Chương II
Đi khỏi vị trí chỉ một cây số thôi là ngoài tự do rồi. Trước bà cụ Hi ở dốc Thông. Cứ thẳng đường cái đi lên độ nửa ngày đường là tới.
Bà cụ Hi đã ốm hơn một tháng. Đến lượt bà cụ ốm thì nhà phải nghỉ làm hàng hẳn. Ráp đến kỳ tầu bay của giặc khủng bố dữ. Sáng sớm đã bay lên. Tối rồi vẫn còn bắn. Ngày mưa cũng có. Hết đợt nọ đến đợt kia. Có đợt mười hai chiếc. Bốn chiếc đacôta lừ lừ đi đến, bom cứ trút ầm ầm xuống. Rồi bốn chiếc khu trục quần vào mà bắn. Bốn chiếc khu trục nữa bắn chung quanh, mỗi phút một rộng ra, trong một đường vòng hàng hai ba cây số. Quán nhà bà Hi và mấy nhà nữa còn lại ở trên dốc bị bắn nốt. Năm bà cháu bà cụ lại phải vào ở trong ấp.
Bà cụ Hi là bổn đạo gốc, quê ở Nam Định. Bà cụ được mỗi mình bố Hi. Góa chồng từ năm hai mươi hai tuổi, bà cụ vẫn cố thắt lưng buộc bụng, nuôi con ăn học. Bố Hi đã đậu được bằng thành chung. Bố Hi lên Hà Nội, dạy học ở trường nhà Chung mở dưới bãi Phúc Xá. Cũng năm ấy, bố Hi lấy vợ. Mẹ Hi người bên lương, hôm cưới cũng là hôm chịu phép rửa tội. Trước khi lấy bố Hi, mẹ Hi là học trò của bố Hi trong những tháng hè học để thi vào trường Đồng Khánh. Cưới đầu năm thì cuối năm đẻ Hi, con giai đầu lòng. Hai năm nữa được cái Lan. Rồi Tổng khởi nghĩa được sáu tháng, được thêm đứa con gái nữa, cái Huệ, thì bố Hi chết. Anh đã mắc bệnh ho, thuốc thang tẩm bổ hàng năm mà vẫn không chữa được.
Bà cụ Hi tản cư lên Bắc Giang này tất cả là tám nơi. Bà cụ đã ở dốc Thông lâu nhất. Sau trận Tây nhảy dù Việt Bắc, bà cháu cụ đương ở Sơn Tây chạy sang Thái Nguyên rồi từ Thái Nguyên chạy xuống Bắc Giang. Còn được ít tiền, bà cụ lại dọn quán. Chỗ ở sẵn đất. Sau nhà là cả một sườn đồi đất cuốc cứ tơi như bột. Bà cụ vừa gói bánh chưng, bánh nếp bán, vừa vỡ bãi giồng sắn, giồng ngô, chuối. Bà cụ và mẹ Hi đương bàn định xin với Ủy ban xã cấp cho mấy sào ruộng ở sau nhà để cày. Đùng cái, quân Pháp lại mở cuộc tấn công. Chúng nó đánh lên Bắc Ninh, đánh lên Bắc Giang. Những vùng Mỏ Thổ, núi Con Voi đã thành hết vị trí của chúng. Bao nhiêu làng chung quanh đều bị đốt phá tan hoang. Dân lại phải tản cư. Trong ấp bà cụ Hi chạy vào, nửa ấp là đồng bào Công giáo chạy giặc.
Trùm Hai đã luôn luôn đi lại ấp này.
Những tin tức lại càng như lửa đốt dầu. Quân Pháp lại tập trung quân, chỉ nay mai đánh tràn lên cả Thái Nguyên. Chuyến này khủng bố còn gấp trăm. Đặc biệt là phá thóc lúa. Mà thóc lúa đã bị phá tàn, phá hại rồi. Pháp kéo đến đâu sẽ lùa trâu, bò, lừa ngựa cho ăn, cho dẫm nát hết lúa. Rồi lọi được chỗ nào thì dân đấy phải tự tay mình đập cho rụng nốt. Thóc thì cướp. Không đủ người gánh, đổ hết xuống ao, lấp các hố phá hoại, tưới nước vào cho mọc mầm hay tưới ét xăng đốt.
Dân mà chống lại sẽ bị chết đói như những ngày tháng ba năm 45. Không phải chỉ dân chung quanh vị trí. Cả với dân ngoài vùng tự do, chúng cũng khủng bố, tàn phá bằng đủ mọi cách để giết như thế.
Một buổi tối, đọc kinh ở nhà thờ họ về, bà cụ Hi dắt cháu đi qua chỗ Trùm Hai. Hắn đương nói chuyện với một thầy già đến dạy kinh ở ấp.
- Lạy thầy già ạ... Lạy cụ Trùm ạ...
Trùm Hai quay ra, cầm cái quạt vẫy thằng Hi và chào lại bà cụ. Bà cụ còn đương khép khép lại cái vạt áo, lúng túng chưa biết thưa gửi thế nào, Trùm Hai đã nhếch mép cười, sin sít tiếng nói:
- Có người nhà gửi nhời lên thăm bà cụ đấy. Nghe đâu đổi lên Phủ Từ rồi... Bà cụ hôm nào về chơi với cháu chứ?
Bà cụ Hi càng luống cuống. Người thầy già đưa mắt cho Trùm Hai. Trùm Hai liền cười, vẫn những tiếng cười sin sít:
- Trẻ nhà tôi chúng nó vừa mua được một chai con con rượu Chỉ Thống của bà Mụ ở dưới họ Đồng Xá, để chốc nữa tôi bảo chúng nó đưa sang biếu bà cụ một ít... Bà cụ đã khỏi sốt hẳn chưa? Sắp sửa lại ra dọn quán ngoài dốc Thông chứ?
Trùm Hai đi lại ở đấy ít lâu thì không thấy đến nữa. Đồng bào tản cư dần dần về làng và lên vị trí gần vãn. Chỉ còn lại nhà ông cụ Cam và hai nhà, một nhà làm nghề thợ may, một nhà có con cũng đi dạy học, hai nhà nọ không có ruộng nương cày cấy gì cả. Ba giăng đã gặt đoạn cũng sắp bắt tay gặt lúa sớm. Đêm hôm ấy, chờ giăng lên, bà cụ Hi đến giường người con dâu gọi:
- Mẹ Hi kìa, dậy đi chứ, sắp gà gáy rồi.
Chị Hi đương run. Người mẹ chồng lay gọi lần nữa, chị mới mở choàng mắt. Chị hốt hoảng trông chung quanh giây phút sau mới lắng nét mặt lại. Chị thần người ra nhìn chung quanh rồi nhìn người mẹ chồng một lúc lâu. Dần dà mãi chị mới dám nói:
- Mẹ ạ, hay mẹ thử nghĩ lại.
Người mẹ chồng đương đăm đăm bỗng biến sắc mặt. Bà cụ nhìn lại rồi cười nhạt:
- Mợ lại bảo tôi nghĩ thế nào?... Tôi bây giờ thì còn biết nghĩ thế nào?
Bà cụ vứt miếng bã trầu đi, nét mặt càng lạnh:
- Tôi không biết nghĩ mà đã lận đận ba, bốn năm theo kháng chiến, theo Chính phủ...
Người con dâu vội đón lời:
- Thưa mẹ con có dám nói gì đâu!...
- Hừ... Mợ chỉ nói ngần ấy, tôi cũng đủ nghe ra rồi!...
Mồ hôi toát ra. Người con dâu lại thấy tối cả mặt. Chị phải hết sức mà vẫn không giữ được. Người chị cứ run lên, giọng nói cứ bị cắt từng tiếng:
- Thưa mẹ làm sao con không biết!... Bao nhiêu sự gieo neo khổ sở mẹ phải chịu cũng như... như tất cả đồng bào, dân chúng theo kháng chiến... thì Chính phủ cũng đều biết hết... ghi nhớ hết. Nhưng mà chịu như thế là cốt để đi theo kháng chiến cho đến đầu đến đũa, vậy mà giờ vấp phải cái tao này, phải chịu về vị trí quy phục giặc... thì... con thấy...
Người mẹ chồng vẫn lặng nét mặt. Bà cụ không đáp. Bà cụ ngồi im rất lâu mới nói. Giọng bà cụ nói càng nhẹ và ngọt hơn trước:
- Tề cũng năm bảy hạng tề, mà có về thì mẹ con vẫn một lòng với Chính phủ, rồi ra dăm ba tháng, nửa năm, nghe ngóng tình hình lại ra, có sao!...
Không thấy tiếng thu xếp lục cục ở gian bên nữa. Ông cụ Cam kéo một hơi thuốc lào gọi khẽ sang:
- Bà cụ và mợ bên ấy đi được rồi chứ.
- Vâng thưa cụ chờ cháu một tí, cho mẹ cháu nó sửa lại cái địu cho cháu bé.
Người mẹ bỗng quay lại nhìn vào người con dâu cũng vẫn với cái nhìn đi đâu ấy.
- Mẹ xin thề có Chúa trên đầu, mẹ mà tham ăn sung mặc sướng, làm giàu làm có, mà bỏ Chính phủ thì mẹ không còn phải là giống người nữa... Về tề mà mẹ có gặp con gặp cháu, chúng nó làm quận trưởng chứ có làm đến tổng đốc, đại thần, mẹ cũng không ở với chúng nó, dây dướng với chúng nó sợi tơ sợi tóc. Mẹ về là chỉ cốt tránh cho trẻ nhỏ chúng nó đỡ long đong, khổ sở còn về phần mẹ thì Chúa để cho sống ngày nào tự tay mẹ làm, mẹ sống, mẹ nuôi các cháu ngày ấy cho đến ngày được trông thấy nước nhà hoàn toàn độc lập, các cháu nó khôn lớn vẹn toàn... Mẹ chỉ mong có thế...
Mồ hôi càng vã ra. Nhưng trong tâm trí người con dâu có một cái gì như cơn gió mát thoáng qua sau câu nói của người mẹ chồng. Chị chợt nghĩ đến Vinh. Chị sẽ được gặp Vinh. Vinh là em út chị và cũng là người ruột thịt độc nhất còn lại ở bên cạnh chị với ba đứa con. Vinh đương học Trung học bỏ học vào bộ đội ngay từ thời kỳ Tổng khởi nghĩa, đi mặt trận Sơn La. Từ ngày toàn quốc kháng chiến đến giờ, chị nhận tất cả được hai lần tin tức của Vinh. Một bức thư Vinh gửi ngày thắng lớn ở Việt Bắc, và gần đây tin một người bạn Vinh cho biết Vinh đã bị thương và bị bắt trong một trận đánh phục kích trên đường số 18.
Không hiểu sao Vinh không bị giặc giết? Vinh đóng trung đội trưởng. Vinh mới có hai mươi hai tuổi. Trung đội của Vinh được Pháp truyền cho nhau là một tử thù. Người bạn họ còn cho biết thêm Pháp đưa Vinh về Bắc Giang. Vinh nghe đâu ốm yếu lắm vì bị chúng nó tra tấn hết trận này đến trận khác vì dụ dỗ chán mà không được gì.
Người mẹ chồng đã đứng lên. Thằng Hi không biết thức giấc thế nào đã ngồi nhỏm dậy, xớn xác nhìn cái gánh gọn ghẽ ở bên giường và chung quanh nó, màn, chiếu, đồ đạc quang hẳn đi. Nó dụi mắt, giọng ráo hoảnh, gọi giật bà cụ một tiếng:
- Bà ơi!...
Bà cụ đương sắp lại cái rổ bát đĩa. Hi gọi một tiếng nữa rồi nhảy xuống đất:
- Bà ơi! Nhà lại ra dốc Thông bán quà à? Tối thế này cũng ra à?
Bà cụ trấn tĩnh ngay nét mặt:
- Ừ, nhà lại ra dốc Thông đây! Con để bà lau mặt cho tỉnh ngủ rồi đi nào. Mũ đây, con đội vào kẻo sương.
Hi vùng vằng. Bà cụ nắm lấy cánh tay Hi:
- Bà bảo không được à? Để bà lau mặt cho nào! Mà phải đội mũ vào.
Cái mũ vải vành to vừa chụp lên đầu Hi. Hi nhoài ra, ẩy cái mũ ấy đi:
- Con không đội mũ ngụy binh bảo hoàng ấy đâu. Mũ calô của con đâu? Con đội mũ calô có sao vàng của chú Chí cho cơ...
Mặt bà cụ tái hẳn. Bà cụ lặng đi nhìn Hi rồi gọi:
- Hi!... Bà bảo: Mũ calô của con bà cất kỹ vào trong bị rồi, mai đội. Mũ mới thế phải biết giữ gìn chứ.
- Mà cả ảnh cụ Hồ nữa của con đâu? Con thích đeo với cả ảnh Đức Bà và ông Thánh Giuse cơ.
Bà cụ kéo hẳn Hi vào lòng, vỗ vỗ người thằng cháu:
- Cả ảnh cụ Hồ bà cũng cất đi rồi... Bà gói vào chiếc mùi soa mới cất với mũ calô của con ấy.
Hi ngúng nguẩy nâng lên những mẫu ảnh bằng bạc đeo làm một chùm lanh canh ở trước ngực:
- Không!... Cứ đeo hình cụ Hồ cho con... đeo cả với các mẫu ảnh này cơ... - Hi nói đoạn, không biết ngẫm nghĩ thế nào tụt ngay xuống đất, chạy đến cái bị, nhấc hẳn ra định lục.
Bà cụ Hi vội chạy theo, nắm lấy cánh tay Hi:
- Hi! Hư nào. Bà bảo không được đấy phải không?!
Bà cụ Hi đã dắt thằng cháu ra ngoài ngõ. Người con dâu đã vấn xong tóc. Chị địu đứa con nhỏ lên lưng, đeo cái bị to quần áo đi theo. Cái Lan nhún nhẩy ở một bên gánh đồ vẫn ngủ khìn khịt. Giăng cuối tháng lúc sáng vằng vặc, lúc chìm vào những đám mây tối sầm, tối xịt. Con đường sông Máng mấp mô dưới những chân đồi mù mù, xào xạc. Chốc chốc tiếng chó xồ ra: đuổi theo hàng nửa cây số. Cả bọn càng đi miết. Những tiếng thở, những tiếng nói lào xào, hổn hển. Có cả tiếng trẻ con ọ ẹ. Giời dần dần tối hẳn. Có lúc bỗng quang ra... Rồi lại dần tối hẳn. Tiếng gà gáy lần nữa ran lên.
Thằng Hi đi càng chậm. Bà cháu nó cứ lệch xệch ở tít đằng sau. Người con dâu còn mệt hơn, bàng hoàng, rời rã. Hi bắt đầu sụt sịt. Tiếng bà cụ dỗ cháu lúc xẵng, lúc ngọt.
- Bà ơi! Sao bà bảo ra dốc Thông mà đi xa thế này?
- Thì con chịu khó đi, tí nữa là đến nhà mới thôi. Mai bà đi chợ mua cho con cả thếp giấy trắng đằng tốt nhất vừa đóng sách học vừa đóng vở viết.
Cứ thế, tiếng sụt sịt và tiếng dỗ dành của bà và cháu chập chờn bên tai người con dâu. Một kỷ niệm bỗng thoang thoáng qua tâm trí chị. Một năm chị còn bé, nhà thờ ở dưới bãi làm lễ to lắm. Có cả diễn kịch, tích MƯỜI LĂM ĐƯỜNG THÁNH GIÁ! Một thầy giáo cũng mảnh dẻ và có đôi mắt sáng như bố Hi đóng vai Đức Chúa Giêsu. Đức Chúa Giêsu làm lễ rửa chân cho các tông đồ xong thì bị bắt. Trong lễ đó, Đức Chúa Giêsu đã hôn chân một người tông đồ mà Chúa biết đã tố cáo mình, bán "thầy" cho quân dữ, thằng Giuđa, Đức Chúa Giêsu đã rửa chân cho Giuđa không những bằng nước thường mà cả bằng nước mắt của mình. Cũng trong đêm ấy, Chúa Giêsu từ biệt một người tông đồ già nhất của mình, Phêrô người tông đồ ấy đã thề trung thành với Chúa cho đến chết. Nhưng Chúa biết con người vốn yếu đuối, mà giặc thì hung ác, sức mạnh khôn lường, đã bảo người tông đồ già nên biết sức mình, hỏi đi hỏi lại lòng mình trong những cơn gieo neo này.
Thầy và tớ đã chia tay. Quân dữ lùng bắt ráo riết. Phêrô xa vào tay chúng. Lần thứ nhất, chúng hỏi Phêrô có phải là tông đồ của Chúa không? Phêrô chối. Và đến lần thứ ba... Phêrô cũng vẫn chối thầy. Quân dữ vừa đi khỏi, tiếng gà gáy lên, văng vẳng. Người tông đồ già đã gục xuống khóc. Đó là tiếng gà gáy lần thứ ba. Ba lần gặp quân dữ, ba lần vào lúc gà gáy, ba lần đã chối thầy đúng như nhời thầy tiên đoán.
"Chỉ dứt tiếng gà gáy thứ ba thì con đã chối thầy ba lần".
Tiếng gà gáy của mấy nhà còn lại trong những làng xa xa cũng văng vẳng trong tâm trí người con dâu. Rồi đây, về sống với giặc - ở trước mặt giặc, người mẹ của Hi cũng sẽ phải chối hết! Chối kháng chiến! Chối cụ Hồ! Chối Chính phủ! Mẹ Hi phải chối cả cái dốc Thông. Ở đây chị được sự yêu mến vị nể của tất cả các chị em hoạt động trong đoàn thể phụ nữ, Hội Liên Việt cũng như Ban ủng hộ thương binh... Chối cả Vinh nữa, nếu mà Vinh trốn thoát khỏi tay giặc lại ra chiến đấu! Chối cả Chí, cái anh du kích năm lần bị thương nọ, què tay rồi mà vẫn cứ ở đơn vị, nhận chị làm chị nuôi, quý Hi tưởng như còn hơn cả chị quý nó. Chị sẽ phải chối hết... trước mặt chúng nó.
Có tiếng gọi của ông cụ Cam:
- Đi mau lên các cụ ơi kẻo sáng mất... Khỏi cái cầu kia là không còn trạm kiểm soát của du kích nào nữa!... Vị trí ở ngay sau lũy tre kia rồi...
Những tiếng thì thào:
- Đến vị trí rồi.
- Đến rồi!...
- Qua cầu là đến rồi?...
Chợt thằng Hi chùn lại, nó kéo chặt lấy cánh tay bà nó, khóc thét lên, nức nở:
- Không đi nữa đâu!... Không về vị trí đâu!... Con không về vị trí đâu! Giả mũ calô con đây... Giả cả ngôi sao, cả ảnh cụ Hồ của cậu Vinh, của chú Chí cho con đây...
Người con dâu quay lại ôm lấy Hi. Hi ngồi xệp xuống đường, hai chân giẫy giẫy, đạp đạp lên cái mũ vải...
- Làm sao thế con? Kìa con... Mẹ bảo con này.
Thằng bé khóc không ra tiếng, đẩy mặt mẹ ra.
- Con không về vị trí đâu... Giả mũ calô con đây. Giả ảnh cụ Hồ con đây... Giả con đây... về ở dốc Thông với chú Chí cơ... Về vị trí, nhỡ bộ đội cậu Vinh về dốc Thông thì tìm nhà ở đâu?
Hi nấc lên, nấc mãi lên. Người mẹ phải ôm chặt người nó, vòng tay ấp lấy ngực nó:
- Thôi mẹ xin con... mẹ xin con... Ừ thì về dốc Thông... lại về dốc Thông con ạ...
Người mẹ cũng khóc. Y luống cuống gọi người mẹ chồng:
- Mẹ ơi!... Thôi lần này là lần sau hết... con xin... mẹ... mẹ thử nghĩ lại...
Người mẹ chồng nhìn xuống đống quang gánh, lặng ngắt. Đám đi trước đã xa quá, không còn trông thấy. Một lát bà cụ nhấc cái bị lên nói:
- Phải đấy! Thôi thì mợ giở lại với thằng Hi, mợ nuôi lấy nó để nó hương khói, nối dõi. Còn tôi, tôi với hai đứa con gái này tìm dần về đến quê quán. Đây không còn ai nữa thì bà cháu xin vào ở chỗ nhà Chung, nhà mụ để giữ cho được phần hồn... Thôi, tôi nghĩ thế đấy... mợ đưa cái Lan, Huệ đây cho tôi... Mà thằng Hi kia!... Thôi đấy mày đứng lên mà theo mẹ mày về dốc Thông...