Chương VI
Cả Liên cởi áo dạ mặc ngoài, vứt mạnh xuống giường, giục vợ:
- Kìa mình! Đem thuốc lên cho chú Trung uống chứ!
Và thấy Trung ngồi dựa lưng vào tường, mặt thẫn thờ.
Cả Liên chau mày:
- Chú đã đỡ chưa? Uống thuốc này thế nào?
Trung mệt mỏi đến thấy giả lời cũng là một việc khó nhọc, anh chỉ gật đầu và cười nhẹ. Vợ Cả Liên lấy miếng giẻ lót tay, bắc siêu thuốc ra đương phả hơi trắng xóa trên lũ than tàu hồng rực làm má chị ửng lên như gấc chín. Trung không dám nhìn lâu cái siêu thuốc đã bảy hôm ròng liên miên đun gần giường anh, cái quái vật lần này là thứ chất rền rĩ với những tiếng sôi sùng sục trước cặp mắt ngạc nhiên và đau xót của Trung.
Trung cảm và sốt từ cuối tháng Giêng. Cả Liên hay tin liền bắt Kép dẫn vợ đến tận chỗ Trung trọ, đón Trung về ở nhà mình chạy chữa... Vợ Cả Liên đã lom khom đi rón từng bước, bưng bát thuốc lại, giọng dịu dàng:
- Chú! Chú uống ngay đi rồi nằm xuống, đắp kín chăn cho ra mồ hôi. Trông sắc mặt chú từ sáng nay đến giờ tôi thấy tươi lắm.
Trung nhoài ra, đỡ bát thuốc nóng cháy cả tay:
- Chị đưa em.
Rồi Trung đặt nhẹ bát lên mặt bàn cạnh giường. Anh không dám để sũng sánh ra ngoài dù một giọt thuốc. Chén thuốc, chính vợ Cả Liên đi lấy rồi về cặm cụi sắc đi canh lại đến nước thứ ba mới thôi. Không phải chỉ hôm thứ nhất cảm động thấm thía vì sự săn sóc ân cần như là ruột thịt máu mủ này, Trung mới có sự thận trọng ấy. Càng về sau, càng nghĩ sâu xa, lòng càng bùi ngùi, Trung còn phải băn khoăn, tự hỏi: "Sao ta lại còn gặp vợ chồng Cả Liên trong những bước này?".
Trung chờ ít phút đoạn dùng ngón tay út vào nước thuốc để xem. Cả Liên liền rút chén nước:
- Chú uống thuốc đi rồi súc miệng.
Uống xong, Trung nằm đắp chăn được một lúc, thấy Trung trở mình, Cả Liên hỏi:
- Có ra thêm được nhiều mồ hôi không?
- Có. Và em thấy trong người nhẹ đi nhiều. Mai, thôi anh ạ. Em đã sợ thuốc lắm!
Nói như thế vì Trung không đành tâm nhìn cái cảnh mấy hôm nay vợ chồng Cả Liên phải chạy ngược, chạy xuôi. Trung tính mỗi ngày vào mình Trung ít nhất đồng rưỡi bạc. Ấy là không kể sự chi tiêu trong nhà mà chỉ người vợ nọ phải lo toan. Không như tháng trước, dạo này Cả Liên "đột" quá! Nghĩa là bạc thì thua và khách sông tự nhiên sụt hẳn đi. Mọi sự thu xếp trong nhà Cả Liên đều bỏ cả cho vợ. Trung rất đỗi ngạc nhiên trước sự chịu khó và hiền từ của người đàn bà ấy... Cứ ở đôi mắt sáng và sắc như dao cạo, và cái cách ăn nói, ứng biến và rào đón đầy lẳng lơ, chua cay, đầy mánh lới điêu luyện kia, Trung không thể nào tin được có những đức tính ấy.
Có chăng là sự bừa bãi, sự lười biếng, sự phá hoại!
"- Thôi vào quách nhà thương mà nằm!"
Luôn luôn Trung thì thầm trong tâm trí câu nói ấy.
Đã một lần, Trung đương chập chờn ngủ bỗng choàng mắt. Có tiếng nắp hòm rơi đánh sầm và tiếng kêu rít "Ái dà đau!...". Vợ Cả Liên bóp tay giây phút rồi nâng nắp hòm lên, nhấc từng vật trong đó ra. Đó là một chiếc áo sa tanh đen, một quần lĩnh và hai áo cánh lụa. Chị để những thứ ấy vào một thùng con, ngần ngại một lúc rồi đậy vỉ buồm lên. Nhưng chưa đứng thẳng lên chị đã cúi xuống, lấy ra một cặp áo. Chị giũ áo và đưa ướm vào mình. Làn lụa mỡ gà phủ dưới the thâm nhấp nháy. Mắt chị chơm chớp rồi mặt thẫn ra. Chị từ từ gấp áo lại và đặt trả chỗ cũ. Rồi vút cái, chị cầm lên, và, như người giận dữ, chị lật phắt vỉ buồm, bỏ cặp áo vào. Nắp hòm buông phịch. Chị mặc vội chiếc áo nhiễu tây màu hạt dẻ đã rạn vai và hơi bạc, ra đường với chiếc nón chúp và cái thùng kia.
Bữa cơm hôm đó lại có canh thịt, lạp xưởng và trứng hấp. Và Trung xế chiều, lại một mình ăn những bánh trái thường lệ, không phải để vợ Cả Liên nói, Trung cũng biết rõ ràng, hơn nữa, biết thấm thía, những quần áo không hay mặc và cất trong cái hòm da đen ở đầu giường ngủ của vợ chồng kia, là thế nào của một người đàn bà? Dù là một người lấy chồng không cưới cheo, không bàn thờ khói hương nghi ngút, mâm cao, cỗ đầy, và những quần áo không phải là vành cánh sắm bởi mẹ cha thích hay đã bâng khuâng soạn sửa những đêm gần tân hôn. Mà chỉ là những đồ dùng may mặc để tăng thêm vẻ đẹp của sự đứng đắn, làm ăn.
Áo sa tanh đen, quần lĩnh và áo cánh lụa! Và cặp áo the! Và sự rắp định: làm vợ, làm mẹ, một cuộc đời lương thiện!
Trung chợt quay lại:
- Anh Cả ạ! Em đã thấy dễ chịu và thấy sợ thuốc lắm rồi!
Vợ Cả Liên ngồi ngay cạnh bàn đèn chồng, nghe thấy nhưng cũng hỏi chồng:
- Chú ấy nói gì thế, mình?
- Chú ấy bảo chú không uống thuốc nữa.
Nói đoạn, Cả Liên im bặt để nghe vợ thì thầm bên tai. Anh cắn môi, gật gật đầu: "Ừ... ừ...". Rồi kéo xong điếu thuốc, Cả Liên cười:
- Mặc chú ấy! Cứ để chú ấy khỏe hẳn rồi muốn đi đâu và làm gì thì làm.
Một luồng gió lồng vào nhà. Cái rét dội đằm vào mặt Trung. Trung rùng mình, nằm xuống giường và kéo chăn đắp. Nhưng Trung không trùm kín và cũng xây mặt vào phía trong. Khung cửa xế trên đầu Trung đương mở ra và rộng một cảnh vật êm dịu trong thứ ánh sáng bạc cũ, lạnh đìu hiu của chiều xuân.
Mấy thửa ruộng còn sót lại đằng sau nhà, đương mơn mởn lúa. Từng lớp sóng xanh nổi lên cuồn cuộn, rào rào. Sau đó là những dãy nhà hai tầng vắng vẻ vì hầu hết không người thuê bởi vừa xa trung tâm thành phố, vừa không tiện cho những gia đình chỉ có thể sống rúi rúi với đồng tiền eo hẹp của mình. Những năm xưa, đây phải tranh nhau mới thuê được. Nhất là một mặt hàng để bán những ăn uống, những vật dùng lặt vặt cho những lao động tấp nập ở đấy.
Có tiếng trẻ khóc oe oe vang lên trong tâm trí Trung. Trung sực nhớ đến cái gian hàng hiện giờ vẫn còn trước kia là của một cặp vợ chồng Trung Hoa. Họ làm bánh rán, bánh tôm, phở và bán cả hương, nến, xì dầu, cá mặn và lạp xưởng. Cả Hải Phòng đều biết tiếng thứ nước dùng vàng trong và ngọt, ăn tỉnh cả người và thứ bánh rán phồng, nhân đậu xanh bùi ngậy của hàng này. Dù đông khách, vợ chồng nhà nọ cũng không chịu mở mang. Chỉ ba cái bàn tròn và hơn chục cái ghế đẩu đen bóng và nhờn, và cái bếp lò bằng vỏ chiếc thùng đã thắp đèn, vừa đủ đun nồi nước dùng và ấm nước uống.
Người chồng gầy và cao. Người vợ tầm thước và béo trắng. Chắc họ muộn màng nên người chồng tóc đã lốm đốm mới có một đứa con trai mà họ đeo vàng bạc cả ở chân và tay nó. Thằng bé này bụ bẫm, trắng hồng như hòn bột. Nó không quấy khóc, lúc nào cũng như thiu thiu ngủ trên lưng người mẹ luôn tay làm phở.
Chợt một hôm Trung nhận ra thằng bé tóp hẳn đi, đồng thời, những tiếng khóc sa sả. Sau đó mấy hôm, không thấy người mẹ bán hàng và màn cửa buồng buông kín. Và, một tháng sau, cửa hàng trông nom bởi người khác. Đứa con chết! Hai vợ chồng không biết dắt nhau đi đâu. Thứ nước dùng và bánh rán ngon quên chết kia thế là hết! Rồi Trung cũng không làm ở đây mà sang phố.
Trung càng đắm mắt nhìn trong khi tâm trí xúc động. Những ống khói, những tầng lò, những nóc xưởng máy cao vút vợi và hùng vĩ hơn dưới vòm trời xám nhạt và một không trung đồng màu. Nhiều khung cửa sáng trưng rõ cả người đi lại trông coi trong bộ quần áo vải thô xanh. Tiếng ầm ầm tỏa vang trong gió, và gió thổi rộng mỏng những làn khói khăng khịt xuống những nóc nhà lá san sát từng xóm tụ họp chung quanh.
Trung chợt lại thấy mình đương đi trong một dòng người dồn dập, huyên náo. Đó là lúc còi tầm thứ nhất đã thúc giục người ta đương ngủ thiếp bỗng choàng dậy, tưởng còn là mệt mỏi và ngao ngán thế mà sau khi rửa qua mặt, xỏ guốc ra đi, nhập mấy bước vào những đám đông mải miết hăm hở kia liền thấy tỉnh táo ngay và có thể quên cả mọi sự một khi lại cảm xúc với cái không khí mùi dầu than, điện và máy không phút nào ngừng.
Đã có những buổi, tiện xong những miếng thép, Trung chỉ còn việc giũa là thành khí. Trong cái phút cố gắng và ham thích nồng nàn ấy, Trung chợt giật mình vì cái vỗ vai rát cả thịt. Người bạn cùng trạc với anh cười:
- Kìa! Sắp tầm về rồi, thu xếp đồ đạc đi chứ!
Trung ngẩn mặt ra. Người bạn lại cười giòn tiếng:
- Sáng nay kêu nhức đầu, khó chịu mà suốt từ chín giờ đến giờ, chỉ thấy hùng hục làm?!
Trung như tỉnh giấc, cười theo rồi giở cho bạn xem cái vật đã tiện và giũa hoàn toàn, sáng ánh và sờ tuy gợn nhưng vẫn êm tay. Để bạn lật đi lật lại ngắm nghía và mơn trớn cái công trình của mình giây phút, Trung mới lên tiếng:
- Ấy! Vào làm được một lúc rồi mình chẳng thấy gì mới lạ! Tôi nghiệm rằng thuốc uống khi khó chịu của tôi mình là cứ làm việc bừa đi. Nhưng... không biết lúc ốm nặng thì thế nào?
Sự hăm hở và hứng thú vì hoạt động còn đem đến cho Trung nhiều khoái lạc khác! Trung còn nhớ như in trong cảm giác những bát phở nóng sốt ăn như không thấy chán ở hàng vợ chồng người Trung Hoa kia. Nhất là, về mùa rét. Cả người Trung cồn cào lên vì thèm thuồng rồi mới được ăn sau khi cái đói làm Trung bước như chạy trong gió lạnh. Cao lương mỹ vị Trung chưa từng được dùng đũa nhưng Trung không thấy khao khát lắm, vì Trung chỉ cần được ăn khi đói, và khi đói với cái dạ dày khỏe mạnh mà ăn thì còn thứ rượu khai vị và thức ăn cầu kỳ nào làm người ta ăn ngon miệng bằng!
Và những giấc ngủ! Phải! Những giấc ngủ thẳng một mạch, khi tỉnh dậy, đầu óc nhẹ lâng, mình mẩy như lúc bước tắm xong và miệng lưỡi không chút khô đắng như tráng bằng miếng cam ngọt. Ánh sáng ban mai nghe rõ ràng ùa vào tâm hồn, ngực như nở rộng hơn. Cái khăn mặt xấp nước lã vừa vuốt lên mặt, da thịt liền rùng ngay lên vì mát rượi.
Trung bỗng nhíu mày lại. Trung ghê rợn tưởng đến sự ăn uống trong ít lâu nay phải cố gắng như phải nhai trấu và cá thịt ôi, và những giấc ngủ lầy nhầy sau đó Trung mệt mỏi và chán nản đến có thể chết cũng không oán hận. Những tiếng chân người dồn dập hăm hở lại sầm sập trong trí tưởng Trung. Không những Trung đương đi cùng với những lớp người quen thuộc ấy mà còn thấy mình đương vây bọc bởi bao nhiêu vật gần gũi và chan chứa cảm tình khác mà đến giờ Trung mới thấm thía nhận ra. Những bánh xe, những dây da, những đĩa ốc và những trục chuyển vù vù với những tiếng ầm ầm đã quen tai Trung đến mức chỉ còn là một làn thanh âm đều đều và êm như ru. Bao thứ ánh sáng tỏa ra làm rực rỡ thêm không khí. Ánh điện chói lòa, ánh kền bóng soi gương được, ánh thép đã gọt giũa sắc lạnh đi và ánh đồng lồng lộng. Thêm vào những ánh long lanh của mắt nhìn phản chiếu những ánh ngời mãnh liệt của những tinh thần ham hiểu biết và sáng tạo.
Trung đã thở mạnh và không đều. Trung không thể cảm xúc rõ rệt và nói ra được, nhưng Trung thấy mình rạo rực lắm, rạo rực đến tê tái. Sự làm việc có lẽ giờ mới dồi dào và mãnh liệt đánh thức dậy hầu hết trong trí óc và tâm hồn Trung những cái gì của sự tha thiết, sự sung sướng và cả đau xót nữa. Cả người Trung đều cồn cào, - con người sinh trưởng giữa những không khí nếu không đượm mùi của ruộng đất cày bừa, thúc đỗ gặt hái thì lại nồng nàn mùi dầu mỡ, than đá và hơi nước nó kích thích sự hô hấp và tuần hoàn dù lười biếng chừng nào nữa.
Mắt Trung xanh lại. Một hình ảnh hiện lên nét rắn và ngời. Một thân thể lanh lẹn mặc quần áo vải thô xanh ngồi ăn uống giữa một hàng cơm ồn ào và nồng mùi mồ hôi và thức ăn mặn. Trung cách đây ba tháng! Trung mặc đồng tiền của mình, ăn bằng đồng tiền của mình, đồng tiền mà Trung cũng như những người bên cạnh Trung kia, kiếm bằng mồ hôi của sự chịu khó.
Trung lắc đầu rồi nhắm nghiền mắt lại. Một sự đau đớn sắc như dao cạo và chặt chẽ như mũi kim vặn ốc, cứa dài và kẹp riết lấy lòng Trung.
Trời mây xám nhạt đặc dần. Đen nhờ. Đèn điện các nơi đã bật lên. Bóng tối pha thứ dầu vàng nhờn. Trong nhà, tiếng dọc tẩu reo vo vo vẫn đều một nhịp. Cả Liên chưa xuống sông vì hộp thuốc còn nhiều, bình nước ủ vẫn nóng bỏng tay, và đĩa kẹo lạc mới vơi mấy chiếc.
Lò than để sưởi tỏa sức hơi nóng. Thỉnh thoảng than nổ lách tách. Nét mặt Cả Liên càng sắc thêm trong cái yên lặng mờ sáng. Cả khi hút, mắt hắn cũng long lanh, đầy giận tức. Miệng nhắp vào dọc tẩu, môi mím lại, vết dao chém lờm sâu chếch dưới cằm, tất cả như gọt lên nước da nâu sạm.
- Không! Không thể được!
Những tiếng đó dằn mạnh trong tâm trí Trung, Trung thấy phải nhất định như thế nếu không anh sẽ chết mất! Sẽ chết mất! Không phải Trung chết vì ốm yếu mà vì những cái khác, những cái ghê rợn vô cùng, Trung chỉ thoáng tưởng đến đã đủ rùng cả tim gan. Nghiện ngập! Bệnh tật quái gở và... còn rất nhiều cái không thể đoán trước, lường trước sự tối tăm thê thảm!
Trung trở mình và quay mặt ra phía ngoài. Cửa sổ bên giường vợ Cả Liên đã khép chặt.
Cảnh vật bên ngoài phải trông bằng cái cửa nách ra sân. Sương đã tỏa mờ mờ. Khói của những lò Xi măng khổng lồ phún ra từng luồng cuồn cuộn, làm mịt mùng thêm trời mây. Những xóm nhà lá san sát càng lúp xúp. Những ánh đèn hoa kỳ lắt lay ẩn hiện trên nền tối thẫm, rõ hơn giờ đây, hầu hết dân xóm mới ăn cơm vì phải đợi tầm về của chồng con, cha anh. Dạo Trung làm ở đây, Trung cũng phải ăn tối như họ. Nhà Trung trọ có hai người con trai kém tuổi Trung và một mẹ già với ba đứa cháu nhỏ mồ côi. Đã nhiều lần cả Trung và hai người con nọ ép nài bà cô ăn trước với những đứa bé, nhưng bà ta cứ nhất định chờ. Nói thế chứ thật ra vắng bà và những tiếng ríu rít của trẻ thơ, bữa cơm mất cả vui và ngon.
Vo... vo... vooooo... vooooo... Pập! Cả Liên không kịp đặt dọc tẩu xuống khay, nhỏm dậy:
- Chú Trung! Chú đi đâu thế?
Chân trước chân sau dưới khung cửa ra sân, Trung run rẩy:
- Em ra ngoài...
- Nhưng đi đâu?!
Trung càng luống cuống:
- Không em có đi đâu?!
Sực nghĩ ra, Trung vội nói:
- Em ngâm ngẩm đau bụng anh ạ.
- Mau lên mà vào không có ngoài gió to lắm đấy!
Thì gió lộng ngay lên khi dứt câu Cả Liên nói. Khí lạnh chạy suốt sống lưng Trung. Hai ống chân gầy tê đi và chỉ chực khuỵu xuống, Trung mím môi:
- Sao lại yếu đến thế này.
Trung thở hồng hộc, rít một tiếng dài rồi vội bước. Mồ hôi trán toát đầm và người nóng ran rồi lạnh toát. Mày Trung chau lại và khóe mắt nhức nhối. Trung lặng cả tâm hồn đi tự nhủ: "Đi đâu? Yếu thế này thì đi đâu bây giờ?"
1942
(1) Năm hào.
(2) Bắt.
(3) Vác, đem.
(4) Tay chơi ít tuổi