Vực Thẳm Viết hộ một người đã khuất
... Bây giờ mẹ tôi chết rồi. Còn anh tôi. Đã bao năm anh tôi không chịu nhận thư của tôi và nhắc nhở đến tôi với một người quen. Không biết anh tôi hiện ở đâu, làm gì? Chắc anh tôi cho rằng tôi đã chết. Vì cái ngày tôi ốm nặng, tôi gặp được người bạn anh tôi trên chuyến tàu tốc hành Sài Gòn - Hà Nội, tôi chỉ nói với người này được vài câu rồi lả đi, người chị em bạn theo tôi, đưa tôi vào nhà thương lúc nào không rõ.
Cứ như thân hình tôi lúc ấy, gầy guộc, tả tơi, mặt mày nhợt nhạt, thở chẳng ra hơi, người bạn anh tôi khi trở vào Nam Kỳ thế nào chả bảo anh tôi: "Con em mày đến chết mất! Và khi mày nhận được tin của tao đây, chắc nó chết rồi". Rồi thế nào người bạn anh tôi chả giục anh tôi nên về qua Bắc thăm tôi chứ đừng tuyệt tình như thế.
Bấy nay đã sáu năm. Trong khoảng này biết bao người cũng trạc với anh em tôi đã con bồng, con dắt. Nhưng, chúng tôi?! Về phần anh tôi, giờ không ăn trọ thì ngày ngày gặp hàng nào, ăn hàng nấy; trưa, tối, các ngày nghỉ, đều nằm li bì ở những chỗ ăn chơi, chứ đâu chịu đa mang vợ con? Còn tôi, tôi đành cứ phải trông ở chung quanh thiên hạ mà làm vui thôi: con cái ríu rít với cha mẹ, cha mẹ cười nói với con cái. Vì ốm yếu và hai bàn tay trắng như tôi, còn muốn sống thêm vài năm nữa để hưởng cái vui đời, tôi phải chịu ở một mình vậy.
Chúng tôi độc hai anh em. Kể ra thì sáu, nhưng phải bốn người chết sớm, đứa mới chập chững, đứa còn phải ẵm. Còn có hai người ruột thịt ở bên chúng tôi tới ngày chúng tôi khôn lớn, là mẹ tôi và bác tôi. Ngày đó tôi lên bảy, anh tôi lên chín. Cha tôi khuất đi, không để lại cho mẹ tôi một chút gì đáng gọi là tiền của. Và những công nợ mắc về dịp cha tôi chết lại chất một gánh nặng thêm lên vai mẹ tôi: tiền ma chay, tiền cúng giỗ, bốc hót và bao nhiêu thứ tiền khác. Chịu khổ dồn mấy món nữa với cha tôi cho đoạn thế còn hơn. Vì mẹ tôi khỏi một cái nợ đời đời: lo ăn lo mặc cho cha tôi không đủ, còn phải lo những thứ cần thiết cho những ai giàu có, phong lưu: chè thơm, rượu ngon, tiền tổ tôm hàng ngày, tiền xe pháo đi chơi xa một tháng đôi lần và tiền cơm nước hậu đãi lại những khách của cha tôi ở các nơi đến. Người ta thường cho rằng đó là số cha tôi và số nhiều người đàn ông khác được như thế. Mà cha tôi và những bậc cha chú kia chắc cũng đinh ninh đó là một sự thiên định. Vì tôi thấy bao người quen biết cha tôi và bao nhiêu người ở chung quanh cha tôi, chỉ ở nhà, ngày ngày chẳng động đến một việc gì nặng nhọc hay bàn tính cùng vợ con những việc ấy, mà đều quần chùng, áo dài, ăn uống thỏa thuê rồi rong chơi.
Bức ảnh phóng đại của cha tôi vẫn rõ ràng, treo trên bàn thờ kia. Một người bạn gái nào đó cùng tuổi, cùng hàng với tôi rất có thể thấy giống như cha mình, khăn áo phẳng phiu, người ngồi rất thẳng trong cái ghế bành chắc chắn, vẻ mặt nghiêm trang một cách cố hữu, cái hình ảnh ấy thấy nhan nhản trên bàn thờ của bao nhà. Không! Không phải vì khuất mặt rồi nên con người này mới được thờ kính. Cả từ khi còn sống, cha tôi vẫn được cả nhà nhất nhất vâng theo và cúi đầu chịu đựng như đối với thần thánh đã đời nọ truyền đời kia ngự trên cao và hưởng hương hoa.
Chúng tôi đẻ ở Nam Định. Đây là nơi sinh trưởng của mấy đời trước cha tôi. Những bậc tiền nhân này như phần đông những bực đồng thời, cũng đã từng thi cử. Nhưng chẳng ai hiển đạt, rồi thấy mình quá tuổi, thấy mình lỡ thời, các cụ lại đành quay về với sự buôn bán của vợ con. Hàng bao nhiêu năm, trong sự làm ăn này, tôi không thấy nói qua nhà tôi có một đời khá giả. Trái lại, chỉ những sa sút, lắm phen điêu đứng đã phải toan trốn đi nơi xa, nhập vào đám người thiên hạ cùng cực.
Cho tới đời chúng tôi thì không còn là tôi nghe thấy nữa, mà phải sống từng giây, từng phút hết năm này sang năm khác. Những nỗi gieo neo, những sự tối tăm chỉ đổ lên đầu mỗi một người trong nhà là mẹ tôi. Người mẹ không mấy lúc được ngơi tay và tươi tỉnh của tôi! Không! Tôi không dám làm thơ mê say với con người này đâu! Những nguồn cơn kia đều đẫm những mồ hôi nước mắt của mẹ tôi, đã rút đi từng mấy tuổi của mẹ tôi, sao tôi lại phạm tội du những bọn đàn bà xấu số khốn nạn chúng tôi vào đó?
Những quang gánh thúng sọt nặng trĩu những ngô khoai rau muống, bèo kia, kĩu kịt trên những sống vai gầy rạc của cái kiếp người sống tần tảo, lần hồi, nếu có thành những điệu thơ thì phải là những tiếng kêu rên thống thiết của sự đau đớn chua xót, đòi gọi sự thay đổi cho cuộc đời được no ấm, êm vui rất xứng đáng phần cho những người mẹ hiền từ, chịu khó. Mẹ tôi đã buôn bán dầu dãi với những gánh gồng ấy. Mẹ tôi đi tất cả những chợ tỉnh bên, cách hàng mấy chục cây số. Nhiều khi mua chịu của người lâu rồi chưa trả mà lại cất hàng của người khác, mẹ tôi phải đi tránh đường, lâu thêm vài giờ nữa. Trời nắng, dù giữa tháng năm cũng còn khá. Những dạo mưa dầm gió bấc, đường vữa ra, rút được chân lên lại phải cắm chân xuống, thì mẹ tôi đi chợ về chỉ ăn được lưng cơm rồi nằm rũ ra như chết. Nhưng chỉ tới lần gà gáy thứ nhất mẹ tôi đã phải dậy và lại nón, áo ra đi giữa trời đất tối mịt.
"Đi... đi chợ để kiếm gạo và gỡ nợ", những tiếng này chỉ có thâm tâm chúng tôi nghe thấy và người chung quanh nhận thấy, chứ tuyệt không bao giờ ở miệng mẹ tôi thốt ra. Nợ! Những công nợ mà mẹ tôi cố trả ấy, tôi không thể nào nhớ xiết. Tiền góp ngày, tiền góp tháng, lãi mười phân, hai mươi phân, ba mươi phân, có khi chỉ từ sáng đến chiều một đồng bạc đẻ thành đồng hai; bát họ ở chợ này, bát họ ở dưới xóm kia; món năm đồng của bà Khán, món mười đồng của một bà Bá,... với hai bàn tay trắng, mẹ tôi chỉ trông vào tiền của người ta làm vốn.
- Ước gì có hẳn một trăm bạc trong tay bây giờ thì chỉ buôn hơn một năm là gỡ sạch nợ và rồi chẳng còn phiền lụy một ai.
Đôi khi tôi được nghe mẹ tôi thở dài, đoạn thở than với mình câu trên đây. Lúc ấy, mẹ tôi lại thần mặt ra, mắt lờ đờ như tê dại, khiến tôi cũng yên lặng và bâng khuâng, tưởng đến món tiền một trăm bạc kia sao mà lớn lao và khó khăn quá đối với gia đình tôi thế.
Và tôi cũng ao ước mẹ tôi có trong cái túi cạp rút ở thắt lưng một trăm bạc trả bớt những món nợ nhiều, còn lại thì buôn bán, như thế chẳng mấy chốc mẹ tôi khấm khá, có hoa nhẫn, áo the quần nái, có luôn dăm bẩy chục trong người, gạo nhà ăn đong hàng tháng, thịt cá đầy đủ, và anh em tôi ăn vận trắng trẻo, đẹp đẽ như con nhà giàu.
Mẹ tôi đã có thật.
Chính mắt tôi được chứng kiến cái lúc người ta đếm vào tay mẹ tôi những tờ giấy bạc lần đầu tiên tôi được trông nhiều như thế, nó làm tôi rạo rực và cũng muốn giữ lấy. Những tờ giấy to, nhỏ, mới, cũ đều thơm phức. Chắc có người xức nước hoa. Khi mẹ tôi đã lẩn tiền vào mình mà mắt họ vẫn nhìn chòng chọc, sáng một cách dữ dội, tuy miệng họ vẫn cười nói rất nhiều với mẹ tôi. Những câu gì họ bảo mẹ tôi và cái giấy gì mẹ tôi đã lăn mực vào ngón tay cái in ở bên dưới ấy, tôi không để ý. Tôi chỉ nhớ mẹ tôi đã dại cả mặt đi, chỉ vâng, dạ, chào đi chào lại rồi luống cuống dắt tôi ra về.
Đó là một buổi chiều. Hình dáng mọi vật đều nhập nhòa lại hẳn trong những tiếng ồn ào và những lớp bóng xám xám như khói. Không đầy một năm sau, cũng vào buổi chiều như thế, - tuy về mùa hè nhưng thấy lành lạnh và buồn rượi, - thì mẹ con chúng tôi trốn đi, bắt đầu cái cảnh tha phương cầu thực.
Luôn ba hôm, mẹ tôi đều về chợ muộn, mặt mày nhợt nhạt hổn hển hỏi anh em tôi:
- Bà Bá có đến không con? Con có thấy ai đến hỏi bu không?
Chúng tôi vừa giở những gói bỏng, lạc, ngô bung, vừa ngạc nhiên nhìn mẹ tôi và lắc đầu. Mẹ tôi lật đật bỏ gạo, thức ăn ra lại dặn chúng tôi, giọng nhỏ, lấm lét:
- Có ai đến thì con bảo bu đi chợ chưa về và về thì bu đến nhà bà Bá ngay nhé. Nhớ, con đừng cho bác biết và bảo người ta thế nào bu cũng đến nhà bà Bá và đem tiền trả bà.
Trước vẻ lo sợ xanh xám của mẹ tôi, anh em chúng tôi vẫn cười và chòng ghẹo nhau. Vì sợ công nợ đối với nhà tôi đã thường quá, và có sao thì mẹ tôi phải lo, phải chịu chứ đâu đến chúng tôi. Rồi tới bữa cơm vẫn đủ cá, thịt cho chúng tôi, và một bát canh, một đĩa xào và nửa chai rượu cho bác tôi, thì những cảm tưởng băn khoăn phơn phớt kia tan hẳn.
Anh tôi ngồi một bên, tôi ngồi một bên, bác tôi ở giữa khề khà từng nhấp rượu, bóc vỏ từng củ lạc ăn và cho chúng tôi. Mẹ tôi chỉ tới bát thứ hai là xin vô phép. Như mọi ngày, bác tôi chỉ hất hàm hỏi qua: "Sao thím lại ăn có thế?" rồi lại rót rượu ra chén, nhấm nháp, chuyện trò với anh em tôi. Con người này thật đúc ở một khuôn với cha tôi. Thân thể cũng nhàng nhàng, vẻ mặt suốt ngày đăm đăm, lúc nào vui lắm chỉ cười khẩy một cái,... bác tôi hơn cha tôi một chút là còn vuốt ve chúng tôi.
Đối với cha tôi, mẹ tôi sợ sệt, rúm ró thế nào thì đối với bác tôi cũng thế. Nhất là từ ngày cha tôi chết, giối giăng giao phó chúng tôi lại cho bác tôi, và mẹ tôi được bác tôi luôn luôn giúp đỡ lúc mười đồng lúc hai mươi đồng, thì sự khuất phục của mẹ tôi không còn biết dùng chữ gì mà ví được. Bác tôi hơn cha tôi những mười lăm tuổi, vừa là con trưởng ông tôi, vừa phải giữ việc giao thiệp cho người trưởng họ trong làng.
Cái nhà và miếng đất ông tôi cầm và sắp bị cắm mất do tiền bác tôi chuộc lại. Có đến hơn hai mươi năm, bác tôi cũng như cha tôi, sáng dậy bữa chè tàu rồi thủng thẳng ra vườn là vừa bữa rượu do mẹ tôi làm. Đêm đến không tổ tôm thì lại la cà những chốn bàn bạc chuyện trò ngoài đình, ngoài đền, ở một nhà hiếu hay một đám cưới... Và cũng như không hay biết, cũng chẳng cần hay biết hỏi đến mẹ tôi một lời về sự làm ăn, - cả từ ngày cha tôi chết, - bác tôi mặc mẹ tôi lo toan tất cả mọi cái trong nhà, từ gánh nước, hột gạo, từ manh quần tấm áo của chúng tôi và của bác, đến những giỗ chạp đóng góp.
Bữa cơm chiều hôm ấy, mẹ tôi đương cất bát lên miệng bỗng nhớn nhác đặt đũa xuống chạy ra cổng. Thấy tiếng chó sủa ran và tiếng người léo nhéo và mẹ tôi thì hốt hoảng, bác tôi cau mày nghe ngóng. Khi mẹ tôi trở vào, bác tôi cười nhẹ một tiếng, giọng rất thong thả:
- Ai hỏi gì thím thế? Có nhà có cửa sao không mời người ta vào?
Mẹ tôi cúi mặt run run:
- Dạ, thưa bác người ta bảo em đem gà lại cho người ta đấy ạ...
Chưa kịp dứt câu, mẹ tôi lại đứng dậy chạy vội lên vì tiếng gọi ở ngoài kia vọng vào gay gắt. Sau đó, mặt mẹ tôi cắt không còn hạt máu, lập cập xin vô phép bác tôi, trút chỗ cơm dở vào bát của con mãn, rồi xuống bếp xách lên một con gà sống to và cắp một thúng đậy vỉ buồm, không hiểu có những thức gì. Không để bác tôi hỏi, mẹ tôi cười mếu máo:
- Để mai lấy không được sao? Mình tính đắt thêm hàng năm hào mà cũng cứ đòi mua. Thôi mặc họ!...
Quay lại, mẹ tôi xin vô phép bác tôi lần nữa và căn dặn tôi ăn xong phải thu xếp bát đĩa và giũ giường cho bác tôi rồi mới được đi chơi. Nhìn mẹ tôi tất tả ra đi, bác tôi chỉ lừ lừ mắt, đoạn lại nhấc chén rượu lên gật gù nhấm nháp. Lần này, thấy mẹ tôi cuống quýt vì người đến réo nợ, không những tôi căm tức mà còn đau xót cho mẹ tôi nữa. Tôi không lầm, đêm qua mẹ tôi sốt run không được mà vẫn giấu nhà, chỉ bôi dầu và uống vài viên thuốc với lá hương nhu pha đặc. Sáng dậy, tôi rờ mình và chân tay mẹ tôi vẫn còn nóng rực, nhưng mẹ tôi vẫn cười, cho xu anh em tôi rồi đi chợ, mặc dầu lúc đó đương lớt phớt mưa. Chiều đến, tôi đương ngạc nhiên, phân vân vì con gà sống thiến và cái thúng đậy cẩn thận nọ, không hiểu mẹ tôi lại đưa về nhà để làm gì, thì mẹ tôi bỏ bữa cơm mà vội vã đi như thế.
Đêm ấy, không hiểu lúc đó là mấy giờ, tôi chỉ biết khi bị lay gọi, dụi dụi mắt, nhìn ra thì thấy trời đất còn như mực và im thăm thẳm. Cả anh tôi cũng bàng hoàng trông lên cái màn bỗng biến đâu mất với bao nhiêu đồ đạc quanh mình. Mẹ tôi mặc áo dài, chít khăn vuông, thắt lưng buộc chịt lấy người, kéo tay chúng tôi dậy vừa thở vừa nói:
- Thôi dậy con! Dậy đi đi...
Anh tôi càu nhàu vì vẫn chưa hiểu ra sao:
- Đi đâu, tối thế này thời đi đâu?
Mẹ tôi nhăn nhó, xốc hẳn chúng tôi xuống đất:
- Khổ quá! Mau lên! Mau lên không bác về bây giờ!
Thoáng trông thấy một gánh đầy lèn những thức dùng nào quần, áo, sách, mũ, nồi niêu y như của một người dọn nhà, tôi lờ mờ hiểu, lòng ghê rợn. Những cảnh bắt bớ dê diếu vì công nợ thường xảy ra trong xóm, khiến tôi chớp chớp mắt nhìn mẹ tôi, níu lấy áo mẹ tôi rồi co người lại.
- Không!... Không!... Con không đi đâu! Không phải trốn đi đâu! Bu cứ ở nhà với bác cơ...
Nước mắt mẹ tôi liền giàn ra, mẹ tôi rít lên, rền rĩ:
- Khổ quá! Khổ quá giời ơi!... Mẹ lạy chúng mày, mẹ lạy hai con... mau lên, không bác về thì mẹ chết mất, và se sẽ chứ không bên kia người ta biết thì mẹ cũng chết!
Dứt tiếng, mẹ tôi xốc đòn gánh lên vai, kéo bừa chúng tôi ra sân, chỉ kịp khép hờ cánh cửa lại. Vừa bước như chạy, mẹ tôi vừa nói nho nhỏ như một người trong cơn mê man kể lể với một ám ảnh trước mặt mình:
- Mẹ cầm văn tự địa đồ nhà của bác cho bà Bá một trăm bạc. Không còn khất được nữa, mai bà ta cho người đến cắm nhà. Mẹ chết mất! Mẹ chết mất! Thôi, đến nông nỗi này mẹ cũng liều đi thôi. Giời cho mẹ sống thì mẹ nuôi chúng mày, và chúng mày khôn lớn thì nuôi lại mẹ; cầm bằng giời bắt mẹ chết, thì mẹ chết ở nơi khác và để chúng mày gặp được một cửa tử tế mà nương nhờ, chứ mẹ không chết dê diếu ở tỉnh nhà và bỏ chúng mày cho họ hàng người ta đày đọa đâu...
Và mẹ tôi rên khẽ mấy tiếng hờ tên tục cha tôi lên... Hờ hờ, anh ơi!... Anh sống khôn chết thiêng anh phù hộ độ trì cho vợ con anh... anh ơi!...
⚝ ⚝ ⚝
- Thôi, học đi!
Luôn miệng, mẹ tôi giục anh tôi những tiếng này. Khi ngủ dậy, khi ăn cơm xong, khi vừa mới lên đèn, khi bỗng nghe thấy tiếng trẻ con vang vang đọc bài ở nhà bên kia, khi tiếp chuyện một người khách họ khoe con cái họ chăm chỉ học hành và đời chúng sẽ được rạng rỡ vì học hành... Bất cứ khi nào, hễ anh tôi rời sách vở là mẹ tôi mặn ngọt gọi bảo anh tôi. Trên cái bàn ở riêng một góc nhà có cửa sổ, và trên cánh phản trông ra đằng bờ ao và vườn, hai chỗ sáng sủa, không vướng vất một ai qua lại này, anh tôi phải luôn luôn ở đấy, cúi đầu xuống những dòng chữ.
- Học đi con ạ, rồi con muốn gì mẹ cũng nghe và sau này con muốn gì cũng có thể được. Càng nghèo càng phải cố hết sức mà học. Con chỉ nên trông những gương lành, gương tốt mà noi theo. Mẹ không chắc gì sống mãi ở với con, mà mẹ chỉ mong sao con sẽ nên người, không phụ công mẹ để mẹ khỏi tủi lòng thôi. Thôi, con học đi...
Khi đó, nếu là buổi trưa nắng thì mẹ tôi để sẵn bát bột sắn pha đường bên chồng sách, hay sau bữa cơm thì, mùa cam, cam, mùa na, na, hay hơi khuya thì nồi cháo đậu xanh, đậu đen đã đun nhừ dưới bếp. Mẹ tôi vừa làm, vừa lắng nghe từng tiếng của anh tôi. Nét mặt mẹ tôi đăm đăm hay lờ đờ đều nồng nàn những vẻ thiết tha tin tưởng, như mẹ tôi nghe cầu kinh, giảng đạo vậy.
Sau cái đêm ấy chúng tôi trốn ra Hải Phòng. Sau hơn nửa năm, cái tai tiếng vỡ nợ dịu đi và bác tôi chịu để người đã cho mẹ tôi vay trăm bạc cắm đất và gạt thêm cho cái nhà gỗ năm gian lấy trăm bạc nữa. Mẹ tôi đánh giấy mời bác tôi ra, bác tôi ra ngay, thản nhiên như không có sự gì xảy ra, đưa cho mẹ tôi mấy chục bạc còn lại để sắm sửa thêm cái giường, cái bàn, vài chục bát đĩa và buôn thêm những thức khác.
Chỗ chúng tôi ở là một gian nhà lá tận cùng xóm, sau hàng chục cái ngõ chằng chịt. Ở cái nơi mà dân cứ ba phần tư là phu phen, thuyền thợ từ các vùng quê ra kiếm ăn này, các chủ nhà thường cho thuê cả giường và mấy thứ đồ dùng không tiện đưa đi và cũng không dễ gì có tiền mà sắm sửa, như chum, vại, nồi, chậu, vân vân. Mẹ tôi cũng phải nhờ chủ nhà những thức ấy. Hơn tháng đầu mẹ tôi đi buôn rau muống, rồi chuối, mít, cau tươi. Chiều mẹ tôi thổi nhiều cơm, nắm sẵn mấy nắm thức ăn, để mấy xu cho chúng tôi ăn bữa trưa. Sau thấy không thể cạnh tranh nổi những người đã mòn gót ở đây, có phường, có bạn, thông thạo đủ mọi ngõ ngách, mẹ tôi đành phải xoay ra cách làm ăn khác. Mẹ tôi đành làm bún riêu, thổi xôi chè, bán ở mấy phố gần đấy, sắp hết hàng thì về trong xóm cho gần gũi các con. Đây người đi làm nhiều, sự ăn uống xô bồ, tấp nập đâu đâu cũng có, nhất là ở trước những nhà máy, những xưởng thợ, những ngã tư, những đầu lối đi về trong xóm.
Xóm tôi ở, từ tờ mờ sáng đến quá nửa đêm, đều dồn dập sự ồn ào. Ngay sau những đêm tối rét mướt căm căm và những trận bão đổ cây cối, lụt hết lối đi, nắng bừng lên và quang cảnh liền rực như mặt trời đổ vàng xuống. Cả cái vùng ngoại ô chật chội, úp súp, nhớp nháp, dằng dặc những ao đầm, chuồng lợn và bãi rác ấy, đều kín những tiếng người, tiếng làm việc. Ở các ngả dồn về đây, qua từ những khu chợ họp chen chúc bên đường, những mặt hàng tạp hóa tiền nghìn, đến những gian nhà thợ mộc, cắt tóc, bún bánh, bán cơm, bán phở..., luồng sinh hoạt một phút một chỉ càng thấy gắt gay cố gắng, mê mải.
Đằng trước xóm tôi có đường nhựa, ô tô nhà, ô tô hàng, xe ngựa chạy như mắc cửi. Khỏi đấy là một nhà máy đúc được thép và chữa được cả tàu to. Một quãng sông hẹp, nông, bùn lầy như lòng ao, thế mà đông nghịt những thuyền đò, sà lan và cả tàu nữa, chắn lấy trước mặt nhà máy, và có những hai cái cầu sắt bắc liền ngay hai bên. Một cái nối sang khu phố xá buôn bán liền với cái chợ chung cho cả thành phố và những miền xa gần dồn hàng hóa về. Một cái cao vượt hẳn những nóc nhà, lù lù như khối núi sắt, có đường xe lửa bắc qua và dựng tua tủa những cột dây thép. Đứng trên cầu này nhìn sang bên trái và trước mặt, không một ai không thấy choáng váng. Cơ man những ống khói, những bể thoát hơi nước bằng xi măng, bụi mốc thếch. Rồi hết lớp này đến lớp khác những nóc nhà ba từng, bốn từng, chỗ nào cũng có cửa sổ, cũng thấy giường màn và khói đun nấu. Không thể nhận ra tiếng gì mà chỉ thấy ầm ầm trong tai, sự huyên náo ngùn ngụt cả ngày. Hằng ba năm, cái khu xi măng, cốt phát và phố Khách, chợ Sắt này, tôi chỉ trông sang và nhìn người ta hàng ngày lũ lượt đi về mà vẫn rạo rực như lúc đầu, tưởng đó là một thế giới xa lạ nào.
Mẹ tôi hàng ngày sang đây, làm hàng ăn uống; mẹ tôi phải đón ở bến đò sau chợ và đầu ngã tư sở Dầu để mua thịt, cá, rau, cà chua, đỗ, gạo cho rẻ. Rồi khi hết củi, mẹ tôi mua của sở Xi măng, của sở Sô pha những mảnh ván, mùn cưa với cái giá ba hào một gánh nặng, nhưng phải chen nhau và luồn lụy người gác.
- Theo đi làm gì? Sung sướng gì mà đi?!
Chúng tôi, nhất là anh tôi, thường bị mẹ tôi hắt bắn tay đi và nhăn mặt lại dằn mắng:
- Mày không muốn học hành chữ nghĩa mà như những thằng con bác xe, bác gạo, bác bò đi nhặt nhạnh gạo bắp, đội than, đun goòng thì bảo. Hừ, để rồi tao may cho bộ quần áo đen, nói với mấy người cai, mấy lão Khách dưới siềng cho.
Không những mẹ tôi sợ chúng tôi làm mình bận bịu mà còn cố tránh cho chúng tôi sự gần gũi, đụng chạm với những cảnh kiếm sống, dầu dãi, lấm láp kia mà nếu phải chịu vì chúng tôi, mẹ tôi xin cam chịu chứ để chúng tôi bắt tay vào thì không đời nào. Luôn luôn tôi được thấy rõ ràng và tràn đầy trên nét mặt mẹ tôi sự lo lắng, trong những phút yên lặng, sau khi mẹ tôi dạy dỗ, khuyên bảo chúng tôi, hay nhìn những con cái nhà chung quanh cũng theo cha mẹ làm ăn đầu tắt mặt tối. Mẹ tôi thường thở dài, lắc đầu cất giọng nói như có rơm rớm cả nước mắt:
- Ông cha nhà mình có đời nào phải chân lấm tay bùn như thế đâu? Vậy đến đời mình - mẹ tôi nhìn anh tôi, nói thong thả hơn - mình phải học hành đỗ đạt sao làm nên công kia việc nọ thì mới rửa được mày được mặt chứ! Không thế mà lại đi làm thuê, làm mướn, ngày ba hào, ngày bốn hào, bất kỳ ai cũng sai phái được, mắng mỏ được, thì chết đi cho rồi!
Tôi cũng nghẹn ngào vì tủi cực trong sự kích thích của mẹ tôi. Mẹ tôi sống cái cảnh sống vất vả, lần hồi, nhưng khốn nạn! Mẹ tôi lại chỉ lo chúng tôi sẽ sa sút và bị liệt vào những hạng người đói rách lam lũ ấy! Sau này, càng lớn lên, càng nghĩ đến sự thất vọng của mẹ tôi, thấy đời mình không còn thể trông mong sự nhà cao, cửa rộng, tiền của đầy đủ, tôi càng thấy đau xót, uất ức cho mẹ tôi. Một người hiền lành, biết thương kẻ khốn khó và vui vẻ nhận bất kỳ việc gì để làm nuôi con, vậy sao mẹ tôi còn cứ bị những ám ảnh kia cho tới lúc chết?
Sao mẹ tôi không chịu nhận ra ngay trong cái cảnh giàu sang người ta cũng vẫn thường khốn khổ vì sự ganh ghét, lừa lọc, chia rẽ, phá tán, lo lắng, buồn phiền; nó giày vò người ta còn ghê gớm gấp nghìn sự đói rét, vì người ta nằm ngay trên đống của mà ăn không ngon, ngủ không yên như tù tội ấy! Sao mẹ tôi không càng phải thấy sáng suốt rằng hạnh phúc chỉ ở trong một cuộc đời rộng rãi, người ta cùng làm việc, cùng gắng sức, cùng chia sẻ với nhau sự êm ấm, và ràng buộc với nhau bởi cái tình yêu mến không dính dáng gì đến tiền bạc, thật ở những tấm lòng cùng vui tin tỏa ra? Mẹ tôi! Anh tôi! Và cả tôi nữa, sao mãi không có sự nhận định gần gũi này?
Năm ấy, mắt bác tôi gần lòa hẳn. Chúng tôi đứng trước chỉ một với tay mà bác vẫn còn hỏi ai đó và sờ soạng đón lấy tay chúng tôi. Nhưng bác tôi vẫn uống rượu. Cả bữa chiều và sáng sớm. Mẹ tôi thì không đi chợ xa mua những thức ăn về làm hàng. Củi đun mẹ tôi cũng phải đón họ gánh qua nhà mà mặc cả. Không những mẹ tôi yếu, không còn thể chạy băng băng với gánh hàng nặng trĩu hết phố này sang phố khác, mà còn vì sự buôn bán càng ngày càng khó khăn, mẹ tôi nhiều khách quen là thế mà vẫn còn ế. Mẹ tôi dọn bún riêu ngay ở nhà và bán thêm rượu, kẹo, chuối, diêm, thuốc, xà phòng, kim chỉ và nhiều thứ vặt khác.
Anh tôi đã lên lớp nhất, được học ở trường nhà nước trên phố. Tôi thì phải ở hẳn nhà để mẹ tôi sai bảo. Lúc nào rỗi thì mới giở quần áo ra đan. Nhờ đó mà tôi không được như những con nhà giàu có nhởn nhơ, tha thướt ngoài phố với áo hàng màu nọ, kiểu kia, luôn luôn thay đổi, nhưng tôi cũng được bằng như mấy người bạn thường thường trong xóm. Tôi có cái áo dài lụa mỡ gà, để mặc buổi sáng và buổi chiều, cái áo bom-bay màu tím mà tôi phải giấu giếm mãi mới dám giở ra vì mẹ tôi nhất định bắt may hàng lụa ta, nhuộm màu gụ.
Cặm cụi đan cho tới thật khuya, hàng tháng mới được vài ba đồng, ấy là nhiều việc lắm và được người ta trả cao công, thì tôi chỉ bớt được năm hào mua vài thứ trang điểm ít tiền, còn bao nhiêu phải đưa cả cho mẹ tôi. Tuy chỉ ngần ấy nhưng cũng là một món to đối với một gia đình ngày ngày chỉ kiếm được năm sáu hào mà gạo ăn đã mất bốn hào, còn thức ăn chỉ mua rau muống, cá vụn, dưa, nước mắm vừa, mà nhiều bữa không đủ.
Anh tôi cũng bị rút đi nhiều thứ, không còn cái lệ sáng xôi cháo và mấy xu bỏ túi, trưa thì chè đường, thạch tàu, và chủ nhật, một hào để đi xem chớp ảnh. Anh tôi muốn ăn cơm nguội rang thì ăn, không thì nhà có khoai luộc đấy, cầm đi một củ mà ăn. Trưa có mía, chuối cũng của nhà bán. Rồi ngày chủ nhật, anh tôi không phải học ôn buổi chiều mà được cho đi chơi phố là tốt rồi.
- Đấy, phải trông cái cảnh nhà mà liệu sự học hành ăn chơi - mẹ tôi bảo cả anh tôi và tôi. - Giờ được hai bữa cơm là phúc đấy! Xem như ở bên kia và cả xóm, nhà nào cũng chỉ một bữa và phải độn ngô, sắn. Và trẻ con cũng bằng chúng mày, dìu địu em cả ngày mà chẳng được đồng quà nào, thèm phải tranh nhau nhặt những đầu mía mà ăn kia kìa.
Anh tôi chỉ cau mày nhìn mẹ tôi. Và tôi cũng yên lặng, vì thấy chúng tôi sung sướng thật, so sánh với những trẻ chung quanh còm cõi, nhem nhuốc, bố mẹ cả ngày phải đi làm biền biệt thế mà hễ về đến nhà thì cắn cấu, cãi nhau. Hàng phút, hàng giờ, hàng mấy năm, dưới những mái nhà còn chật hẹp và tối tăm gấp mười nhà tôi, những cảnh sống đó kéo dài dằng dặc. Chúng tôi không cần phải suy nghĩ cũng thấy rằng mình có sự riêng biệt. Nhưng trông quá ra ngoài kia, thì tôi lại hổ thẹn. Tất cả sự ăn ở của chúng tôi, trước những nhà hàng phố lộng lẫy, con cái như hoa thì thật hèn kém không thể tưởng tượng được!
Thường những lúc ấy, anh tôi và tôi lại nhấm nháy với nhau:
- Thế bác đã đưa cho bu bao nhiêu tiền?
- Thế bác đã ở với bu từ lúc chưa có chúng mình còn gì? Nếu bu có vay của bác thì cũng trả quá cả vốn lẫn lãi rồi.
Những câu nói dè bỉu nếu đến tai mẹ tôi thì mẹ tôi lại nhăn mặt, rít tiếng vào mặt chúng tôi:
- Giời ơi! Các con tôi chúng nó lại muốn giết tôi... Ai cho phép chúng mày nói thế hở? Bác chúng mày đấy! Cái nóc nhà của chúng mày đấy! Chúng mày dám thế à?
Bao giờ cũng như bao giờ, mẹ tôi đều một lòng kính sợ người anh chồng hơn cả chồng mình. Có một bận như đến tai bác tôi những câu nói của chúng tôi, bác tôi sau bữa rượu chiều ấy, lọm khọm chống gậy ra đi. Đến tối, thấy bác tôi không về, mẹ tôi bắt chúng tôi đi tìm, nhưng không được. Sáng mai mẹ tôi phải thân xuống tận nơi mời bác tôi về. Mẹ tôi chờ bác tôi ngồi hẳn xuống giường rồi bắt chúng tôi cùng lạy, vừa khóc sướt mướt vừa nức nở xin bác tôi:
- Thôi em và hai cháu có điều gì không phải thì xin bác tha cho. Bác cứ ở với tấm lòng của em. Lòng em thế nào đã có quỷ thần hai vai biên chép. Mà cho dẫu sau này hai cháu chúng nó khôn lớn, chúng nó có vợ có chồng mà chỉ nghe vợ nghe chồng nó, chỉ biết có vợ có chồng, có con cái nó, thì em cũng mặc. Em chỉ biết có bác, ở với bác hết đạo cho đến lúc chết.
Cái lần mẹ tôi lại khóc, van lạy bác tôi này về dạo đầu năm thì cuối năm ấy, sau một trận ốm kịch liệt nhưng dai dẳng hơn hai tháng, mẹ tôi bị tê. Sự ăn một bữa và hàng ngày phải độn ngô khoai đã thành tất nhiên với chúng tôi. Bác tôi cũng bỏ rượu bữa sáng, chiều chiều chỉ uống hai cút sáu xu, nhắm với... cơm suông. Hết thuốc bóp đến thuốc uống, hết thuốc cụ lang ở làng này, đến bà lang ở chợ kia, mẹ tôi chỉ có thể ngồi được và muốn đi thì phải lần từng bước vịn vào vách, vào cột nhà, vào thành giường.
Nhưng mẹ tôi vẫn phải làm hàng. Cái hàng ăn uống vặt vãnh này, tất cả chúng tôi đều bám lấy với tất cả sự chịu khó và lòng cậy trông để mà được sống cùng nhau. Sáng tinh sương, mùa nào cũng như mùa nào, tôi còn nặng trĩu mắt vì ngủ, thì mẹ tôi đã dậy, sờ lần xuống bếp để thổi xôi, nấu riêu, luộc khoai. Cái thân hình gầy còm lẩy bẩy ấy đi lại trong bóng tối đặc và ướt át với những tiếng rên khe khẽ và những tiếng thở ì ạch, cho đến bây giờ vẫn còn rõ ràng ở trước mắt tôi, thấm thía ở trong lòng tôi. Mẹ ơi! Con của mẹ lại nhớ tới mẹ đây và sắp nằm xuống bên mẹ đây! Và cái ánh đèn! Mẹ ơi! Cái ánh đèn hoa kỳ nhỏ như hột đỗ, mẹ cố dành lại cho người con trai, cho anh con, mà làm việc mò mẫm, để anh con học lúc ban đêm và gần sáng, - cái ánh đèn vàng đục ấy lại nhoi lên trong tâm trí con. Giời ơi! Cái ánh đèn khi xưa dưới mái nhà lá thấp sát với mặt đất mà bác, mẹ, anh và con chui rúc với nhau, giờ đâu? Tất cả đâu? Trước những ban ngày ánh sáng mặt trời rực rỡ, con còn sống, lại kêu gọi mẹ này!
⚝ ⚝ ⚝
Những buổi chiều hè này sao mà vui thế! Nhất là vào khoảng sáu giờ đến lúc hè phố sắp bật lên thì quang cảnh tưng bừng như đám hội. Nắng tuy không chói lọi nhưng ánh sáng vàng rực rỡ lạ lùng. Hình thể, màu sắc gì cũng nổi bật lên dưới nền trời xanh trong và bát ngát, mây trắng xốp đùn từng núi bồng bềnh, chung quanh có ánh vàng tia ra lấp lánh. Những hương hoa quả thơm nồng, bay thấp thoáng trong không khí, tê mê, rạo rực.
Tôi chẳng còn thấy ai có vẻ mệt nhọc, qua những làn như là tơ màu rất nõn, rung rinh trước mắt. Cả những người gồng gánh kĩu kịt, những sống lưng oằn ra theo sau những xe gạch, đá, những thợ về tầm mải miết, quần áo vá víu lấm láp, mặt mũi nhem nhuốc mồ hôi,... họ cũng như nhàn hạ, khoái trá mà đón gió mát. Không những thế, những hình dáng tấp nập này nhiều lúc còn biến hẳn đi và tôi chỉ nhìn thấy những bạn gái tươi trẻ như tôi, hơn tôi, gấp mười, gấp trăm, gấp nghìn tôi, ríu rít, thấp thoáng đi qua những bóng râm và những làn nắng.
Ngồi đan trong nhà mà trông ra xa và ngoài phố hay tưởng tượng ra những con đường phố Tây, phố Đầu cầu, phố Khách, trống ngực tôi đập hổn hển, tức như sắp nghẹn lại. Ở những dây, không phải là những tiếng ồn ào mà là những tiếng đàn, tiếng nhạc reo lên rộn ràng với gió chiều thổi phấp phới nắng chiều. Những bước chân người ta không phải đi trên hè mà như lướt qua những dây đồng, và giọng nói của người ta vang vang như ca hát. Càng cố ngồi yên, mặt tôi càng bừng bừng, da thịt càng bứt rứt, những đầu ngón tay đưa hai cái que đan cứ lê từng mũi một và nhầm sợi luôn luôn.
Những lúc đó nếu tôi xong hàng được phép đem trả, hay mẹ tôi sai tôi đi chợ, bác tôi bảo đi cân vài chén thuốc, thì tôi run cả người, luýnh quýnh mãi mới xỏ được cái tay áo. Nhưng khốn nạn cho tôi, trước tôi còn có thể ra phố với cái quần đen, cái áo trắng dài phin, sau dần dần tôi không thể nào không tô môi cho thắm, phớt ít phấn hồng lên má, và bắt buộc phải quần trắng, áo dài mới là rất nuột. Như thế tôi phải trốn mẹ tôi. Tôi sang nhờ nhà chị em bạn chải đầu, mặc áo, nhờ y ngắm vuốt rồi mới dám ra đường.
Tuy chỉ một mình thôi, nhưng tôi thấy rõ ràng lòng tôi rực lên như tôi cười với tất cả mọi người, và mọi người tươi cười vẫy gọi tôi. Tôi đi rất nhanh như sợ chung quanh bỏ xa bước mình và để đằng sau họ vượt quá mình. Tuy bước dồn thế mà tôi không biết, không thấy chút gì nhọc. Trong người tôi chỉ thấy nhẹ hơn, từ ngực trở lên có những làn hơi êm ấm thổi bừng bừng. Rồi càng ngược lên khu phố trên, tôi càng thấy không phải chỉ người người thôi mà cả mọi vật, những cột dây thép, những tủ hàng, những tấm biển, những nóc nhà lấp lánh ánh nắng, đều cười nói với tôi.
Tất cả những bạn tôi gọi tôi trong những lúc này, đều phải ngượng vì tôi. Chỉ thoáng nghe thấy tiếng họ, tôi đã chạy xổ đến, nắm chầm tay họ mà reo lên rồi hỏi tíu tít khiến họ không kịp đáp! Nhưng tôi rất ít có sự chuyện trò gặp gỡ những lúc này. Vì bạn học trò và con nhà nhàn rỗi, tôi gần như không có một ai. Những bạn gái nghèo cũ của tôi ở trong xóm còn bận chợ búa không nói làm gì. Còn những bạn đi làm hoặc bán hàng, hoặc đi đan, hoặc trông coi con nhỏ cho những nhà Tây, thì giờ này họ vẫn còn bận việc. Họa hoằn tôi mới gặp vài người nhưng chỉ quen sơ, vả lại, họ còn có việc phải đi của họ, hay họ có nhân tình nào đến hẹn hò, nên chúng tôi chỉ chào qua nhau và tôi lại một mình bước đi bằng sự rạo rực hân hoan.
Như thế tôi càng thấy sung sướng vì được tha hồ dừng lại ngắm nghía các tủ hàng. Vừa phần tôi tránh được sự chửi mắng của mẹ tôi nếu một người quen họ mách tôi đi với bạn nhởn nhơ ngoài đường. Thế cũng đủ chết với mẹ tôi, chết vì sự nghiến dứt, giày vò của mẹ tôi chứ đừng nói là sóng đôi với một người nhân tình và nhất là mang cái tiếng trai gái lẳng lơ, giữa đường giữa phố. Điều này tôi ghê sợ lắm. Thà rằng tôi bị trói buộc ở nhà hơn là bị rêu rao là hạng con gái nứt mắt ra mà đã quái gở thế. Vừa phần thời giờ được đi có ít, mà thức gì bày bán ở hai bên phố cũng đẹp, cũng mới cả, vậy tội gì mà không nhìn cho thỏa thuê? Tôi chỉ nhìn thôi, so sánh, chọn lọc rất lẩn thẩn trong tâm trí để đến bao giờ có tiền thì mua. "Đến bao giờ có tiền", cái ý tưởng này khiến tôi đã nhiều lúc phải cười thầm vì thấy thật chẳng bao giờ tôi có được những ngần ấy tiền, sắm sửa lấy vài thứ như người ta. Một chuỗi ngọc xanh... cái dù màu nước biển... đôi giày "daim" (1) đế nút chai... bộ quần áo lụa nõn nhất may ở hiệu kia nguyên công đã bốn đồng... và, nào nước hoa, kem, phấn, áo nhung, áo choàng mùa rét,... từng ấy thứ gồm lại có bạc trăm mà đến cả mẹ tôi chịu khó, tháo vát và điêu đứng là thế mà còn không có nữa là tôi, giờ được đồng nào đưa cả cho nhà thêm vào tiền gạo tiền củi đồng ấy!!!
-----
[1] Đanh: (peau de daim) một thứ da thuộc rất mềm nuột.
Nhưng tôi chỉ thoáng chút buồn, rồi lại vui ngay. Tôi được đi, được tràn bước trong sự ồn ào và mặc sức trông ngắm là đủ rồi. Phận mình con nhà nghèo, không nên đua đòi quá, và cũng không thể đua đòi được, ta cứ yên cái phận mình cho sung sướng. Tôi nghĩ thế và trở về nhà bước chân cũng nhanh, tâm trí cũng rực rỡ như lúc ra đi.
Nhà tôi không ở trong xóm nữa mà dọn hẳn ra ngoài ngõ, gần phố. Mẹ tôi nghỉ làm hàng vì không còn thể cố gắng hơn được nữa với hai ống chân càng nặng trĩu, cấu cũng không biết đau. Anh tôi đã đi làm. Anh tôi làm cho một nhà bao thầu vận tải. Ngày nắng đã vậy, ngày mưa thì vì ở mãi thẳm cùng trong này, đường xa và bùn lầy chấm gối, anh tôi phải dậy sớm lắm mới khỏi nhỡ tàu,... vậy không thể nào nấn ná lại cái nhà lá tuy đã quen thuộc gần hẳn như của mình với cái hàng ăn uống lặt vặt kia. Bàn tính mãi với chúng tôi, mẹ tôi đành phải chịu để anh tôi thuê lại một gian nhà gạch ở căn trong một nhà ngoài phố, tháng tháng phải trả những năm đồng mà chỉ kê được ba chỗ nằm, một cái tủ và một bộ bàn ghế sát vào nhau không hở nửa tấc.
Từ ngày anh tôi thi không đỗ, mẹ tôi yếu đuối quá, anh tôi phải đi làm, thì số tiền lương của anh tôi nuôi sống cả gia đình với năm sáu đồng bạc thỉnh thoảng đỡ cặp của tôi. Không những thế, vì sự ăn tiêu ở ngoài phố không thể nào xúi xó được, những quần áo phải có tủ treo, khách ngồi phải có ghế, ăn mâm đồng, đi làm phải sẵn đồng hồ, chè nước tiếp bà con, nên tất cả những chi tiêu, sắm sửa đó đều trông vào nốt những tiền bổng ngoại của anh tôi. Và riêng tôi, tôi càng phải tìm việc về làm và cặm cụi đan không mấy phút dám rời tay ra, ngoài hai bữa thổi nấu và thu dọn cửa nhà.
Một buổi trưa, anh tôi phải trông cho phu phen bốc vội hàng ngoài Sáu Kho không về qua nhà được. Mâm cơm úp lồng bàn để trên bàn đã chờ tới hai giờ. Chợt tôi đương đan, mẹ tôi gọi tôi bằng một giọng lạ quá khiến tôi hồi hộp và khó chịu, phải đến ngay giường mẹ tôi. Tôi chưa kịp hỏi, mẹ tôi đã gằn tiếng:
- Mày may cái áo dài xanh hết những mười đồng phải không?
Tim tôi như ngừng lại trước câu hỏi này. Tôi đã may giấu mẹ tôi, gửi áo bên hàng xóm, mà sao mẹ tôi vẫn biết? Không thể chối được, tôi liền cười nũng nịu:
- Con may đâu nào? Tiền đâu mà may những chục bạc. Con mua lại của con chị em bạn ba đồng, ấy mà đã trả nó đâu!
- Hừ! Mua lại! Mua chịu! Đồ đĩ! Đồ đĩ!
Mặt tôi đã nóng rực, tôi uất ức nhìn mẹ tôi. Mắt mẹ tôi sáng hơn nữa, gờm gờm:
- Con nhà khốn nạn mới thế!
Nước mắt tôi không thể giữ hơn được, chảy ra ròng ròng. Tôi càng mím chặt môi nhìn mẹ tôi. Giá mẹ tôi không khêu chuyện này lên, thì có lẽ mãi mãi tôi phấp phỏng đau đớn, lo sợ vì sự liều lĩnh và nhẫn tâm của tôi. Không phải một chục bạc mà những mười hai đồng cái áo nọ! Cái bọn quần áo đan thuê tháng trước, họ trả cao cho tôi những mười lăm đồng. Tôi đưa cho mẹ tôi có mười đồng mà mẹ tôi vẫn cho rằng tôi làm được giá. Tôi lại bớt được hai cuộn len màu tốt nhất gộp với ba cuộn kỳ trước, tôi đan được một bộ quần áo trẻ con rất đẹp, vừa bán vừa biếu người ta cũng được bảy đồng. Cầm mười hai đồng bạc mà mẹ tôi không biết qua, tôi đã choáng váng, run rẩy như trong cơn sốt nóng. Rồi luôn hai đêm, tôi đang thì ngủ mệt thế mà chỉ chập chờn, tang tảng sáng đã thức dậy và lại rạo rực đứng ngồi không yên. Trong tâm trí tôi, những hình ảnh rối loạn như trong những mớ gai góc nung lửa, cứ vừa dập đi lại bùng lên. Bao nhiêu ý nghĩ không mấy khi rõ rệt lần này cởi hết cả, vun vút hiện ra, xô đẩy qua những đám hình ảnh sôi nổi nọ. Trưa hôm ấy, nắng chang chang, tôi vùng ra đi, chẳng ô nón gì cả. Người tôi mê đi, mặc bước chân đưa qua những tủ hàng, mặc mắt nhìn bị giữ lại trên những mẫu hàng. Chọn màu áo để người ta đo, và trả cả tiền trước xong, tôi ra đường, bước như chạy. Mắt tôi càng nghẹn ngào. Tôi bỗng quay trở lại, định đòi lại mười hai đồng bạc kia, trừ đi ba, bốn hay năm đồng cũng được. Còn lại bao nhiêu đưa cho mẹ tôi... Mẹ tôi! Lúc đó cái vóc người gầy xác và lẩy bẩy, vịn tay tôi... đi lần từng hòn gạch ấy, lại hiện ra rõ ràng hơn cả, bao trùm cả trước mắt tôi! Mẹ tôi! Trước những dòng nước mắt chan hòa ở cả ngoài đường kia. Và cả bác tôi, cả anh tôi...
- Thôi, giờ mà mày đã thế thì tao còn trông mong gì nữa! Những con gái như chúng mày chỉ biết đẹp cái mặt, sướng cái thân, chứ đâu còn chịu nghĩ đến nhà, đến cửa, đến những hạng đầu đường cuối chợ, lôi thôi, lếch thếch nhặt từng đồng xu như chúng tao.
Nghe mẹ tôi thong thả và nói rất nhỏ vì đó là giờ bác tôi đương ngủ, tôi càng cúi gằm mặt xuống mà vẫn thấy mặt rát rúa trước cái nhìn sâu xa của mẹ tôi. Mẹ tôi chỉ ngừng lại một tí rồi cất tiếng:
- Hừ, mày muốn đẹp lấy cái mặt mày, sướng lấy cái thân mày, thỏa lấy cái ý mày, thì anh mày nó cũng thế, làm được bao nhiêu nó chỉ đưa đủ tiền miệng nó ăn, rồi còn bao nhiêu nó sắm sửa, may mặc, ăn tiêu cho nó..., và con cái nhà nào cũng chỉ biết có mình như thế, hỏi còn gì là sự tu sửa gia đình, còn gì là sự lo toan bó buộc lấy nhau, còn gì những cha những mẹ sống cũng như chết này?!!
Mẹ tôi đưa vạt áo lên chấm nước mắt, nức mấy cái, nói tiếp, vẫn nho nhỏ nhưng dồn dập:
- Quần nọ, áo kia, cao lâu, chớp ảnh, cô đầu, con giai nhớn lên, đua đòi, ăn chơi nhan nhản đấy, sao anh mày nó không vui thú như chúng bạn? Sao tứ thời nó cứ đeo đẳng mãi bộ quần áo vải vàng? Sao nó cứ chịu rạc người ra đạp cái xe đạp? Và có đói cũng cố bóp bụng về nhà mà ăn cơm? Nói ra mày lại bảo là bênh nó, nhưng không nói ra, mặc mày đua đòi, để nó biết nó tủi nó buồn, rồi đâm ra chơi bời, để tao chết à?
Ngừng lại, mẹ tôi thở hổn hển. Những giọt mồ hôi lâu lắm mới toát ra lấm tấm trên cái trán dăn deo. Tôi mím môi lại nhìn xuống đất và tay tôi đưa xiết móng xuống chiếu. Những điều mà mẹ tôi nói trên đây, lần này mới thật là lần đầu vì nó rõ rệt và hằn học. Nó như không ở mẹ tôi mà ở anh tôi nói ra với những tiếng gầm, tiếng rít. Lúc còn nhỏ thì bên cái bàn học, người con trai này cũng mấy lúc được rời khỏi sách vở. Vẻ mặt anh tôi vì thế mà tái đi, thiêm thiếp một sự mệt mỏi và khổ sở. Bên cạnh những trẻ khác, anh tôi thấp hơn chúng, nhưng trông đứng đắn như ở một trường nhà tu vậy. Giờ không cái bàn học thì lại cái bàn giấy và những sổ sách. Đằng đẵng ngày tám chín tiếng đồng hồ với những công việc nhầm một chút là mình bị phạt, bị tội, người anh tôi càng mướt đi. Về đến nhà là anh tôi nằm ườn ra, lắm lúc phải lay gọi mấy lượt mới chịu dậy ăn cơm.
Một người con trai không có tuổi trẻ. Sự héo hắt tối tăm này chỉ thỉnh thoảng thoát ra bằng tiếng thở dài hay cái cau mặt. Đau khổ, nhọc nhằn vì cái gánh nặng bổn phận trên vai mình, uất ức cho đời mình thiếu thốn bao nhiêu cái vui sướng, trong sự bất công, anh tôi vẫn yên lặng chịu đựng và mẹ tôi vẫn vuốt ve anh tôi bằng những chăm nom, những lời lẽ, cử chỉ ngọt ngào. Và tôi cho rằng anh tôi dù thế nào cũng quen đi vì không thế cũng không được với sự sống ngặt nghèo của nhà mình.
- Hở, con kia! Mà tao đẻ ra mày để mày đánh đĩ theo giai, bôi tro trát trấu cho nhà à?
Mẹ tôi rít lên, lặng đi một lúc, thần mặt ra rồi lắc đầu thở dài:
- Tao đã bảo mày mấy lần rồi cơ mà! Mày đi chơi luôn, nói dối lúc thì đi mua len, lúc giả đồ, lúc nhận việc, sao tao không biết! Và anh mày nó cũng gặp mày mấy lượt nhởn nhơ cười nói ngoài đường ấy, nó đã bảo tao, nhưng muốn cho êm cửa êm nhà, tao có động đến mày đâu. Thôi, chẳng qua giời đày tao như thế, có mình mày là con gái tưởng uốn nắn dễ và biết thương mẹ, ngờ đâu!... Giời ơi!... Đau đớn!... Càng ngày tao mới càng biết những bà gì, bà gì ở trong xóm và ngoài phố héo hắt người đi vì con gái là phải! Cầm lòng sao được? Một loạt bây giờ chỉ mê man tiểu thuyết, may mặc, xe đạp, hát xướng, chớp ảnh rồi hư hỏng hết, để khốn nạn, chua xót cho cha mẹ bao nhiêu. Khổ ngay trước mắt đấy mà có chịu mở mắt nhìn, lo toan cho đời mình sau này đâu?
Tôi đã khổ sở quá trong những câu mắng nhiếc day dứt của mẹ tôi. Trước còn đau đớn, sau dần dần tôi tủi cực, uất ức, bứt rứt cả người. Phải, tôi liều may cái áo, đang tâm mặc cái áo, nhưng đâu phải trai lơ, đĩ thõa, hư hỏng và độc ác đến như mẹ tôi nói! Sao mẹ tôi không chịu nhận thấy sự giấu giếm, lén lót của tôi tỏ rằng dù thế nào tôi vẫn sợ nhà, vẫn thương nhà?
Vì khốn nạn cho tôi, ở với cái chung quanh hầu hết người ta đều trau chuốt, tôi sao có thể cứ đánh mãi cái áo dài cũ, màu tím đã bạc phếch, mạng xong chỗ này chỗ khác đã rạn ra, mà ra đường với thiên hạ, với những con mắt kén chọn, soi mói, gièm pha được? Trong phút đó, lòng tôi lại nghiêng về cái ý nghĩ rằng mẹ tôi thiên lệch đối với tôi nên mới quá quắt đến thế. Nước mắt tôi càng đằm đìa. Tôi nghẹn ngào tưởng tới tình yêu thương của mẹ tôi hầu hết đều đem đắp điếm cho anh tôi. Một tí gì của anh tôi cũng quý báu. Mẹ tôi chịu khổ với chúng tôi khi xưa bao nhiêu cũng được, chứ anh tôi phải vất vả với nhà, với chính ngay mẹ tôi, cũng khiến mẹ tôi thấm thía, ăn ngủ không ngon. Người con trai này đối với mẹ tôi chỉ đáng suốt đời nhàn hạ, sung sướng mà để mẹ tôi làm lụng chăm nom thôi. Còn tôi là phận gái cho dẫu tốt đẹp, hay ho mười mươi rồi cũng về nhà người ta, đâu phải là kẻ nối dõi hương khói, gần gụi với mẹ tôi mãi mãi?!
Tôi bật tiếng lên:
- Thôi! Thôi! Bu không cần phải nói nữa. Tôi biết hết cả rồi!
Ở góc nhà, bác tôi đã cựa quậy. Mẹ tôi vội gí ngón tay vào trán tôi, kêu khẽ:
- Im đi! Câm đi!... Thôi xéo ngay đi khỏi mắt tao...
Ngay tối hôm ấy, tôi tìm mấy người bạn dạm bán cái áo. Nhưng tôi chỉ càng bị khổ sở, uất ức. Họ vừa khen áo tôi nào hàng đẹp, bền, vừa vặn người họ, thế mà họ giở giọng chê bai ngay trả rẻ như bùn ấy. Tôi đã vò áo ra, toan xé đi, nhưng vài ý tưởng khiến tôi rợn người lên. Làm tan nát áo, tôi lấy gì mà mặc. Và đến bao giờ tôi mới lại may được một cái tốt, đẹp như thế? Hơn nữa, giày đạp cái áo, tôi còn giày đạp lên bao nhiêu sự đau thương, nhẫn nhục của mẹ tôi. Ngay áo mẹ tôi cũng còn mướp ra mà mẹ tôi như không hay biết, và nếu anh tôi có nhắc đến thì lại gạt đi, bảo còn nhiều áo, và ở nhà ăn mặc như thế cũng được.
Thuốc uống, thức ăn tẩm bổ tôi đã không chăm cho mẹ tôi mà còn lấy gót chân di lên đồng tiền, thì có khác gì tự xéo nát ruột gan. Gạt nước mắt, tôi đã gấp cái áo cất đi. Mấy tuần lễ sau, cái áo xanh nịt với thân thể tôi kia lại quen mắt tôi, lộng lẫy dưới mắt tôi và tôi lại tha thướt khoe nó những buổi chiều, trai thanh gái lịch tấp nập ngoài đường.
⚝ ⚝ ⚝
Người trẻ tuổi ấy, đã dọn đến gần nhà tôi và viết cho tôi bức thư dài đây:
"Em yêu dấu,
Đây là bức thư thứ hai anh viết cho em sau những ngày đằng đẵng, tâm hồn u ám như trời đông. Mới có hai tháng thôi, nhưng đó là hai năm, hai mươi năm, hai mươi thế kỷ của những nỗi chờ mong, thương nhớ. Hình ảnh em, tiếng nói em, giọng cười em, ngay từ phút đầu tiên tình duyên khiến xui anh gặp gỡ, đã xâm chiếm tất cả trí tưởng anh. Rồi đây, nếu anh tuyệt vọng vì mối tình này, thì tất cả những dấu vết của em kia sẽ mang theo trong lòng anh xuống dưới tuyền đài, nơi vơ vất tấm linh hồn anh bơ vơ xấu số.
Sao em tàn ác thế, sao em đành tâm quay mặt đi trước một kẻ tin tưởng em như một tín đồ? Và bức thư trước đây đến tay em, thấm thía bao nhiêu huyết lệ của một con tim mà em nỡ bỏ đi, và có lẽ đã vứt đi, để những bàn chân vô tình giày xéo? Và như thế em có ngờ được rằng cái người em bỏ mặc nọ là một kẻ lại cúi nhặt những mảnh lòng tan nát ấy mà vẫn ủ ấp bằng tất cả sự say mê của thanh xuân. Phải! Dù sao anh vẫn yêu dấu em bằng tất cả lòng yêu của anh! Thương xót em bằng tất cả lòng thương xót của anh! Vì em ơi! Càng nghĩ đến em thui thủi trong cảnh sống mờ tối, anh lại càng thấy đời em đã thuộc hẳn vào đời anh rồi. Từng sự lạnh lẽo đau tủi của em, mặc dầu em không bày tỏ cùng anh, nhưng anh vẫn chia sẻ với em, và giữ cho em một chỗ cao quý, tươi sáng nhất trong tâm hồn anh.
Cũng từ thơ ấu chịu những sự khổ sở như em, cũng hiện giờ trơ trọi ở nơi đất khách quê người như em, nên anh tha thiết được gần gũi em, làm người bạn một đời với em trên con đường gai góc. Em ơi! Bức thư này nữa đến tay em. Em không thể vì lẽ nào mà yên lặng nữa và nhất là vẫn xa anh. Trời hôm nay đã mùa thu, gió lạnh đã thổi hiu hiu từ chân trời bàng bạc, lá vàng đôi chiếc đã rời cây, chim nhạn đã thảm thiết kêu sương và mau từng đôi đã bay về phương nam đầm ấm... lòng anh càng mở rộng chờ đón em đây!".
Thôi! Thôi! Tôi đã gấp bức thư còn những hơn hai trang nữa ấy vào tay mà cúi mặt xuống thúng đồ đan, lặng đi. Từng chữ một trong bức thư xưa kia đã làm tôi nức nở, nghẹn ngào, viết bằng thứ mực xanh bút máy rất mịn trên mặt giấy phơn phớt hình một trái tim quấn những gai đỏ thẫm. Cả cái phong bì cũng thoang thoảng hương thơm mà càng nhìn lâu, tôi càng thấy trong người tê tái, bứt rứt.
Bức thư thứ nhất của y do người chị em bạn tôi đưa, mới cách đây có nửa tháng. Tôi còn đương bâng khuâng, bàng hoàng hồi hộp thì y đã vội viết thêm cho tôi. Lại những dòng chữ còn làm tôi lo sợ hơn, nó như lửa giội vào tâm trí tôi. Cũng là một bức thư nhưng so với những lần đọc của chị em bạn sung sướng cho tôi xem và của những người trai trẻ đón tìm tôi, đưa cho tôi, thì hai bức thư lần này sao mà khác lạ thế, gây cho tôi những cảm tưởng không thể nào lấn áp được.
Năm đó tôi mười chín tuổi, nhưng kể đúng năm ra, tôi mới được ngoài mười bảy năm. Những ai kia có thể không thổn thức, dào dạt tâm hồn trong cái tuổi này với một người trai trẻ đến với mình nói rằng điên cuồng yêu thương mình như thế? Trong bọn những chị em bạn tôi, phần đông họ ít ra cũng có một người để họ gần gũi, thở than và gọi nhau bằng anh của em, em của anh, cả rồi. Tôi chưa dám như họ vì còn bao nhiêu sự ngờ vực, sợ hãi. Nhất là tôi sợ gớm ghiếc cái tai tiếng, nếu chọn lầm phải một kẻ giả dối lường gạt mình mà mình là con gái, yêu bằng cái tình e ấp đầu tiên của một đời hoa xuân phong nhị.
Người trẻ tuổi này, tôi biết y không phải là từ ngày y gửi thư cho tôi. Y trọ ở một nhà phố trên ngõ nhà tôi. Đôi khi tôi gặp y cùng ra đi với anh tôi, hỏi ra thì y làm thư ký cho một hàng tơ lụa gần đấy. Rất ít khi tôi thấy y đi ngoài phố với bạn. Không hiểu vì tôi ít gặp hay thật y tính tình yên lặng thế. Cái dáng dấp gọn ghẽ, khoan thai,... cái gương mặt trắng trẻo dịu dàng, mắt nhìn sáng,... cái con người y phục nhẹ nhàng, chải chuốt, chiều nào bộ ấy kia, không những thỉnh thoảng mới gặp tôi trông ngắm tôi, mà lại còn dọn đến gần hẳn nhà tôi nữa. Ôi! Tôi đã run run giấu những bức thư của y đi và cúi mặt xuống, trước khung cửa sáng của gian gác y thuê, mở ra một khoảng hồng hồng trong đêm tối.
Đó là gian gác một mình, bốn bề có cửa, trên một khu vườn mà ngọn cau, ngọn xoan phơ phất chung quanh. Những gì kê dọn trong đó gần có thể đếm được hết. Một cái giường mới, màn trắng tinh kê sát vào bức tường vôi lơ, mé đầu treo một tấm hình lắp kính dây buông suốt từ trên cao, một cái tủ nhỏ, một bộ bàn ghế thấp và một bàn giấy trông thẳng xuống nhà tôi. Một ngọn đèn chao lụa màu hồng lơ lửng giữa gác như một chùm hoa tầm xuân nổi lên dưới mây trời xanh xanh. Làn ánh sáng vuốt ve ấy có thể xê lại tận bàn giấy, chiếu chênh chếch vào cái gương mặt yên lặng, đắm đuối kia nhìn xa xa...
Tôi lại bị những đêm trằn trọc, tâm trí rối loạn và mệt bã ra. Nhưng càng suy nghĩ bao nhiêu, tôi chỉ càng thấy lòng tôi xiêu về người trẻ tuổi, như bóng hoa hướng dương lúc rạng đông đỏ rực quay về phía mặt trời. Tất cả những chữ hiện lên trước mắt tôi bên cạnh hình ảnh y, chỉ là những chữ rất tốt tươi, lộng lẫy của sự tin cậy, tha thiết và đời đời mà từng tiếng một reo trong lòng tôi âm vang như đờn ca. Rồi cái vùng ánh sáng hồng phớt tỏa xuống đầu y trong ban đêm kia, lan ra cả tới chỗ tôi nằm, nhẹ rủ xuống người tôi, xuống trán tôi.
Trong những lúc tối tăm yên lặng này, không phải chỉ mình tôi mà cả mẹ tôi và bác tôi cũng thức khuya như tôi. Nằm bên tôi, mẹ tôi quay mặt vào tường. Trời mới lành lạnh, mẹ tôi đã trải đệm và ủ kín chân trong chăn dạ mà luôn luôn tôi phải đùn về bên mẹ tôi. Không như nhiều người bệnh tật đau đớn hay rên riết lúc trở rét này, mẹ tôi có khó chịu lắm mới thở dài một cái khẽ rồi tự đấm lấy nhẹ lên đùi cho khuây khỏa sự tê dại một ngày một nghiến rứt, tiến lên phía trên người mình. Bác tôi thì hoặc ngồi viên thuốc, hoặc cạo tán cắt nhỏ các vị chưa bào chế ra để mai làm. Từ ngày bác tôi hoàn toàn không còn trông thấy gì nữa, bác tôi mới cất nhắc đến những việc này. Vừa phần đỡ buồn, vừa phần làm những thuốc vặt ấy cũng kiếm tuy không được như những ông lang chuyên nghiệp, những cũng luôn luôn lúc dăm hào, lúc một đồng, tiền đó để thêm vào tiền rượu mà bác tôi lại trở lại bữa sáng và thêm bữa trưa và khi mát trời, chốc chốc lại một vài chén.
Hai cái bóng người gần tôi này tuy có cử động nhưng tôi không thể nào không thấy rằng nó vẫn im lìm lẫn lộn với bóng tối. Người ngoài bảy mươi, người gần sáu mươi, bác tôi và mẹ tôi nếu ban ngày có đứng hẳn lên, đi ra ngoài nắng trông cũng vẫn thảm hại và ghê sợ nữa. Bác tôi nhiều tuổi đã gầy thế mà mẹ tôi còn hốc hác nhăn nheo hơn. Nhiều lúc đấm bóp cho mẹ tôi, tôi đã quên hẳn mẹ tôi chẳng còn tí thịt nào, mạnh tay một chút, thì mẹ tôi xuýt xoa nói như van lơn tôi:
- Nhẹ chứ con! Đầu xương đấy con ạ...
Mặc được cái quần cho mẹ tôi, lau được cái lưng cho mẹ tôi, tôi vã cả mồ hôi ra và khổ sở vô cùng, lại tự hỏi: "Sao người ta lại bị đau đớn, mòn mỏi đến thế được? Và nếu không khỏi thì mẹ tôi còn phải chịu đựng đến bao nhiêu năm nữa?".
Những đêm lạnh lẽo như thế, anh tôi càng đi chơi khuya. Thường thường biền biệt tới trưa hôm sau, chiều hôm sau mới về. Đã hơn một năm, anh tôi thay đổi như thế. C