← Quay lại trang sách

Ngọn Lửa Chương I

An đã ngồi vào bàn giữa nhà. Nhưng đưa mắt nhìn thấy bàn ở góc ngoài cũng vắng, bên cạnh lại có cửa sổ, An liền đổi chỗ. Lần này, An treo lại mũ, ngồi hẳn vào ghế xong thì thấy trong người dễ chịu lắm.

Ánh trời qua khung cửa lờ mờ, hắt hiu. Chiều nay đã sang tháng ba. Nhưng từ hôm qua lại nổi gió lạnh, đêm đến đen thẳm. Suốt đêm vang những tiếng cây cối trút lá xuống đường, những tiếng hun hút của những hàng dây điện, và những tiếng của gió thổi xé ra. Sáng ra, hàng phở, cà phê, bánh cuốn nào cũng kín khách. Nắng chỉ hoe vàng một lúc hồi mười giờ, rồi mây trời lại thấp xuống nữa, xám ngắt.

- Kìa bồi!

Mặc dầu người chủ ngồi trên chiếc ghế cao quầy tiền quay hẳn vào phía trong bếp giục người làm xem khách ăn gì, An cũng chưa gọi món ăn. An muốn họ đừng hỏi, đừng dọn bàn vội, cứ để An ngồi uống nước một lúc và nhìn chung quanh ăn uống cũng được. Ừ, một mình một cái bàn nhỏ, lùi vào góc cửa này, kẻ ra người vào như không biết mình, An ăn uống cũng như suy nghĩ sẽ được thoải mái hơn trong lúc chiều trở rét mà An thèm những hình ảnh, những nỗi niềm còn hơn miếng ăn vậy.

Trước đây, ngày còn đi dạy học, tan lớp chiều, An thường đi bộ hàng giờ rồi mới về ăn cơm. An đi như một con ngựa quen đường, như một tình nhân quen hẹn, An ra đi từ phố Cầu Đất xuống đường sông Lấp, rẽ ra đường Cát Dài, tạt sang Trại Cau, thẳng lên Tám Gian, ra Sáu Kho, rồi lại trở về đường Cát nơi An ở trường ra. Cả cái trung tâm Hải Phòng mà An ở lâu nhất ấy đã mở ra trước mắt An như một cuốn phim có tất cả những quãng dĩ vãng của An và có những tiếng như là tiếng hát ru của người chị, người mẹ.

Tâm trí An rợp rờn như đôi cánh trắng chim bể bay ngoài khơi xanh. An bước đi mà như không biết cả mình đương đi. An không thấy gì ở chung quanh nữa. Những xe cộ; những tốp thợ; những đám gồng gánh; những lũ học trò; những người con gái phu hồ, phu Sáu Kho; những đàn bò sữa húc nhau rối loạn cả đường dưới chiếc gậy song của người chăn Ấn Độ sạm và gầy như một cành củi, đánh bình bịch túi bụi; những đứa bé kiếm củi, kiếm đồ ở các bãi rác về lấm lem; những hàng cơm gánh tong tả đón thợ thuyền phu phen về tầm. Và mùi khói than, mùi ét săng, mùi dầu mỡ, tiếng máy chạy, tiếng xe rú ga, tiếng xẻng cuốc... khét lẹt, choáng lộng, bụi mù. Tất cả chỉ còn là một làn thấp thoáng ở trước mắt An và trong cảm giác của An...

Những phút này An quý vô ngần.

Việc đọc sách cũng mang lại cho An một sự lắng chìm như thế nhưng không được lâu. Đây, những bước chân càng dẻo, đường đi càng xa, bầu trời thế giới suy tưởng càng mở hút ra với thứ ánh sáng trắng bạc, An càng thấm thía. An thấy tâm hồn mình vẫn còn cất được lên trên những vùi dập của cuộc đời đã khiến bao kẻ vì lầm than quá nên đọa vào một cảnh đêm tối thật là sâu thẳm của sự rời rã, chán ngán, khiến nhiều người đã mất trí, đã thành điên.

An có một người chú: Chú Minh. Chú Minh làm ở nhà máy Xi măng. Tuy không biết chữ, nhưng chú Minh có thể đọc ngược cả Truyện Kiều và dẫn từng điển tích một. Truyện Tam quốc thì chú Minh kể còn rõ hơn cả người đọc sách. Chú Minh làm thợ từ năm mười tám. Năm ba nhăm tuổi, chú Minh đau mắt rồi mù, phải thôi việc. Sở không cho đồng nào cả. Từ ngày chồng mất việc và mắt mũi chịu sự đau xót ấy, thím Minh ngoài hai buổi đi chợ vã gạo Quán Toan, tối về còn gánh nước thuê để kiếm thêm nuôi lũ con nhỏ. Thím Minh chuyên gánh nước cho các nhà vợ xếp, vợ súbadăng. Mỗi chục nước được tám xu. Tối nào được bọn du côn du kề và đầy tớ những nhà giàu có thương hại cho lấy sau lượt chúng nó thì được mươi lăm gánh. Thường thường gần gà gáy thím Minh mới đi ngủ rồi dậy đi chợ; hôm nào muộn lắm là tảng sáng.

Một hôm không hiểu tiền nước nhầm lẫn thế nào mà thím Minh quẩy gánh về nhà khóc. Mụ xếp lấy nước tháng của thím Minh bảo thím tính gian nên tháng hai đồng, chiết hẳn đi một đồng. Kỳ gạo lứa thiếu tiền trả. Thím Minh lại phải đi vay và phải gánh nước cả buổi trưa lúc mua được gạo về. Trưa nắng, máy bớt người lấy nước, cố quẩy dăm gánh để lấy tiền giả góp. Thím Minh bị cảm, nhà lo chạy thuốc thang, cúng bái hàng tuần, bệnh tình chỉ càng nặng. Thím Minh chết. Thế là cái gái lớn phải chạy gạo cho nhà. Nó cũng theo các bà bạn của mẹ đi chợ gạo gánh vã ở Quán Toan. Nhưng nó không phải gánh nước. Thằng Mạnh thay mẹ, đổ nước cho các nhà quen.

Sau ba ngày cúng cơm thím Minh, chú Minh đâm lẩn thẩn. Cả ngày ngồi bên ang nước, cứ múc nước từ ang ra cái vại vỡ đếm, rồi lại múc nước từ cái vại vỡ đổ vào. Thoạt tiên còn múc ban ngày và ngày múc ngày không. Sau chú Minh múc cả đêm. Chú Minh thức múc và rì rầm tính toán cho tới gà gáy mới đi ngủ, rồi chưa tảng sáng đã lại vừa múc vừa tính toán rầm rì. Không còn thấy chú Minh kể truyện Kiều, truyện Tam quốc nữa. Hình như chú lú hẳn. Có ai đến chơi, nhắc đến, thì chú ngẩn mặt ra hồi lâu rồi nhíu nhíu trán lại, tay vỗ vỗ lên đầu đoạn cười và lại quay vào trong ang múc nước.

"Đời An có thể xảy ra như thế được không? Con người ta có thể sống mãi cuộc đời như thế này không?".

- Thưa ông sắp xong... - Người bồi chạy đến.

An cúi xuống bàn, bàng hoàng. Bao nhiêu thứ la liệt dưới mắt An. Ba đĩa to, một bầy rau diếp, rau thơm, một bầy chuối xanh, hành hoa, gừng, hẹ, quéo, khế, và một đĩa đợi món ăn chính đưa lên. Năm đĩa nhỏ, nào su hào, tỏi, cà rốt dầm dấm, lạc rang, cà cuống băm và mắm tôm. Chưa kể những bát con đựng nước chấm, những lọ nước mắm muối tiêu và những đĩa son thìa sứ, khăn tay, giấy lau... An phải nhích ghế ra lấy chỗ cho người bồi bầy biện. Sau một lúc chờ đợi mà An chưa bao giờ thấy lích kích lâu đến thế, An để người bồi bầy thêm đồ vật nữa là cái lọ đựng tăm, thì cười và hỏi:

- Còn những gì nữa bác?

- Dạ!... Thưa còn bánh đa và chả đương nướng. Trong bếp gọi lấy rồi.

An gật đầu cười. Người nọ đi khỏi, sang phục dịch bàn khác, An ngẩng mặt lên, đưa mắt đọc lại lần nữa những dòng chữ viết trên những tấm giấy xanh, đỏ và những miếng gương nổi bật trên tường:

Nem chua                 10 cái                     0đ60

Nem nướng               10 cái                     0,60

Chả rán                     10 cái                     1,50

Thang bát nhỏ                                        0,30

Thang bát to                                            0,40

Có một cái gì kẹt lấy thái dương An làm não cân An buốt lọng. Trong người An nóng và run run. An gạt tay ngang trán:

- Lại còn tiền cho bồi theo cái lệ lịch sự nữa. Hai chục chả 1,20 cả gia vị 1,40; thêm bát thang 0,40 là 1,80, và thêm 0,20 cho bồi... đúng 2,00... Hai đồng!

Ở dãy bàn trước mặt An, tiếng cười nói vẫn ran ran. Bọn này gồm có bốn gã và ba ả vào ăn trước, An không hiểu từ bao lâu. Bồi bàn đã phải dọn đi lần thứ hai từng chồng bát đĩa rếch và từng khay vỏ lạc, cuộng rau, tàn thuốc lá, thịt hành vương vãi. Vậy mà thức ăn vẫn còn gọi lấy thêm. Nem chua, chả rán, nem nướng, rượu vang... vẫn ùn ùn bưng đến.

Không phải nhìn giấy căn cước, An cũng biết đó là tụi con của mấy hãng buôn lớn và tụi gái nhảy Thượng Hải. Chúng đến Hải Phòng chuyến tầu Phượng hoàng hay chuyến tàu Năm sao tuần trước, sang đây để trốn tránh cuộc chiến đấu với xâm lược Nhật đương tàn sát đất nước và đồng bào của chúng mà hưởng thêm với một giá rất rẻ những khoái lạc mới ở một đất xa lạ, làm ăn chật vật, đồng tiền khan hiếm, trong khi tiền lãi của cha mẹ chúng và phần gia tài của chúng cứ một giờ một chất thêm vào các nhà băng Anh, Mỹ mà chúng không biết tiêu đến đời nào và tiêu như thế nào để chỉ hết một phần trăm số lãi.

Tiếng chúng nói rít rít như tiếng chim, pha tiếng Anh, giọng mơn ra rất nũng nịu, khác hẳn cái giọng khàn khàn, chắc nịch hay ồ ồ ôm ôm của những người Hoa kiều lam lũ rất quen thuộc của các bến tàu, các khu thợ thuyền và xóm nghèo Hải Phòng. Bọn chúng, trai như gái, da dẻ đều trắng hồng. Toàn thân sực nức những nước hoa, phấn sáp, dầu chải tóc, sản phẩm cực hảo hạng của Pháp, đặc biệt bán ở một hiệu kim hoàn nọ chuyên cung cấp cho bọn quan lại và các chủ sở. Chúng chỉ cần chải chuốt qua với những thứ nọ khi đi đường, cũng đủ làm xung quanh thấy ngay đó là những bậc thượng lưu của một xã hội mà ngoài chúng ra không thể ai có được. Toàn thân chúng là vàng. Vàng đeo như quấn đến khuỷu tay, vàng như vòng hoa ở cổ. Vàng thành xúc xích đồng hồ, thắt lưng, cúc áo sơ mi... Những ánh vàng còn lồng thêm ánh ngọc và ánh kim cương chói rực. Chỗ nào không có vàng thì là cẩm châu, sa tanh, lụa rất mỏng, rất nõn trên những đường nét của thân hình ba ả gái nhảy gần như lõa thể, từ nét mặt đến dáng người, ai vụng nhận xét đến đâu cũng chỉ dám bảo các ả nọ đến hai mươi tuổi là cùng.

Thế là An lại quay ra bàn ngoài. Cái bàn này An cũng đã hết sức tránh nhìn từ khi vào chỗ ngồi. Bọn ăn nọ chỉ có ba người nhưng lại còn ầm ĩ hơn. Bọn chúng cũng đầu chải nhẫy, trán bóng nhờn, mặt bự những nét bợm bãi, phè phỡn nhưng những sự quái gở nó đâm vào mặt An và tâm trí An còn gai góc và nóng bỏng gấp bội. Vì đó là người cùng tiếng nói với An, hơn nữa, cái giọng ăn chơi và những tiếng lóng của chúng với những điệu bộ rất riêng biệt của chúng, An đã thuộc quá rồi, chúng đều có tuổi, có kẻ tóc đã hoa râm, để ria mép. Quần cộc đũi, áo sơ mi cộc tay, giầy da mũi nhọn như giầy đàn bà, bít tất dài, cũng đồng hồ vàng, lập lắc vàng, nhẫn vàng, tất cả đều quá khổ. Kè kè bên chỗ ngồi của chúng những cặp da to phình, úp những mũ dạ mỏng gần như lụa.

Chúng không ở các nhà Pháp - Hoa ngân hàng, Anh Hoa ngân hàng, thì cũng ở hãng Đầu ngựa, công ty than đá, hay từ các bàn "trạc sếch", "tài sửu" ở khách sạn Đại Á đi ra với những cuộn giấy bạc mới thơm phưng phức nằm trong các cặp kia. Đó là những tiền hoa hồng, tiền trúng những tiếng bạc lớn mà một người thường có thể ngất đi nếu bỗng được. Chắc chắn chốc nữa An sẽ gặp chúng nằm ườn ra trên những chiếc ôtô tối tân của Mỹ, mui bỏ xuống, phóng chết thôi trên đường Đồ Sơn, chờ đêm khuya thì quay về đổ chúng xuống những nhà cô đầu tiệc rượu sẵn sàng ở Cánh gà, ở quán Bà Mau, trống, phiện cho tới sáng. Hoặc chán hát Cánh gà, quán Bà Mau quá rồi, thì chúng đến những Xănggaiba, ôten Pari để ném tiền cho những khay rượu, những hộp thuốc lá, những giờ tiếp chuyện có gái Thượng Hải, đầm lai ngồi uống một ly rượu, hút một điếu thuốc lá, rồi nhảy, một giờ nhảy thôi món tiền đi chơi suông khai vị cho buổi tối vứt đi ấy cũng đủ cho một gia đình nhà quê nghèo hay thợ thuyền thất nghiệp được ăn no cơm cả tháng.

Chính bọn này và bè lũ của chúng đã làm nhục và sẽ còn làm nhục bao nhiêu con người lương thiện đây. Và bao nhiêu cái hay, cái đẹp, cái tử tế, cái dở, cái xấu, cái đạo đức, quyết định trong lúc này đây!

Một câu nói của người bạn lại nhắc bên tai An, An thở mạnh một cái, cúi nhìn xuống bàn mình. Nhưng An vẫn không thể dứt được những cảm tưởng gai góc và tức chói. An đăm đắm nhìn những ngọn rau xanh tươi nổi bồng lên trên men sứ trắng. An càng thấy một sự nặng nề sắp trĩu xuống người An mà An phải chuyển hết tâm lực để giữ cho tư tưởng khỏi hoa lên và để An khỏi vùng dậy, bỏ chạy đi trước sự ngạc nhiên lạ lùng của xung quanh, cho đó chỉ có thể là cử động của kẻ phát rồ.

Người bồi đã đến cạnh An. Mùi thịt băm viên ướp hành, hồ tiêu đem nướng tái lừng ngay vào cảm giác An như cái vút của con roi nhỏ sợi. An ngước mắt, chớp chớp trông người bồi lẳng lặng lấy đũa tuốt những viên chả xiên ở những thanh tre đen nhờn ra đĩa. Nhìn mắt An lấp lánh trên những giọt mỡ vàng loáng khắp lòng đĩa, người bồi đẩy đĩa đến sát tay An, lễ phép nói:

- Ông xơi ạ, ông lấy thêm nữa?

An như không nghe thấy gì và như không phải tự mình cử động, gật đầu:

- Quạt một chục gắp nữa, lấy thêm hành tươi và giấm tỏi.

Một lá và một ngồng xà lách nằm gọn vào trong lòng bát dưới mắt An. Luôn một chập, những húng quế, xương xông, rau mùi đặt thêm lên trên. Quay sang đĩa bên: chuối xanh, gừng, quéo, hành, củ cải, cà rốt, tỏi, một thìa giấm bỗng giội lên sau khi viên chả đặt vào giữa những ngọn rau và những thứ gia vị ôm ấp nhau đầy lòng bát.

An và nhanh một miếng, mặt nhăn lại.

Không! An không uống rượu, nhưng từ đầu lưỡi đến dạ dày An, một cái cay, nóng, choáng váng rực lên. Vừa nuốt xong miếng này, An lại gắp liên tiếp những ngọn rau, những hành, khế và chả: An lại và, lại nhai, lại ghê cả hai góc miệng trong những vị ngọt mà cay mà chát, mà rôn rốt, tê tê của thức ăn.

Chợt An quay lại. Một cánh cửa kính ở sau lưng An hé ra lúc nào không biết. Gió thổi vào hun hút những bóng mờ tấp nập ở bên ngoài, giờ để ý đến, An mới thấy cái lạnh qua gáy An thấm như nước đá. An toan khép cửa nhưng thoáng nghĩ An lại kéo ghế sát vào hẳn góc tường, mặc gió và ánh chiều tràn vào thành một thanh âm hiu hiu, bạc mờ, mỏng tan như hơi sương dưới mắt An.

- Đêm nay lại được đọc sách khuya đây. Đọc cho đến sáng cũng không mệt.

Theo liền với câu nói thì thầm trong tâm trí An, cả một trận gió ào ào nổi lên. An thấy An lại đi trong những tiếng vang của gió cuốn trên hè xi măng và đường nhựa... An lại ngồi trước ánh đèn với cái bóng của mình thiêm thiếp trên tường... An lại như mọi đêm được cái vui thấy mình vẫn còn trằn trọc vì sự tìm hiểu cho thật rõ, thật đúng sự sống quanh mình, để thêm tin tưởng ở cuộc đời mà An dù điêu đứng đến thế nào cũng không thể rời bỏ. Nhất là, sau những lúc bơ vơ, thiếu thốn, với những giờ phút suy nghĩ này, An lại thấy hy vọng càng mở ra, đánh tan đi những sự đau đớn, chán nản cứ chực làm cho tinh thần An rời rã. An lại thêm bao nhiêu yêu thương sự sống với những người lành mạnh, chân thực, đói khổ, tất cả đã góp một phần nhiều nhất của sinh lực mình cho cuộc đời nhưng lại được ít nhất những no ấm, êm vui, sáng sủa, những con người bị bao nhiêu bất công và tàn bạo vùi dập nhưng vẫn dẻo dai bước trên đường đời như họ được trông hẳn thấy tương lai hạnh phúc sắp nở ra...

Những gì thế?

Những gì thế?

Lại những tưởng gượng gì mà có những luồng gió cuốn lá đường xào xạc, những bờ hè vang tiếng bước chân và ánh đèn soi một bóng đầu thao thức, rồi những nhịp thở của một lồng ngực nặng những rung động? Và những ai kia là những kẻ không biết tên, không được tính tuổi, đem cả một kiếp người làm việc mà lại bị vùi dập trong đau khổ nhưng vẫn cứ vui, cứ tin và nhìn thẳng vào tương lai?

Tâm trí An rung lên. An đã múc thìa nước chấm chỉ còn việc đổ vào bát sẵn sàng rau và chả nướng nhưng phải ngừng tay lại. Cánh tay An như tê đi, An để rơi phịch xuống bàn. Mắt An sáng lên, ngước nhìn. Một khổ mặt xương xương hiện ra, nhìn lại An. Hắn. Vẫn cái nhìn long lanh của hai mắt quầng thâm ánh lên một cái gì như hút thấy sự sống. Hắn. Vẫn đôi gò má và khổ mặt bóp lại, miệng vẩu ra, quai hàm bành bạnh. Hắn lại cười với An, cái cười thẫn thờ, ngơ ngác, cái cười bề ngoài của những xót xa đau tủi mỗi khi sắp tràn ra thì bị giữ ngay lại ở cặp môi hơi nhếch như một nét khía.

Lắc đầu, An thở dội một tiếng.

Hai con mắt sâu và cái cười xót xa kia lại xoáy vào trí tưởng An như một đường sáng của một đêm tuyết mênh mông. An tưởng nhớ đến bao lần An trông theo hắn và nghe hắn đi những bước chậm yếu ở giữa ngực An. An lại thấy đôi giầy vải đen khía mũi và vá gót của hắn. An lại thấy cái áo chùng thâm của hắn bạc phếch, khuỷu tay, bả vai đều chắp vá. An lại thấy mũ lợp vải vàng vàng rất to mà hắn cứ đội lù lù cả những lúc râm trời và ban đêm.

- Giang!

An chớp chớp mắt đưa tay day day trán:

- Giang ơi! Giang ơi! Giờ mày làm gì, mày ở đâu?

Tiếng cuối cùng trên đây vừa dứt, cái khổ mặt và thân hình của hắn vụt biến đi. Trong tâm tưởng An không còn những luồng gió lạnh dịu như ban nãy, mà ào lên một cơn lốc đen kịt và những tiếng loảng xoảng như những cùm xích bị giày đạp. Giữa những luồng gió thăm thẳm tỏa ra mịt mùng ấy, cơ man những bóng người tràn bước trong đó thấp thoáng như có những tiếng đáp dội lên:

- Giang đây! Giang đây! An ơi!