Chương IV
... An choáng váng đứng lên. Mặc người bồi nhớn nhác, chạy lại, An bước vội đến quầy tiền. An nhìn người chủ. An không nói năng gì cả, tay rút ví. Chỉ cần nghe người này dứt tiếng "đồng ba", An xỉa cả đồng rưỡi cho y rồi chụp mũ lên đầu, đưa mắt cho người bồi lấy chỗ tiền thừa. An đi ra, bỏ lại cánh cửa bật mạnh đánh sầm và rung rất lâu.
Nước mắt An ứa ra. Không phải những giọt nước mắt chảy ròng ròng của Giang đã khóc trong đêm ấy, mà là một làn lạnh lạnh dâng lên trong lòng An với những cảm giác nhức nhối ở khóe mắt và nghẹn ngào ở cổ họng. Môi mím lại, An cúi mặt xuống, không rẽ về nhà, mặc bước chân đi.
Giang! Đây là tất cả những gì về Giang mà An được biết. Từ bấy tới nay đã năm năm. Hai người không một lần gặp nhau. Riêng An, An không được một tin tức gì của Giang tuy An đã hết sức tìm. Đã bao lần, những dáng người bé nhỏ, lom khom, những áo chùng thâm dán lấy ngực và những mũ trắng vành to... đã làm An chạy theo gọi giật giọng: "Giang ơi! Giang ơi!". Nhưng sau những lúc trống ngực An đập dồn dập và mặt mày An bàng hoàng ấy, An lại bị một sự tê tái thắt lấy tâm trí. Cái gương mặt xanh xao, hai con mắt lờ đờ của Giang hồi hiện lên không những không mờ nhạt mà còn sắc nét hơn, đậm vẻ hơn, như thật rành rành ở trước mắt An, lưu luyến mê say để rồi biến hẳn đi.
An đau đớn.
An thấy tên Giang càng ghi thêm những trang nhật ký của An thì sự đau đớn càng thêm sâu sắc. Cái buồn mênh mông của thương nhớ càng day dứt An như một lời nguyền, một câu hò hẹn.
Trời gần đen hẳn. Cái nặng nề của khoảng không gian thấp và hẹp hạ nữa xuống mặt đất. Giờ cảnh huyên náo ngùn ngụt đã ngập tràn mọi ngả.
Qua khỏi một cái ngõ nhà cửa dựng lên như hai bức tường lởm chởm, An đến ngã ba vườn hoa Đưa người. Một lần nữa An bị vây bọc giữa những đám xô đẩy, chen lấn ồn ào và hôi hám. Mũi giầy An chốc chốc lại vấp phải một gánh hàng, một bánh xe, một gót chân mà người ta chẳng kêu và cũng chẳng nhìn An. An cố tránh mà cứ bị mấy mụ "Đưa người" réo gọi. Chúng đứng hẳn lên giữa những người đàn bà, trẻ con, xơ xác, hốc hác, ngồi rũ rượi ở cả bờ hè. An phải tránh nốt mấy đứa trẻ nhem nhuốc chúng đang ăn uống với nhau chung quanh một ống bơ bốc khói nghi ngút trên bếp bắc những hòn gạch, nhưng thoáng thấy bóng An, chúng nó cũng bỏ cả ăn chạy bíu lấy An, chằng chằng xin tiền. Đi xa rồi, An mới dám mở bao thuốc lá ra đánh diêm châm.
Một luồng gió lạnh chợt thổi về phía An với những tiếng rào rạt, lách bách. Nước sông Lấp đã lên. Lượt đất bùn đen nhầy nhụa và lổn nhổn những rác bị chìm đi. Kè đá còn sót mấy bực trở nên sạch sẽ tưởng như đây không còn là chỗ để tiêu những nước bẩn của thành phố mà để trông trăng hóng gió. Và những thuyền, những siệng, những xà lan xộc xệch, những đống gạch đá, gỗ sắt ngổn ngang, những mái nhà lềnh bềnh che phên mục nát... cảnh vật trông lạ và đẹp như một bến nước nào nổi tiếng của Trung Quốc hay phương Tây kêu gọi. Đầu óc An lại nhẹ dần đi, man mác. An thẳng xuống con đường Lán bè rồi đi lên cái cầu quay có đường xe lửa chạy qua. Trên cao đây, gió thổi mạnh nữa, tóc An bay xõa ra đón lấy cái mát rượi của khoảng sông rộng.
Từ đằng xa, tiếng ồn ào lọc đi chỉ còn những vang vang mờ mờ và nhịp nhàng. Trông ra xa, ở hai bên sông, An chỉ thấy những cử động im lìm của người và vật. Những bánh xe chuyển từ từ qua mặt đường đất đỏ của khu Sở dầu. Những dáng người thấp thoáng trên những mui thuyền. Những bước chậm chạp của một đàn bò bụng đã căng phình đi trước hai con mắt lờ đờ của người da đen quấn khăn lù lù. Quá ngoài kia, dải cát nâu tím chạy dài liền với cánh đồng xanh mướt và dòng sông đục lờ nổi những đám bọt trắng. Rồi một vùng như sương khói hòa với ánh trăng tỏa ra bát ngát. Chân trời ở đó.
- Đến bao giờ?
Tâm trí An bỗng bừng lên như có một ngọn lửa thổi vào cùng với những tiếng trên đây. An cau mày lại nhìn khinh không.
Sự tê dại trong lòng An càng chặt hơn. An lại nghĩ những chuyện An phải viết. An lại nghĩ đến tập sách An phải có. Tập sách phải dầy lắm. Tập sách bắt đầu lạicủa An.
Đêm nay đây, mặc dầu những dòng chữ lại run run nghẹn nghẹn chăng nữa, An cũng phải cố mà đưa ngòi bút đi. Chỉ một trang đầu thôi. Rồi thế nào cái sức lôi cuốn âm thầm trong tâm hồn An cũng lại vùng dậy, khiến An thừa đủ hăng hái để làm cái công việc bỏ dở qua bao năm ngại ngùng, lo sợ, chán nản. Không thể vì lẽ gì An nghỉ lâu hơn nữa! Không thể nào An cứ để sự xâu xé ở trong người An còn kéo dài thêm trong khi An chỉ cần ngồi xuống cái ghế thân thuộc, sau một lúc yên lặng, cầm bút viết và viết, là có thể dập tắt được.
Viết! An sao lại không biết rằng rất nhiều kẻ cũng viết như An đã quằn quại không thể chết ngay được trên giường bệnh vì tưởng đến trước kia sao mình không chịu viết, sao đã không chịu như người mẹ có mang phải qua một cơn đau xé ruột với đủ cả những vui mừng, hy vọng và hờn oán, ghê khiếp khốc liệt, để cho cái mầm sống trong mình được thoát ra ngoài, thành một cuộc đời khác, cuộc đời thứ hai tiếp nối của mình giữa loài người mà mình yêu dấu? Và An sao quên được đã hơn một lần, An chẳng chút do dự đã viết rất sung sướng, rất tin tưởng trong một buổi đầy bỡ ngỡ, vụng về?
Cái truyện đầu tiên của An!
Cái tác phẩm ngắn ngủi bắt đầu một đời văn chương của An mà An thấy rõ ràng An đã chịu một định mệnh.
Năm ấy An thôi học được một năm. Một tối khuya, An đang đọc sách bên cái bàn kê sát giường người chị, bỗng giật mình vì một giọng nói khàn khàn cất lên đột ngột ở đằng trước:
- Thế nào có trả tôi không thì bảo.
Cả chị An cũng choáng nhìn lên, mặt xám hẳn đi. An và chị cùng run run nhìn người đàn bà nọ cao và gầy mất sắc, hiện ra giữa nhà: Bê. Mụ Bê là vợ lão đốc công ngoài Sáu Kho. Cả xóm này ai không thuê nhà thì cũng phải vay mượn, mua chịu bán đựng của mụ. Cái nhà gác độc nhất ánh đèn sáng rực cả ra đường sừng sững như một gác chuông, một lô cốt ở giữa xóm kia là nhà mụ. Tầng dưới mở cửa hàng, tầng trên thờ điện mà cả trên phố, những bà tham, bà hàn, bà đốc cũng phải xuống đây hầu bóng.
- Bác gái này! Bác không muốn trả tôi thì cũng nên bảo dứt cho tôi một câu để người nhà tôi chúng nó khỏi làm bác bận tâm. Có phải không bác?
Tới câu trên đây thì như một kẻ đóng kịch, mụ Bê đổi ngay giọng rất ôn tồn mát mẻ. Nói đoạn mụ bặt đi như không muốn nói gì nữa, thiết gì nữa.
An còn đương bồi hồi chờ người chị trả nhời ra sao thì đứa cháu mới đẻ của An lại khóc. Trước còn nheo nheo, dần dần to hơn, sau biến hẳn thành tiếng gào của một cơn đau cắn rứt. Như mọi khi, người mẹ thế nào cũng ru vang cả nhà cho con nín với cái núm vú ấn vội vào miệng nó. Giờ đây, chị An chỉ vỗ vỗ rung rung nó.
Không hợp với thói quen, đứa bé càng khóc, càng giẫy giụa. Nó vẫn khóc thế, đứa bé này tuy bụ bẫm rạng rũa khác hẳn những anh, chị nó lúc còn bé, nhưng ít lâu nay, An không khỏi khổ sở cho người chị vì sự thay đổi của nó. Sau mấy hôm dạo tháng trước nóng sốt và chê vú, cái thằng củ khoai ấy khóc luôn. Trở giời nó ngạt mũi một tí cũng khóc. Đương ẵm nó, mà đặt nó nằm nó cũng khóc.
Hai cái vú chảy xệ và bèo nhèo kia đã từng hứng lấy nước mắt của người mẹ, mỗi khi đứa con đương nhằn nhằn bỗng rứt ra rồi ưỡn người, khóc lặng đi, dỗ thế nào cũng không được. Khi ấy người mẹ đành phải chờ nó lả ra và lúc đó sữa đã xuống thêm được một tí, mới dám cho nó bú lại.
Sau một giây yên lặng, mụ Bê trở lại cái giọng dằn ra từng nhời:
- Đấy bác thử nghĩ mà xem, con bác nó nhay bác, làm bác rát ruột thế nào, thì tôi chạy vạy đồng tiền cho bác vay mượn đong bán mà bác đã không trả đỡ lại còn nợ chồng nợ chất thêm vào, cũng làm tôi rát ruột như thế. Hơn trăm bạc của tôi rồi còn gì?
Cả An và chị An lại choàng lên. Chị An ngẩng mặt vội rứt phựt núm vú nhằn nhằn trong miệng đứa bé. Chị An nói gần như đứt hơi:
- Thưa bà... Thưa bà... hơn một trăm bạc rồi cơ ạ?
Mụ Bê cười nhạt:
- Chứ còn gì nữa. Sáu tháng nhà chịu từ tháng ba đến giờ này, mỗi tháng ba đồng vị chi đi mười tám đồng, tôi chỉ lấy tiền nhà không mà không lấy thêm lãi lời gì cả nhé!
Chị An toan hỏi:
- Thưa bà thế thì bảy đồng tiền góp bà chỉ tính là tiền lãi thôi à?
Mụ Bê tính tiếp:
- Ba mươi sáu đồng tiền bác vay tôi đi chợ tôi cũng chỉ tính thành bốn mươi đồng. Ấy là tôi lấy có ba phân thôi.
Trong người chị An càng run bắn lên, chị lại thầm kêu:
- Giời đất thiên địa ơi! Tiền sáu tạ gạo, mỗi tạ có sáu đồng đã tính lên bảy đồng giờ lại thêm mười đồng lãi nữa.
Mụ Bê tính tiếp:
- Còn năm chục bạc tiền mua đồ lễ chủ cho bác ấy vào làm, tôi cũng chỉ lấy vốn là năm mươi đồng thôi.
Chị An nói gần như nức nở:
- Thưa bà hai chai sâm banh và hai hộp bích quy bà giúp nhà cháu lễ chủ bà tính năm mươi đồng ạ?
Mụ Bê cười nhạt:
- Nhà tôi có phải nhà bán rượu, bán bánh đâu. Tôi mua để các bà trên phố hầu thánh và để ông đốc nhà tôi chợt đến thì dùng, thương tình bác thì tôi mới để lại cho cái giá ấy!
An đã thấy đầu như bốc lửa. Chính những thứ này toàn là của ăn cắp ngoài Sáu Kho mà mụ Bê mua gần như cướp không của các phu phen. Còn khi đi lễ chủ thì mụ bỏ vào cái quả, mình mụ đi xe nhà. Không biết có đến tay chủ hay không? Mà còn ai dám vào tủ rượu của mụ kiểm lại đồ lễ!... An còn đang bừng bừng cả tâm trí, thì mụ Bê lại lau láu liên liến như một vai kịch rất say sưa...
- Tiền của tôi bác đem về đi chợ, bác đong gạo, vợ chồng, con cái, người cửa người nhà ăn uống với nhau, thì bác phải nghĩ chứ. Mà nào một món, một lần. Hết tầng ấy sang tầng khác, từ ngày vợ chồng bác nheo nhếch đến đây tới giờ, có lúc nào cơ nhỡ mà không đến nhà tôi? Đến ngay bố mẹ, anh em ruột thịt nhà bác, có giúp đỡ được như thế không? Và ai có tiền cho vay, lại để bác chịu được như tôi không? Hay vợ chồng bác chán đây, muốn dọn đi chỗ khác để làm ăn cho bốc vác hơn thì cứ bảo thẳng. Phải đấy, ở đây bác giai đã chả thiết đi làm, bác thì không cần buôn bán với tôi, nhà cửa thuê thì lúi xùi, vậy tôi còn giữ vợ chồng bác làm gì? Thôi! Thế thì tiền lương của bác giai đến đầu tháng này phải trả cả tôi, còn những đồ đạc và hai gian nhà đây, bác cho lại tôi để có người nào cần họ thuê...
Chiếc giường gỗ nghiến đánh két một cái vì người đàn bà đứng mạnh dậy. Y vừa bước ra vừa sẽo sượt chào:
- Tôi nói thế là hết cả nhời rồi đấy. Hai bác nghĩ sao cho tôi thì nghĩ. Thôi bác bế cháu, tôi về đây... và chào cậu xem sách.
Đôi dép kéo lẹp xẹp nọ chưa đi khỏi, một đứa con nhớn của chị An đã xoạc miệng ra hư hư:
- Bu ơi bu!... Con đói!
Đứa lớn nhất liền đẩy nó ra và cũng lè nhè:
- Bu ơi bu!
Hai đứa bé khác cũng lại bâu đến xếu mếu, cãi nhau chí chóe. Trong khi ấy thằng bé ẵm trong lòng vẫn khóc rười rượi và mẹ nó thì ngồi lặng đi, nước mắt giàn giụa, chỉ chớp chớp.
Tâm trí An cứ trĩu xuống, bừng lên rồi lại dằn xuống. An không dám nhìn người chị nữa. An thấy thật y như bị một cực hình với tất cả những ê chề chỉ đến lúc chết mới thoát. Mới có bảy năm thôi, y xơ héo đến nỗi mà An không thể tưởng tượng một sự kiệt quệ như vậy ở cái tuổi chưa đầy ba mươi, và có người nào lại xơ héo như y.
Trước kia, ngày cha An còn sống, An và một đứa em giai còn đi học, những đêm khuya, An cũng thường thức với người chị nọ. Không dám phạm đến nhiều cái khoảng sáng của ngọn đèn học hành của em và không dám thấy mình là đàn bà mà hơi hướng ảnh hưởng xấu đến tinh thần em, chị An ngồi lùi mãi vào cuối giường gần bức vách xế bàn An làm việc. Chỗ dãy ánh sáng chỉ còn lờ mờ lẫn với bóng tối. Lưng y khom khom, mắt y chằm chặp vào những mũi kim thoăn thoắt tết những đường chỉ lại trên những tấm màn cửa, khăn bàn, khăn mặt khâu rua thuê. Suốt từ sáng sớm đến bữa ăn trưa, sau bữa cơm trưa đến bữa cơm chiều, rồi từ chập tối đến nửa đêm, bao năm rồi chị An vẫn giữ nguyên cái dáng ngồi ấy và vẻ mặt ấy. Càng chìm sâu trong cái vắng lặng của đêm khuya, vẻ lặng lẽ chịu đựng của nét mặt chị An càng thê thiết nhẫn nhịn. Ngày đó, một ai kia muốn trông y để định tuổi thì phải tưởng rằng y đã có chồng và mấy con rồi. Vì một người con gái hăm hai tuổi đầu sao lại còm cõi, khắc khổ như thế? Vai gù gù, ngực tóp, đầu tóc quần áo chẳng bao giờ được biết mùi xà phòng thơm hay một giọt dầu sả. Nhất là y ở vào cái thời buổi mà hầu hết các con gái đều thấy đau khổ trên hết mọi sự đau khổ, là nếu mình không trẻ, không đẹp, không được trang điểm.
Ngay dạo đó An đã bùi ngùi cho chị. An thấy rồi đây chị An có lấy ai thì vài năm sẽ cũng như mẹ An.
An không phải chờ đợi; người con gái kia đã đi quá xa sự ngạc nhiên của An. Quá cả mẹ An nữa! Y đã thành một hình hài không còn thể gọi là của người; y chỉ còn lại một cơ thể sống để chịu những nặng nhọc dầu dãi và cằn cỗi ở cái đời sống này nếu cứ thế mãi với những thiếu thốn, lầm than dằng dặc, mà con người không thể nào còn gọi được là con người và đời sống còn đáng sống nữa!...
Gỡ tay các cháu ra, An lại phải đi lấy cơm nguội cho hai đứa bé nọ ăn. Chờ người chị dỗ được thằng bé út, An tới gần hỏi:
- Chị tính sao, hơn trăm bạc của nó rồi, lương anh tháng mười đồng, chị đi chợ ngày kiếm được chỉ ba, bốn hào. Nếu không trả được một lúc rồi cứ lãi thành gốc, gốc thành lãi, liệu hết đời có xong nợ không?
Người chị cất tiếng, giọng nói vẫn còn nghẹn ngào:
- Lại việc gì đến cậu nào! Ở trong nhà này, cậu cứ biết cậu đi làm, cậu học thêm và bảo ban trẻ nhỏ thôi...
An cau mày nhìn chị. Với đôi mắt lấp lánh ấy, An muốn tỏ cho y biết rằng An lại không bằng lòng chút nào thái độ của y. Sao y cứ coi An như một người xa xôi, cao quý nào vậy, không đáng bận vì những lo âu hàng ngày mà chỉ có y là phải ngoi ngóp giữ cho người khác được no ấm cả ở trong những cảnh cùng cực nhất.
An phải xẵng tiếng:
- Ừ, hay chị không cần cho tôi dự gì vào những công việc trong nhà thì đến đầu tháng tới tôi thôi việc Sáu Kho, tôi lên Hà Nội làm hay ra Hòn Gai hay đi đâu làm vậy. Tôi không liệu trước mà xin thôi sở đây thì sớm tối cũng bị họ giãn ra, lúc đó không kịp sửa soạn thì càng thêm quẫn.
- Ô hay! Cậu này mới lạ! Tôi không nói với cậu nữa, cậu đi ngủ đi. Nợ thì giả bằng nợ. Không giả cả thì giả nửa. Không giả gốc thì có lãi. Nay không giả được thì ngày mai, ngày kia. Công nợ giả dần cháo húp quanh. Tôi đã bảo mọi việc cậu cứ mặc tôi, giờ cậu xin được việc, cậu cứ yên trí mà học thêm. Đến bước nào mình lựa bước nấy, trong cái thời buổi khó khăn này mình phải cố giữ lấy cái chữ "nhẫn" mới được.
Càng nói giọng người chị càng tha thiết.
- Thôi... tôi đã bảo cậu cứ yên trí, còn mọi sự mặc tôi. Con mẹ nó lồng lên như thế chỉ vì dạo này trứng gà, đỗ, cà chua của nó về nhiều mà tôi lại đi cất hàng của người khác. Nó muốn trừ cả lương nhà tôi. Nó thấy nhà tôi kỳ nào cũng có bảy tám công làm đêm và làm quá tầm. Nó lại muốn cậu dạy cả buổi trưa cho mấy đứa con nó nữa. Được! Tôi cũng phải bóp ruột lại mà đi hàng của nó. Tôi sẽ vay chỗ khác để cho nó trừ cả lương nhà tôi vậy. Còn về cậu, tôi sẽ nói khó với nó rằng cậu phải học đi thi, vậy nó cứ để con nó đi học tạm cậu giáo trong xóm. Tôi nói lót với cậu ta dạy hộ cậu vài tháng. Ổn thỏa ngay đấy mà.
An đã ngồi yên, An không còn biết nói sao trước tất cả mọi cái, mọi nông nỗi mà chị An đã lại nhận phần trút cả lên đầu mình. Trong sự đau đớn cố nén đi, An càng thấy buồn tủi, và nung nấu cả người. An lại không khỏi nghĩ đến sự bấp bênh của An, của cả cái gia đình bé nhỏ lần hồi từng ngày một này.
Bốn hôm sau, quá nửa đêm, An đương ngủ bỗng choàng dậy vì một tiếng đấm giường rất mạnh làm chuyển cả tới bức vách chỗ An. Chị An. Chị An tung tóe cả mấy cái tã và cái chăn ủ cho đứa con bị sốt, chạy lồng ra đường mà ru mà hát... và hát xong thì cười cười rồi hát... rồi khóc. Còn người anh rể An thì ôm chặt lấy thằng bé bị ốm mà kêu nức lên:
- Giời ơi! Sao đời người lại khốn nạn đến thế này? Khổ cực nhiều quá! Tù còn có hạn chứ sống cái cảnh này thì thật là tù đời đời kiếp kiếp! Không thể được! Không thể như thế được!
Từ đấy người đàn bà nọ không còn hay biết gì nữa. Chị An cũng bị mất trí như chú An. Nhưng sau hai năm điên đến mức xé hết cả quần áo, cắn cấu cả con cái thì chị An chết.
... Chuyện chị An là truyện ngắn đầu tiên của An, An định góp với mấy truyện khác để in thành sách.
Những truyện ngắn, bút ký và phóng sự khác, An đã viết liên tiếp trong ba năm, qua những ngày đủ cả mê say, hăm hở, ngại ngùng, chán nản, cố gắng và tuyệt vọng.
Viết! An viết để giải thoát những xâu xé, những dào dạt trong lòng. Để phơi bày những ý tưởng rạo rực tâm hồn. Để tìm cái quên, cái an ủi giữa những đau khổ. An viết để tạo một chỗ đứng thanh tao trên những thấp hèn, ti tiện của cái thế giới đảo lộn bởi đồng tiền và bạo quyền. An viết còn để tìm cho mình một đời sống lâu dài trong tâm hồn mọi người và được yêu thương lại một cách nồng nàn với những mối tình thắm thiết, mênh mông.
Cái ngòi bút hai mươi ba tuổi kia đã viết được những dòng chữ ấy. Với những thương xót yêu dấu đầm đìa ấy, An thấy mình có hẳn một cuộc sống đặc biệt, giàu có lắm, sung sướng lắm, cần phải sống lắm, An đã thấy ý nghĩa của một đời người!...
⚝ ⚝ ⚝
An quay lại đường bờ sông.
Xa kia, trên phố bật đèn cả rồi. Trong cái màn xám đặc, những đốm sáng lấp lánh như ganh nhau chiếu ra xa và gọi đằng xa đến với ánh sáng của mình, những nét mờ ẩn hiện trùng trùng điệp điệp.
An đã thấy lạnh buốt giữa khoảng rộng vắng của dòng sông và của đồng ruộng hoàng hôn vẫn còn ánh mờ. An đóng cả hai cúc áo ngoài lại và kéo cổ áo lên. Gió càng lồng lộng. An phải rảo bước và tới những quãng có nhà, An đi sát vào bên đường.
Chợt An chậm bước. Trong người An bỗng nóng rực lên: An lắc đầu thở dội một cái:
- Lại phải viết rồi!
An nghĩ đến hơn năm nay An đã bỏ dở luôn mấy truyện mà mỗi lần An định viết lại, An càng thấy một sự đau đớn như dần ở trong lòng. An không thể nào viết tiếp được!
Trước kia sự viết đối với An là để cởi mở những xúc động, nhưng nay, còn đâu những yêu thương, những chua xót dễ dàng và mau chóng để An say lên, vồ lấy, hăm hở đưa tràn ra trên mặt giấy? Cũng bao nhiêu ý tưởng làm rạo rực đầu óc An, nhưng để An phơi bày, nó đâu còn có thể như là những hoa lá trang điểm cho một tiệc cưới, một đám ma xong rồi vứt bỏ đi chỗ nào cũng được! Viết lại còn để tìm sự an ủi thì an ủi sao được với những cái vui chẳng thể nào vui được nữa trước những cảnh chua chát, đau xót của cuộc sống một ngày một thấm thía hơn.
An nhận thấy An đương ở trong một cái chết của sự e ngại, buồn nản từ từ thôi, nhưng nếu An không mau chóng cất mình lên, bước theo một tin tưởng mới, thì trạng thái u ám của tâm hồn An sẽ thành vĩnh viễn, An sẽ chết hẳn!
Như những buổi chiều mọi hôm, như buổi chiều này đây, những buổi chiều mãi mãi kia, nếu An không viết được thì thời gian sẽ lại là những giờ lang thang để An thấm thía nghe những dằn xé trong lòng. An sẽ lại về cái nhà trọ vắng vẻ, hoặc gieo mình xuống giường, vùi mình trong giấc ngủ, hoặc lại thao thức với một tinh thần tơi bời, rời rã hơn, hoặc lại cầu cứu đến sự đọc sách sẽ khuây khỏa An được một lúc, rồi An lại chỉ càng thấy rõ cái trống rỗng của dòng ngày tháng của mình.
Viết đi! Viết đi!
Những tiếng ấy càng vang vang trong tâm trí An. An lại nghĩ đến bên cạnh những sự hoài nghi và mệt mỏi của An, hầu hết mọi người vẫn làm việc và làm việc. Nào đâu họ được sung sướng, thỏa mãn? Đâu phải họ không héo hắt? Đâu họ không biết sống thế nào, cuộc đời này thế nào, số phận họ sẽ ra sao? Nhưng quằn quại thêm vì sự thực được nhận định rõ rệt hơn, người ta đâu có hoang mang rồi chẳng tha thiết gì nữa? Và thận trọng trước một ý nghĩa sống khác, đâu phải người ta chùn bước lại? Người ta đâu phải nắm chắc đủ mọi cái thuận tiện tốt đẹp thì mới nên vui và tin, hăng hái vươn tay lên ôm lấy sự sống?
Không!... An phải viết!
Cũng trong tình trạng bi thảm của hiện tại này, cũng với những cảm động này, những ý tưởng sôi nổi của một tâm hồn khao khát vui tươi và rộng rãi, sự sáng tác của An phải là một mạch nước qua tất cả mọi lòng đất cát tràn tưới cho con người.
Địa vị thấp hèn, ti tiện và thanh tao, cao quý ư? Làm sao phân biệt được giữa người với người ở cái cuộc đời quỷ quái này nếu không có một sự chỉ vạch phanh bầy ra trần truồng tất cả mọi tổ chức của cái xã hội bất công nọ? Còn sự sống lâu dài? Viết để sống với ai? Với những tâm hồn nào? Có thể sống như một thứ trùng bệnh ở những xác thịt không còn mong gì khỏe mạnh nảy nở? Còn nước mắt của thương xót nữa. Bao nhiêu thứ nước mắt đã chảy và làm bao nhiêu kẻ khóc theo, nhưng những đau khổ nào có được bớt tối tăm, bớt trầm luân?
Đấy! Sự thực với những trái ngược của những ý nghĩa để An sống và để An viết trước đây; An phải cần nhìn rõ hơn và bước với những bước đi mới cùng chung quanh chiến đấu cho một ngày tươi sáng.
Bước chân An lại nhanh vì sự bừng bừng ở trong người. An đi hẳn ra ngoài đường. Những ý nghĩ dồn dập trong tâm trí An phút lắng lại nhường cho một cảm tưởng bàng hoàng choáng váng.
Sự mê mải trước kia của An mất rồi với tất cả những cái gì đẹp quá để An ru lòng An trong một niềm vui man mác để mọi vật mọi cảnh đều đáng yêu dấu, quyến luyến. Cả những tin tưởng hăm hở của An cũng dần dần bị lấn đi, đến nỗi An thấy nếu An viết nữa thì An sẽ phạm một tội ác vậy. Bởi cái công việc của An chỉ là một thứ công việc hời hợt, ích kỷ, với nó An đã tự lừa dối và lừa dối bao người bằng những danh từ văn hoa, đẹp đẽ làm sai lệch, lầm lẫn cả sự nhìn nhận cuộc đời, gây cho cả mình và chung quanh một cái u mê và ảo huyền giữa những khốn nạn đã không được tìm hiểu, giải thoát mà lại thấy thi vị nữa.
Có ba năm, nhưng với An như đã mấy chục năm dằng dặc khổ sai. Và trong khi người ta thấy An thảnh thơi ấy, An càng bị day dứt bởi thỉnh thoảng chợt nhận ra ở mình những bổn phận của những con người thấy cần phải trông thẳng vào cuộc sống, thấu suốt nó, rồi biến đổi nó để sinh lực của mình được nảy nở.
Ba năm day dứt ấy và đã làm ngày đêm ngòi bút An quằn quại ấy, không thể kéo dài thêm được! Cuộc sống phải được nhìn nhận khác hẳn từ đây. Với An, với ngòi bút của An, tất cả những khó khăn, đau khổ, đen tối phải là những cái phải đẩy lùi dần. Với một tinh thần mới của An, cuộc sống không còn là những cớ để An rên xiết, ủ rũ nữa. Cuộc sống phải là những sự kích thích không ngừng của những tha thiết yêu thương mới, của những chứa chan tin tưởng mới, của sự nỗ lực mới, làm việc trên cái mặt đất mà không còn ai dám thấy mình tàn héo, và, chắc chắn phải thay đổi, xóa bỏ hết những đói khổ, đau xót.
"Hiện tại tối tăm bi thảm là lúc này đây, vượt khỏi là sang tới ngày mai. Mà còn ngày mai là còn tương lai chắc chắn phải rực rỡ vui tươi".
Câu nói của Giang với cái giọng hổn hển nổi lên. An vội ngước mắt trông hút vào bóng tối. Như viết bằng ánh lửa, những lời kia biến thành những chữ sáng rực lên, cháy vằn vèo thoăn thoắt trước mắt An.
Gió vang quá. Đầu An càng buốt lộng. An muốn kêu lên.
Tháng Năm và tháng Chạp, 194