Hai mẹ con vẫn là khách của chúng tôi,” cô khẳng định. “Chỉ là chúng tôi không thể để thằng bé ở đây. Chắc cô hiểu phải không?”

Tất nhiên tôi rất hiểu. Thực ra, tôi còn cảm thấy thật kinh khủng vì chúng tôi trở thành mối lo cho tất cả mọi người. Tôi cứ luôn miệng xin lỗi khi gói ghém đồ đạc.

Vợ chồng Murphy gọi tài xế riêng của họ đưa chúng tôi đến chỗ trọ mới, và sáng hôm sau lại cử anh ta quay trở lại với đồ tạp phẩm, trái cây tươi và rau hái từ vườn nhà. Họ rất hào phóng. Tôi không biết hai mẹ con sẽ làm gì nếu không có ai trông chừng cho bọn tôi ở đó. Nhưng họ không thể giúp gì trong việc chăm sóc hay việc cách ly, và tôi biết tôi không thể xoay xở một mình. Tôi gửi một bức điện cho Marie Cocotte ở Paris nhờ bà đến giúp chăm Bumby, một bức cho Ernest trình bày tình cảnh. Nhưng tôi không bảo anh đến; tôi muốn anh đến khi anh muốn, nếu không thì thôi.

Rất nhanh sau khi biết chuyện chúng tôi cần bị cách ly, Scott và Zelda bước vào và tình nguyện cho thuê lại căn biệt thự của họ ở Juan-les-Pins. Họ sẽ chuyển tới một biệt thự to hơn gần sòng bạc, có bãi tắm riêng. Thật đúng là cơ hội trời cho. Đó là một chốn rất dễ thương, với những ô gạch vẽ tay ở khắp nơi. Có một khu vườn nhỏ trồng hoa anh túc và cây cam, Bumby có thể chơi ở đó an toàn mà không làm những đứa trẻ khác nhiễm bệnh. Nhưng tôi thấy rất buồn chán, cô đơn, đồng thời lo lắng bệnh của Bumby sẽ tái phát.

Ban ngày tôi xoa dầu khuynh diệp lên ngực và lưng thằng bé, cố dụ nó uống thuốc đắng. Ban đêm cứ vài tiếng một lần tôi lại thức giấc để sờ trán xem nó có sốt lại không. Ngày nào bác sĩ cũng đến, cũng như những bức điện tín từ Paris và Madrid. Pauline viết thư nói cô ta rất thương tôi nhưng cũng thương cả Ernest, anh vẫn cô đơn ở Tây Ban Nha và cảm thấy rất tuyệt vọng. Tôi đọc thư mà giận điên người đến nỗi suýt nữa đã viết lại rằng cô cứ lấy luôn anh ta đi cũng được, nhưng cuối cùng tôi chỉ gấp bức điện làm ba rồi xé nó tan tành.

Một buổi tối tôi đang ngồi đọc sách trong khu vườn nhỏ thì nghe thấy tiếng còi xe, và kia, đang đi lên lối vào nhà, là vợ chồng Murphy, Fitzgerald và MacLeish, mỗi cặp đi một xe riêng. Họ dừng xe ngay trước sân hiên phía sau hàng rào sắt, và những người phụ nữ lướt ra khỏi xe trong bộ đầm dài tuyệt đẹp, trông chẳng khác nào những tác phẩm nghệ thuật. Những người đàn ông cũng tuyệt đẹp trong bộ vét, và tất cả đều rất phấn chấn. Gerald đang ôm một bình martini ướp lạnh, và khi tôi đến bên hàng rào, anh ta đưa tôi một chiếc ly.

“Quân tiếp viện tới đây,” anh ta nói, rõ ràng rất hài lòng vì ý tưởng của mình. Tất cả tụ tập xung quanh để nâng ly, trừ Scott.

“Tôi đang kiêng rượu và cố hết sức để cư xử tử tế,” anh nói.

Zelda cau mày. “Thật nhàm chán khi nghe anh nói thế, anh yêu.”

“Đúng vậy,” anh nói. “Nhưng cũng thế thôi, hôm nay anh sẽ là một cậu bé ngoan. Hãy cười vì tôi, được không Hadley?”

Tất cả chúng tôi đứng bên hàng rào tán gẫu vài phút, rồi bọn họ lại chui vào xe, theo sau là tiếng cười, và phóng thẳng tới sòng bạc thị trấn. Tôi nhìn theo, tự hỏi không biết có phải mình vừa mơ thấy họ không, và rồi vào trong đi ngủ sớm cùng một quyển sách.

Cuối cùng Ernest cũng từ Madrid đến, mười ngày sau khi lệnh cách ly áp đặt lên chúng tôi, vợ chồng Murphy tổ chức một bữa tiệc sâm banh và trứng cá muối ở sòng bạc để chào đón anh. Marie Cocotte cũng đã tới để chăm sóc Bumby và tôi thấy nhẹ nhõm ghê gớm, lần đầu tiên tôi được tự do rời khỏi căn biệt thự.

Trông Ernest nhợt nhạt và mệt mỏi khi đến nơi. Ở Madrid trời lạnh và phần lớn những ngày ở đó anh phải làm việc vất vả đến tận đêm khuya. Tôi vẫn kiệt sức vì lo lắng cho Bumby, và cũng chẳng biết cảm nhận của Ernest với tôi đang như thế nào, nhưng anh chào tôi bằng một nụ hôn dài ngọt ngào và nói rằng anh nhớ tôi. Tôi để mình được hôn, và không hỏi anh đã quyết định thế nào về Pauline. Tôi không cho rằng nhắc đến tên cô ta là an toàn, và vì tôi không hỏi, và cũng bởi đó là điểm chính yếu đang gặp nguy hiểm trong cuộc sống của chúng tôi, tôi lại cảm thấy mình hoàn toàn không có khả năng chống đỡ.

“Em cũng nhớ anh,” tôi nói, rồi đi thay váy cho bữa tiệc.

Gerald không tiếc tiền chi cho việc đón Ernest tới thị trấn, mà sao lại phải tiếc? Nhà Murphy được thừa kế tài sản và chưa một lần nào sống thiếu tiền. Có hoa trà thả trong bát thủy tinh, hàng ụ hàu, xúp ngô non điểm xuyết vài nhánh húng quế. Có cảm giác như gia đình Murphy đã đặt riêng bầu trời Địa Trung Hải tím sẫm cùng lũ chim sơn ca dày đặc trong giậu cây, líu lo véo vót một loạt những nốt cao dần. Chuyện này bắt đầu khiến tôi tức rồi đây. Mọi thứ có nhất thiết phải dàn dựng và văn minh quá mức thế này không? Ai mà tin nổi nữa chứ?

Khi chúng tôi chờ Scott và Zelda đến, Ernest bắt đầu kể cho cả bàn nghe về những thư từ trao đổi gần đây với Sherwood Anderson về cuốn Lũ xuân mới được xuất bản bên Mỹ.

“Tôi phải viết thư cho ông ấy,” anh nói. “Cuốn sách chuẩn bị ra mắt vào bất kỳ ngày nào và tôi thấy mình muốn kể cho ông ấy nghe cuốn sách ra đời thế nào, tại sao tôi lại trở thành thằng chó má như vậy sau khi ông ấy đã giúp tôi bao điều.”

“Thế là tốt đấy Hem,” Gerald nói.

“Phải. Anh cũng nghĩ vậy đúng không?”

“Thế ông ấy đón nhận nó có tốt không?” Sara hỏi.

“Ông ấy bảo đó là lá thư xúc phạm và trịch thượng nhất mà ông ấy từng nhận, và rằng bản thân cuốn sách thật mục rữa.”

“Ông ấy không thật sự có ý như vậy chứ,” tôi thốt lên.

“Không, ông ấy nói nó có thể đã hài hước nếu chỉ có mười hai trang thay vì một trăm.”

“Tôi nghĩ nó hài hước kinh khủng, Hem ạ,” Gerald nói.

“Anh đã đọc cuốn sách đâu, Gerald.”

“Ừ, nhưng mà từ những gì cậu nói thì rõ ràng là nó rất, rất hài hước.”

Ernest quay đi với vẻ chua chát và bắt đầu chúi vào ly whiskey của mình.

“Stein cũng nặng lời với tôi,” anh nói, ngẩng đầu lên khỏi cái ly để thở.

“Bà ấy bảo tôi là một thằng tồi, một Hemingstein thoái hóa, và rằng quỷ tha ma bắt tôi đi.”

“Ôi trời,” Sara thốt lên. “Tôi rất tiếc phải nghe chuyện này.”

“Quỷ tha ma bắt bà ta.”

“Thôi nào, Tatie,” tôi nói. “Anh không có ý như vậy đâu. Xét cho cùng bà ấy cũng là mẹ đỡ đầu của Bumby.”

“Thế thì quỷ bắt nó đi, được chưa?”

Tôi biết sự bạo miệng của Ernest gần như hoàn toàn do anh tự gồng lên, nhưng tôi ghét phải nghĩ đến tất cả những người bạn tốt chúng tôi đã đánh mất bởi lòng kiêu hãnh và tâm tính thất thường của anh, bắt đầu ở Chicago với Kenley. Lewis Galantière, người bạn =đầu tiên của chúng tôi ở Paris, đã không nói chuyện với Ernest nữa khi anh gọi hôn thê của Lewis là một con mụ đanh đá đáng khinh. Bob McAlmon rốt cuộc cũng xin đủ với thói huênh hoang cùng sự thô lỗ của Ernest và giờ thì đi qua đường để tránh đụng chúng tôi ở Paris. Harold từ sau Pamplona, và Sherwood cùng Gertrude, hai người ủng hộ lớn nhất của Ernest, giờ cũng đứng đầu danh sách đau thương dài dằng dặc ấy. Còn bao nhiêu người khác nữa sẽ ngã xuống, tôi tự hỏi điều ấy khi nhìn quanh chiếc bàn sáng trong ánh nến.

“Hemmy, chàng trai của tôi!” Scott hét lên khi +anh cùng Zelda từ bãi biển bước nhấp nhô trên bậc cấp. Scott đã cởi giày tất và xắn quần. Cà vạt của anh được nới lỏng và áo vét thì nhàu nhĩ. Trông anh có vẻ ngà ngà say.

“Anh vừa đi bơi đấy hả, Scott?” Ernest nói.

“Không, không. Tôi đang khô như rang.”

Zelda cười câu nói ấy rồi khẽ khịt một tiếng. “Vâng, vâng, Scott. Anh rất khô khan, vì thế anh mới vừa trích dẫn toàn thơ Longfellow cho cái ông tội nghiệp trên bến cảng ấy.” Cô đã chải hết tóc ra đằng sau mặt và cài một bông mẫu đơn trắng to đùng sau tai. Cô trang điểm không chê vào đâu được, nhưng mắt cô trông căng thẳng và mệt mỏi.

“Ai mà không thích Longfellow chứ?” Scott hỏi khi tự tin ngồi phịch xuống ghế của mình, và tất cả chúng tôi đều cười yếu ớt. “Lại đây nào, cưng,” anh nói với Zelda, cô vẫn đang đứng. “Hãy cùng uống với tất cả những con người bộ tịch tuyệt vời này. Có trứng cá muối kìa. Chúng ta biết làm gì đây nếu không có trứng cá muối?”

“Làm ơn im đi, anh yêu,” cô nói rồi ngồi xuống. Cô cười thật tươi và giả tạo với tất cả chúng tôi. “Anh ấy sẽ ngoan bây giờ đây, tôi hứa đấy.”

Người bồi bàn đến mang thêm đồ uống, rồi quay trở lại lần nữa để phục vụ bàn bên cạnh chúng tôi, nơi một cô gái trẻ tuyệt đẹp đang ngồi ăn tối với người trông có vẻ là cha cô.

“Chà, thật là một sự sắp đặt hoàn mỹ,” Scott vừa nói vừa hau háu nhìn cô gái. Ernest lấy khuỷu tay huých để anh thôi đi, nhưng anh không thôi.

“Cậu không phải là quý ông,” cuối cùng người cha nói với Scott bằng tiếng Pháp, rồi hộ tống cô con gái vào trong, cách xa chúng tôi.

“Quý ông chỉ là một trong những thứ không phải là tôi,” Scott nói khi quay mặt trở lại bàn. “Tôi còn không khỏe, không thông minh và không gần đủ say để dành thời gian với lũ các người.”

Gerald tái mặt và quay sang thì thầm gì đó với Sara.

“Tôi bảo này, Gerald, bạn già. Anh quăng một con hàu cho tôi được không? Tôi đang chết đói rồi đây.”

Gerald lạnh lùng nhìn anh rồi quay sang nói tiếp với Sara.

“Sara,” Scott gọi, cố lôi kéo sự chú ý của cô khỏi người chồng. “Sara, xin hãy nhìn tôi đi. Xin đấy.”

Nhưng cô không nhìn, và chính lúc ấy Scott cầm một cái gạt tàn thủy tinh chạm trổ trên bàn phi nó thẳng qua vai Gerald tới một cái bàn trống phía sau. Sara giật nảy mình lùi lại. Gerald vừa chúi người xuống vừa quát Scott thôi đi. Scott vớ lấy cái gạt tàn khác, lần này đập trúng cái bàn ở chính giữa rồi văng ra với một tiếng choang vang dội.

Zelda cơ hồ quyết tâm phớt lờ anh hoàn toàn, nhưng những người còn lại đều thấy sốc và xấu hổ.

“Thôi nào, Bạch mã Hoàng tử,” cuối cùng Ernest nói giọng dứt khoát. Anh bước tới bên Scott và nắm lấy khuỷu tay anh ta, giúp anh ta đứng dậy. “Chúng mình cùng nhảy nhé,” anh nói, rồi dẫn Scott ra khỏi sân hiên, xuống những bậc cấp dẫn ra bãi biển. Tất cả chằm chằm dõi theo họ trừ Zelda, cô đang đắm đuối nhìn giậu cây.

“Sơn ca,” cô nói. “Ảo ảnh ư, hay một giấc mơ khi đang thức?”

Archie MacLeish ho hắng rồi nói, “Vâng. Chà.” Ada chạm lên mái tóc uốn bồng bềnh của mình rất khẽ khàng, như thể nó làm bằng thủy tinh, còn tôi nhìn ra phía biển, đen kịt như bầu trời và vô hình. Và như thể bao nhiêu năm trời đã trôi qua, cuối cùng người bồi bàn cũng mang hóa đơn tới.

Sáng hôm sau tôi dậy muộn, vì biết Bumby đang nằm trong vòng tay chăm sóc giỏi giang của Marie Cocotte. Khi tôi xuống dưới nhà, Scott và Ernest đang ngồi bên chiếc bàn dài trong phòng ăn với một thếp giấy than trải ra trước mặt.

“Scott vừa có một ý kiến quan trọng,” Ernest nói.

“Chào buổi sáng, Hadley,” Scott nói. “Rất xin lỗi vì những chuyện tối qua. Tôi đúng là thằng khốn, nhỉ?”

“Đúng vậy,” tôi nói, rồi cười khe khẽ, với cảm giác yêu mến mà tôi đang thực sự cảm thấy trong lòng.

Khi anh không say, như bây giờ, anh rất ôn hòa và lành mạnh – lịch sự như bất cứ ai ta từng muốn gặp. Tôi đi pha ít cà phê rồi quay lại bàn để nghe kế hoạch của họ Ernest nói,

“Trong mười lăm trang đầu tiên của Mặt trời, chúng ta đọc tự truyện của Jake, chúng ta đọc câu chuyện đằng sau Brett và Mike, nhưng tất cả những điều ấy chúng ta đều được biết ở đoạn sau, hoặc là đã được trình bày kha khá rồi. Scott bảo chúng ta nên cắt hết mấy đoạn ấy đi, ngay từ đầu.”

“Tôi nghĩ làm thế sẽ có tác dụng,” Scott nói vẻ rất nghiêm túc, gật đầu phía trên tách cà phê kem của anh.

“Đó chính là điều mà tôi luôn nói về việc sáng tác truyện ngắn, ta kể chuyện với càng ít diễn giải càng tốt. Tất cả hoặc là đã ở đó, hoặc là không. Giải thích dài dòng chỉ làm chậm lại và phá hỏng mạch truyện. Giờ là cơ hội để tôi thấy liệu điều đó có đúng với một thứ dài hơn như tiểu thuyết không. Em nghĩ sao hả Tatie?” Mắt anh sáng rực, và trông anh trẻ ra, giống hệt chàng trai tôi đã gặp ở Chicago, chàng trai luôn khiến tôi phải mỉm cười dù trong lòng đang cảm thấy ra sao.

“Em nghĩ ý kiến đó có vẻ rất tuyệt. Anh sẽ khiến nó phát huy tác dụng hiệu quả. Hãy cắt đi.”

“Thế mới là cô gái của anh chứ.”

Đừng quên điều đó, tôi muốn nói với anh như vậy. Em vẫn là cô gái tuyệt nhất của anh.

Tôi đem cà phê ra sân hiên và đưa mắt qua những mái nhà của thị trấn nhỏ tới biển, xanh sáng và không ràng buộc điều gì. Không một con mòng biển, không một gợn mây. Đằng sau tôi, hai người đàn ông lại chụm đầu quay lại với công việc, bàn bạc thật tỉ mỉ vì nó chẳng khác gì một ca mổ tim còn họ là bác sĩ phẫu thuật, và nó cũng quan trọng như bất cứ điều gì họ từng làm. Scott có thể là một gã say gớm ghiếc, khó chịu. Ernest có thể độc địa xô đẩy tất cả những ai từng giúp anh đi lên hoặc yêu anh rất mực – nhưng không điều nào trong số ấy còn quan trọng nữa khi bệnh nhân đang nằm trước mặt. Rốt cuộc, đối với cả hai người bọn họ, thật sự chỉ có cái cơ thể đang ở trên bàn kia và tác phẩm, tác phẩm, tác phẩm.

Tròn một tuần sau khi Ernest từ Madrid đến, chúng tôi sinh hoạt theo một lề thói dường như rất có khả năng sẽ được duy trì lâu dài. Mỗi sáng, chúng tôi ăn bánh quy và uống rượu xêret trên sân hiên biệt thự Juan-les-Pins, giống hệt những người ở Villa America.

Lúc hai giờ, chúng tôi qua ăn trưa với nhà Murphy hoặc nhà MacLeish, trong lúc Bumby ngủ hoặc chơi với Marie Cocotte. Đến giờ uống coctail, lối vào nhà chúng tôi xếp kín ba chiếc xe và những tiếng cười khi chúng tôi quay lại khu vực cách ly, cố gắng khắc phục bằng cách truyền rượu và đồ ăn ngon qua hàng rào lướt sắt.

Mấy ngày đầu Ernest viết rất hăng, nhưng rồi anh nhận ra rằng việc thật sự ở một mình là điều bất khả - hoặc rằng có lẽ anh không thích ở một mình. Scott +cố quay lại cai rượu nhưng thất bại thê thảm. Anh cùng Ernest dành nhiều thời gian nói chuyện công việc, nhưng họ chẳng làm chút nào. Họ phơi nắng trên bãi biển và tắm trong sự tán tụng của vợ chồng

Murphy như thể không bao giờ biết chán.

Sara là một người đẹp tự nhiên, với mái tóc hung hung dày để ngắn và đôi mắt vừa trong vừa sắc. Cả Scott lẫn Ernest đều tha thiết mong được cô để ý, và Zelda không chịu nổi cuộc ganh đua ấy. Ban ngày cô trở nên cáu kỉnh và khiếm nhã hơn, nhưng cô không hướng cơn giận của mình tới Sara. Họ là bạn bè và liên minh, xét cho cùng – thế nên cô dành những lời

châm chọc chua cay nhất của mình cho Ernest.

Zelda và Ernest chưa bao giờ thích nhau. Anh cho rằng cô có quá nhiều quyền lực đối với Scott, rằng cô là phường phá hoại và có lẽ là còn hơi hâm dở nữa. Cô cho rằng anh giả tạo, ra vẻ trượng phu để giấu đi cái cốt lõi nhu nhược.

“Tôi nghĩ cậu đang yêu chồng tôi,” một tối nọ cô nói với Ernest khi chúng tôi đang ở trên bãi biển và ai nấy đều đã uống quá nhiều.

“Scott và tôi đồng tính à? Nghe hay đấy,” anh nói;

Ánh mắt Zelda gay gắt và u tối. “Không,” cô nói. “Chỉ cậu thôi.”

Tôi cứ tưởng Ernest sẽ đánh cô, nhưng cô cười ré lên rồi quay đi, bắt đầu cởi bỏ quần áo. Scott nãy giờ đang trò chuyện chăm chú với Sara, nhưng lúc này anh bắt đầu chú ý.

“Em đang làm cái quái gì thế, em yêu?”

“Thử gan anh,” cô nói.

Bên phải bãi tắm nhỏ là một cụm đá cao vút. Điểm cao nhất nằm cách mặt sóng tầm chín mét hoặc hơn, và dòng chảy bên dưới luôn luôn biến động, xoáy cuộn phía trên những mỏm đá ngầm lởm chởm. Đó chính là nơi Zelda bình tĩnh bơi tới trong lúc tất cả chúng tôi dõi theo với vẻ tò mò pha lẫn kinh hoàng. Cô ấy sẽ làm gì? Cô ấy sẽ không làm gì?

Khi tới chân cụm đá, cô trèo lên dễ dàng. Scott cởi đồ ra bơi theo cô, nhưng anh còn chưa tới được phần trồi lên thì cô đã phát ra một tiếng hú kiểu thổ dân da đỏ rồi quăng mình xuống. Đó là một khoảnh khắc kinh hoàng, chúng tôi tự hỏi có phải cô vừa tự tử không, nhưng cô đã bập bềnh nhô lên mặt nước và cất tiếng cười vui vẻ. Trăng đêm đó rất sáng và chúng tôi có thể dễ dàng nhìn thấy những hình thù mà cơ thể họ tạo ra. Chúng tôi còn nghe được nhiều tiếng cười hoang dại hơn nữa khi Zelda trèo lên diễn lại trò đó. Scott cũng thử một lần, cả hai đều đủ say để có thể bị chết đuối.

“Tôi xem đủ rồi,” Ernest nói, và chúng tôi về nhà.

Chiều hôm sau, bữa trưa trên sân hiên im lặng đến căng thẳng cho đến khi Sara cuối cùng cũng cất lời,

“Xin đừng làm chúng tôi sợ thêm lần nữa, Zelda. Trò đó quá nguy hiểm.”

“Nhưng Sara à,” Zelda nói, mắt cô chớp chớp ngây thơ như nữ sinh, “chị không biết sao, chúng tôi không tin vào sự tồn giữ.”

Chuỗi ngày tiếp theo đó, khi Pauline ném những lá thư của cô ta vào chúng tôi, đầu tiên là từ Bologna và sau đó từ Paris, tôi bắt đầu tự hỏi liệu Ernest và tôi có tin vào sự tồn giữ không – liệu chúng tôi có cái phẩm chất chiến đấu vì những gì mình có. Có lẽ Pauline can đảm hơn chúng tôi. Cô ta tán ngon tán ngọt để được đến, than vãn rằng cô ta thấy xa cách quá đỗi mọi hoạt động hay ho, và liệu có thể làm gì để giải quyết vấn đề đó không? Cô ta viết rằng cô ta

không sợ bệnh ho gà vì hồi nhỏ cô ta đã bị rồi, và liệu cô ta có thể đến chia sẻ sự cách ly với chúng tôi không? Cô ta viết những điều này trong lá thư gửi tôi chứ không gửi Ernest, và tôi hết sức kinh ngạc, Pauline luôn làm tôi kinh ngạc, trước tính cách dữ dội và cách suy nghĩ đơn giản của cô ta. Cô ta không chịu thôi giả vờ rằng cô ta và tôi vẫn là bạn. Cô ta không chịu rời bỏ vị trí của mình dù chỉ một phân.

Pauline đến Antibes vào một buổi chiều trời trong đến chói mắt. Cô ta diện một bộ đầm trắng, đội mũ rơm trắng, có cái vẻ tươi tắn sạch tinh một cách không tưởng, như một đĩa kem. Một vết đen mặt trời đang nở rộng. Một phụ nữ nào khác hẳn phải cảm thấy ngượng ngùng khi đến đây theo cách này, khi ai cũng biết hoặc ít nhất nghi ngờ vị thế tình nhân của cô ta – nhưng Pauline chẳng có lấy một gam ngượng ngùng nào trong người. Cô ta giống Zelda ở điểm ấy. Cả hai đều biết điều mình muốn và tìm bằng được cách để đạt được hoặc lấy được. Họ khôn ngoan và hiện đại đến mức đáng sợ, còn tôi thì không có lấy một chút gì như thế.

“Thật tốt cho Hem quá phải không,” một tối nọ Zelda nói, “khi mà cô lúc nào cũng dễ chịu như thế? Ý tôi là, Hem thật sự điều khiển buổi diễn, nhỉ?”

Tôi giật mình và không nói gì, coi như cô nói thế vì ghen tị với sự gần gũi của hai anh đàn ông, nhưng cô nói đúng. Ernest quả thật điều khiển buổi diễn và, chà đạp lên tôi nhiều hơn cả mức thường xuyên, và không phải là tình cờ. Anh và tôi cùng lớn lên trong những gia đình nữ trị bằng quả đấm sắt, biến chồng con họ thành những kẻ run rẩy. Tôi biết mình sẽ không bao giờ như thế, bằng bất cứ giá nào. Tôi lựa chọn vai trò là người ủng hộ Ernest, nhưng gần đây

thế giới đã nghiêng, và lựa chọn của tôi biến mất. Khi Ernest nhìn quanh, anh thấy một kiểu sống khác và thích những gì mình thấy. Người giàu có những ngày vui hơn và những đêm rảnh rỗi hơn. Họ mang theo ánh nắng và điều khiển cả thủy triều. Pauline là một hình mẫu phụ nữ mới và sao anh lại không thể có cô ta? Sao anh không thể với tay ra tuyên bố quyền

sở hữu với những thứ anh muốn? Chẳng phải đó là cách mọi thứ vận hành sao?

Về phần mình, tôi thấy hoàn toàn bế tắc, thấy mình như thể bị âm mưu chống lại. Đây không phải thế giới của tôi. Những con người này không phải kiểu người giống tôi, và mỗi ngày trôi qua họ lại kéo Ernest lại gần hơn. Tôi biết làm gì hay nói gì đây? Có thể sau rốt anh sẽ hết yêu Pauline mà quay lại với tôi – điều ấy vẫn còn khả năng xảy ra – nhưng không có gì nằm

trong tầm kiểm soát của tôi. Nếu tôi ra tối hậu thư với anh, rằng cô ta không thể ở lại, tôi sẽ mất anh. Nếu tôi điên lên và làm lớn chuyện cho mọi người biết, sẽ chỉ càng cho anh cái cớ để rời bỏ tôi. Tất cả những gì còn lại cho tôi chẳng khác gì một chứng tê liệt đáng sợ, cái trò chơi chờ đợi này, cái trò chơi đau lòng này