Chương IV
Bà cụ Hi đi rót thêm dầu và lau lại chiếc bóng đèn. Bà cụ bảo cháu ngồi hẳn lên giường học. Đèn sáng. Tiếng học ê a. Mùi dầu bạc hà của bà cụ xoa thái dương và mỏ ác thơm cay, làm nóng hẳn không khí.
Đêm nay lại rét. Gió thổi thông thống vào nhà. Chả nhà nào có cửa rả ra hồn cả. Vách toàn bằng tre nứa đan nhanh cho xong việc. Có chỗ lại lấy cột, lấy nong che. Hay bằng những tấm nứa đan thưa và buộc rơm như những cái né tầm đẻ. Nhà bà cụ Hi ở vào cuối hướng gió, mùi xương trâu, bò, lông chó, lông lợn đưa đến buồn nôn. Ngổn ngang quanh những chỗ làm thịt này, không biết bao nhiêu đống rác mà từ ngày dân kéo lên vị trí chỉ toàn những người đổ.
Khỏi nhà bà cụ Hi chỉ vài chục bước là xuống cánh đồng. Giời sương và đồng ruộng, trông cứ thăm thẳm. Làng mạc chung quanh thấy thế nào ấy, như những hang, những vực không phải của người vậy. Không có một ánh đèn lửa nào, một tiếng chó sủa, gà gáy, xay giã nào. Bề ngoài như thế, nhưng chính những lúc này là lúc làng tấp nập. Ngoài những anh em dân quân du kích và các anh bí thư, Ủy ban, có cả dân tản cư về nữa. Người thì ở làng trên về thăm nhà, chuyển nốt đồ đạc, nhặt nhạnh nốt khoai, sắn ngoài bãi; người thì ra hẳn đồng xem thóc lúa của mình; người hấm húi xếp lại gạch, ngói, cây que, còn lại của nhà bị đốt; có người còn quét cả nhà, cả sân, mặc dầu nhà không còn một đồ đạc gì, và sân rồi đây cũng chẳng đập thóc hay có gà qué gì...
Ục... oàng... moóc-chê ở trên đồn bắn xuống các làng này lại nhiều hơn mọi đêm. Hôm qua thấy xe về thêm hai khẩu to và một khẩu đại bác nữa. Hôm nay, vừa lắp xong là bắn ngay...
Hi đã quen với những tiếng víu víu qua đầu mình, đôi lúc lại còn gọi bảo bà, bảo mẹ:
- Moóc-chê to đấy!... Bắn về Lang Cao đấy... bắn về Hà Nam đấy... Bắn về Khánh Giàng đấy...
- Bà ơi!... Bắn về Lang Cao nhiều quá, bà ạ... Bà ơi, cả ba khẩu cùng bắn về Lang Cao bà ạ...
Đêm thì Lang Cao bị bắn nhiều. Đêm thì đến lượt Hà Nam, Ngọc Lý, Pháp trên đồn biết rõ, dân đã rục rịch về gặt, về sửa soạn làm vụ chiêm đông rồi. Pháp biết rõ du kích huyện có hai lớp nữa bổ sung thêm để canh gác. Pháp biết rõ các "lão già" trong Liên Việt, trong Nông hội lại hoạt động mạnh nhiều đêm, mặc kệ cả chúng bắn vẫn cùng dân học tập chính trị, kiểm thảo các chương trình thi đua và làm cả thơ cả vè gửi cho dân ở vị trí nữa. Còn các ủy ban thì không những cứ lỳ ở làng mình làm việc mà lại còn khai hội với gia đình các nhà có người lên vị trí và theo dõi từng nhà một mà giải thích, tuyên truyền thu bổ đầy đủ các thuế má cho Chính phủ kháng chiến.
- Bà ơi! Súng đại bác to thế thì đường phá hoại xe không đi được đâu nhỉ? (Hi lại ngước mắt lên hỏi bà, mắt chớp chớp chờ giả nhời). Bà ơi! Lính về đông như thế thì phải làm đến ba đồn ấy nhỉ?
- Hi!... Học đi!... Bà không bằng lòng con cứ hỏi vẩn vơ lôi thôi thế đâu! Con học đi...
- Con học thuộc bài rồi.
- Thì bài thuộc, con học kinh. Kinh Lạy Nữ vương con đã học thuộc đâu! Con mà không thuộc kinh thì đến lễ Sinh nhật sang năm con mới được làm lễ giải tội. Hi... Con phải cố mà học đi để ra giêng lễ Phục sinh thì con được chịu phép xưng tội lần đầu rồi!
- Bà ơi!... đi xưng tội lần đầu thì được ảnh mới nhỉ?
- Ừ, cha sẽ cho một bộ ảnh mới bằng bạc thật...
- Cha phát cho cả quần áo mới nữa...
- Ừ cả quần áo mới nữa!... Thôi con học đi cho bà nghe:
"Lạy Nữ vương, Mẹ nhân lành..."
Thằng Hi cúi xuống sách, đọc một thôi dài:
"Lạy Nữ vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng tôi được sống, được vui..."
Bà cụ vội ngắt:
- Con đọc thong thả chứ, từng câu một đây này. - Bà cụ ngâm nga:
"Lạy nữ vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng tôi, được sống, được vui, được cậy thân, lạy Mẹ..."
Con phải đọc từng tiếng một như thế, đọc đi đọc lại... thôi, con học đi... để bà nằm yên một lúc. Bà rức đầu quá.
Bà cụ ngừng lại, day day trán, thở dài:
- Lạy Đức Mẹ... sao con lại rức đầu thế này? Hay con lại mắc cái bệnh rức đầu của ông lão nhà con trước vậy...
Ông cụ đã chết bệnh đau màng óc. Năm ấy lụt đói, hai vợ chồng và hai đứa con làm ruộng của chủ ấp không sao sống được nữa, phải bỏ quê đưa nhau lên Hà Nội tính cách khác làm ăn. Ông cụ đã chết ở dọc đường. Mấy hôm sau, mất luôn đứa bé con gái, em bố Hi. Cùng quá bà cụ đã phải gửi bố Hi ở nhà một bà Trùm dưới bãi rồi đi ở vú sữa cho một nhà cũng là bổn đạo ở phố Nhà thờ... Hai năm sau, dành dụm được mấy trăm bạc, bà cụ mới đón con, lại giở về Nam Định; nhưng không làm ấp nữa mà xoay ra làm hàng quà, nuôi lợn, giồng rau ở một phố nhỏ gần tỉnh trên đường cái xứ... Bố Hi đã được ăn học đỗ đạt nhờ sự thắt lưng buộc bụng của người mẹ góa nọ.
Bà cụ Hi thấy sợ.
Ở trên vị trí bà cụ không những vẫn sốt mà lại còn thêm nhức đầu nữa. Ở đây chật chội quá. Ở đây người ở chen chúc nhau như ở đình, ở chợ, quá cả những năm đói lụt vậy. Ở đây không còn thể thu dọn, bảo ban gì nhau được!... Ở đây sự bẩn thỉu nhớp nhúa không còn biết đến đâu, nếu rồi ra dân các làng Bỉ Nội, Hà Nam, Khánh Giàng gặt hái xong nghe Pháp mà kéo nốt lên... Ở đây! Chỉ những nghĩ đến quan đồn, lính Tây đen, cai đội Tây, vệ sĩ, bảo hoàng mà không còn tâm, còn trí nào nguyện ngắm hết...
Hai bên thái dương bà cụ Hi lại như lửa đốt...
Trên nhà Trùm Hai, cái Lan khụt khịt muốn về mà mẹ nó cứ phải dỗ nó hãy gượm. Mới ngắm đến ngắm thứ ba. Hết giờ chầu, lại còn phải ở lại để nghe Trùm Hai hiểu dụ.
Hôm nay, Hi ở nhà với bà. Mẹ Hi dắt Lan và bế cái Huệ lên, phải chờ anh con trai cụ Trùm già và cụ Trùm già để nhập bọn. Hai bố con ông cụ đã biết ý. Ông cụ ái ngại, thủng thẳng chống gậy vẫy cái Lan: "Nào cháu! Dắt ông nào". Rồi chạm chạp đi bên cạnh chị Hi.
Người con dâu không lo sợ gì bằng đến những giờ đi chầu này.
Trước kia vị trí là một đồi hoang, đất đỏ, sỏi, đá trơ trụi. Lơ thơ có mấy gốc thông. Sườn dốc gồ ghề những mỏm đá; những búi sim, búi mua, cỏ giàng giàng. Từ ngày dân theo Pháp lên đây lập vị trí mới có nhà. Trùm Hai đã đặc biệt bắt những đồng bào bị càn về và một số dân bổn đạo nghèo làm cho hắn một cái nhà tre năm gian rộng. Nhà này đã thành nhà thờ của dân trên vị trí. Bao nhiêu đồ của mấy nhà xứ chung quanh đấy đã đưa hết lên trang hoàng cho nhà Trùm Hai. Thỉnh thoảng có cha về đây làm phúc. Bọn lính Pháp cũng kéo đến xem lễ. Chúng đã phát kẹo bánh cho tất cả những đàn bà, trẻ con chịu lễ, cùng họ nô đùa như trong buổi hội vậy.
Cái Lan lại dụi dụi đầu vào người mẹ. Cái Huệ bế trong lòng cựa quậy muốn dậy.
- Lan hư quá! Có muốn mẹ về mách bà không?
Chị Hi cúi xuống nói nhỏ vào tai Lan. mấy bà cụ ngồi trên như để ý. Thấy có tiếng thào lên lẫn với tiếng đọc kinh tỏ sự không bằng lòng. Chị Hi sợ sệt:
- Đấy Lan lại không ngoan rồi... Lan ngồi lên, mẹ yêu.
Trong bóng tối, mắt Lan lóng lánh. Người mẹ vuốt vuốt những sợi tóc mềm vương xuống cái trán bé nhỏ lên:
- Sắp xong ngắm rồi, con ngồi lên rồi đọc kinh đi.
Chị Hi phải xách đứa con gái lên. Nó ngồi im. Chị Hi lại làm dấu, lào thào đọc tiếp vào những tiếng đọc ngâm nga, lanh lảnh, vang âm của những con gái thơ kinh cất lên trùm cả những tiếng bập bõm, lộn xộn của đám trẻ ngồi lúc nhúc dưới đất ở đằng trước.
Chỗ chị Hi ngồi khuất sau cái cột. Bao giờ chị Hi cũng ngồi ở chỗ này. Trên cột đóng một cái giá gỗ có bức tượng bà Thánh Têrêxa, hai bên có hai chiếc lọ sứ nhỏ. Hôm nay, không hiểu ai về làng thăm nhà, kiếm được hoa huệ đem cắm cả ở trên bàn thờ Đức Mẹ và ở trước tượng bà Thánh Têrêxa. Hương hoa thoang thoảng, mát và làm nhớ đến hương hoa cau sau những đêm mưa rào ngày hè.
Ban thờ trên kia sáng trưng. Đủ cả chân nến, lọ bạc, khám thờ, tượng thánh giá và cả những câu đối nữa. Vàng son. Xà cừ và gỗ mun. Những lá cờ đuôi nheo vàng, nửa đỏ nửa trắng.
Nhưng chị Hi ít khi nhìn lên phía trên đây.
Trùm Hai một mình một ghế quỳ hàng đầu trên ấy. Ghế quỳ của hắn có nệm nhung, chỗ tỳ tay, cũng bằng nhung, trước kia chỉ để cho các cha. Trùm Hai tuy lim dim mắt, gục trán xuống bàn tay, nhưng hắn vẫn như nhìn được khắp hết chung quanh. Đặc biệt chị Hi, chị Hi trước đôi mắt của hắn, như không thể nào trốn tránh được.
Cặp mắt Trùm Hai lúc nào cũng ngầu rượu. Lừ đừ mà nhìn người ta, nhìn chị Hi. Dưới cặp mắt ấy là cái cằm, lẹm một vết dao chém sâu lõm ở bên trái. Cái cằm lẹm ấy, xoăn xoăn một sợi râu mọc ra ở chiếc nốt ruồi đen thây lẩy, Trùm Hai thường gật gù vuốt vuốt sợi râu những khi nói xong. Tiếng nói sin sít của hai hàm răng cùn. Tiếng nói khàn khàn. Cái cười đánh hự. Cái cười chỉ nhếch mép, làm vết dao lẹm nhăn lại... Tiếng nói và cái cười của Trùm Hai...
Trùm Hai một hôm đã cười, hất hàm nói với cụ Trùm già:
- Con dâu bà cụ Hi, thế nào chả về với cụ Hồ. Chữ nghĩa như thế, tinh thần như thế, có cả em ruột đi Vệ quốc đoàn, em nuôi du kích huyện, thì đời nào chịu theo quân giặc này?
Sao năm kia, ngày Pháp nhảy dù Việt Bắc, Trùm Hai đã kéo dân theo Pháp, và lúc Pháp rút lui đã bỏ cả Trùm Hai và dân lại, Chính phủ đã bắt Trùm Hai, mà lại tha tội chết cho Trùm Hai? Tha chết cho nó để giờ hễ cán bộ, dân quân, du kích, thanh niên, bất kỳ ai bị bắt mà dẫn đến cho nó nhận mặt là bị chọc tiết, bắn chết ngay, nếu không thì bị chôn sống, bị phơi nắng, hay lấy cuốc, cuốc cổ. Cả ngày Trùm Hai vừa ruống rượu vừa đánh tổ tôm với ngụy binh, với lão thày già béo, vừa truyền lệnh tra tấn đồng bào, truyền lệnh cho đi bắt thêm đồng bào, đặc biệt cho đi bắt và giết các cán bộ, các nhân viên kháng chiến mà nó đã ghi tên sẵn, đánh dấu từng người, phải xử chết như thế nào...
Thằng khốn nạn này không những đã đe dọa chị Hi mà lại còn trâng tráo đến thế này nữa. Hễ chị Hi ra khỏi nhà thì nó săn đón gặp cho kỳ được. Hôm chị đi giã nhờ gạo ở bên cụ Trùm già về, nó gọi thằng Hi đến khà khà cười, móc ví cho Hi một trăm, bảo chị Hi:
- Giá thằng cu con con mẹ Hai nó nhà tôi còn thì cũng nhớn bằng này đây!...
Chị Hi đã tái mặt, cắn môi lại mà cười và bắt con chắp tay cám ơn. Khi chị Hi đi khỏi hắn hất hàm bảo chung quanh:
- Thằng bé con riêng tôi đấy! Tôi gửi bà cụ nuôi sang năm thì phải đón về cho ra thị xã học mới được.
Trùm Hai góa vợ. Hắn đã hai đời vợ. Không có con cái gì cả. Ngay từ năm mười bảy tuổi, hắn đã chuyên đi ăn cướp, cờ bạc, giai gái, khắp vùng Đồng sào, Suối lửa, Đồn gồ, cả đến những trại Nùng, cũng khét tiếng Hai vạt. (Mặt hắn bị vạt trong một trận theo Pháp chống lại quân cụ Đề). Các cán bộ địa phương kể chuyện lúc Tổng khởi nghĩa xong vào nhà hắn vẫn còn thấy những tấm cửa cổng dầy như cửa cổng thành, bết máu. Hắn bảo đó là vết tích của những thổ phỉ hắn bắt được đem về giết trừ hại cho dân.
Trước kia những lúc bị Trùm Hai bả lả và nghĩ đến những sự thì thào ở chung quanh, chị Hi đã dặn lòng tự nhủ: "Ba đứa con chúng nó sống được đến độc lập... thì chịu thế chứ thế nữa cũng được". Nhưng sau hôm Trùm Hai nói thẳng với mọi người câu nói trên đây thì chị Hi đương xay thóc, hững hẳn tay cối lại vì một câu hỏi:
- Trùm Hai nó nhất định lấy ta đấy!... Còn ở vị trí này hay không ở đây mà cứ phải ở tề, thì phải lấy nó. Vậy thì phải lấy chịu thật nó ư?
Chị Hi lặng người đi giây phút rồi thì cuồng lên. Sao ta lại tính quẩn về vị trí chúng nó để đến nỗi như thế? Làm ăn ngoài kháng chiến, khó khăn thiếu thốn nhưng cố vẫn có thể được. Mẹ ốm, con ốm nhưng khỏi ốm thì không mẹ thì con lại làm hàng, làm họ chứ sao. Rồi lần hồi qua được vụ kém đói giêng hai, giữ được bãi sắn đấy, ngót hai sào khoai đấy, hơn chục gốc chuối đấy, thêm cặp vào thì lại no ngay... Ba năm, bốn năm hay năm, sáu năm kháng chiến nữa cố gắng là phải được... Nhất là Chính phủ và bộ đội mỗi ngày một mạnh thì tình cảnh dân chúng kháng chiến cũng phải tiến lên. Đánh nhau với chúng nó thoạt tiên vẻn vẹn chỉ có mấy nghìn quân, súng thiếu, đạn thiếu, thế mà cũng phá tan được bao nhiêu mưu kế thâm độc của chúng nó, thắng bao nhiêu trận gian nguy. Nào Việt Bắc 1947, nào phá hết đồn nọ đến đồn kia ở khu Mười. Ở Nam Bộ, Bình Trị Thiên chúng nó chiếm đóng tàn hại là thế mà các cơ quan, đoàn thể vẫn một ngày một vững thêm. Sài Gòn, tàu chiến bị phá ngay ở bến. Ở Huế Bảo Đại không dám về... Kháng chiến khắp nơi vững vàng như thế vậy mà chỉ vì ở đây bị nó tràn lên đánh mà nhà mình đành chịu về vị trí quy phục nó thì thật không còn biết suy nghĩ gì cả.
Sự căm thù và nhớ tiếc lại làm ruột gan chị Hi như cào như cấu.
Cái phố dốc Thông từ ngày có mỗi cái túp của ông lão bên Nam Phần tản cư lên xin ruộng làm ở sau đồi... Rồi thì cái quán của nhà chị Hi. Rồi hết hàng nọ đến quán kia, nhà ba gian, nhà năm gian vượt lên, kéo dài xuống cả hai chân dốc.... Những anh chị em cán bộ, bộ đội đi về đây như người nhà... Những hàng mật, cam, muối ở đường Bố Hạ sang... những hàng chè Hà Giang, Phú Thọ xuống, cứ đến đây là phải nghỉ... Những chòi thông tin, lớp học Bình dân buổi tối, gian công quán những tối khai hội đông đủ dân phố, cả những người đi củi, chạy chợ, gánh thuê, cấy thuê ở cày tháng cho trong ấp cũng ra họp... Cả thằng Hi, cái Lan cùng với mẹ đi họp... Chúng nó lại còn chăm họp hơn cả mẹ nữa. Họp thiếu nhi. Những bạn thiếu nhi của Hi... Những đứa trẻ cũng thi đua tăng gia sản xuất, đóng góp ủng hộ kháng chiến, chẳng kém gì người lớn: mỗi đứa cũng mấy chục gốc sắn, mươi hố chuối, đàn gà, hũ gạo hàng tháng cho bộ đội, cho dân quân du kích, gây quỹ thương binh... Những bạn thiếu nhi của Hi... Những đứa trẻ hát cả ngày, cả đêm, thuộc đến hàng trăm bài hát... Hi ơi!... Cậu Vinh mày gửi ảnh cụ Hồ và sao vàng về cho mày đấy à? Chú Chí tao được về ăn tết đấy!... Tết này nhà tao gói những một nồi bánh chưng cho chú Chí ăn tết đấy...
Dốc Thông!... Quán bà cụ Hi! Bánh chưng của quán bà cụ Hi... Xôi chè bún riêu của chị Hi... Hai bàn tay ngón như tháp bút của chị Hi... Người con dâu bà cụ Hi sao mà hiền vậy... Cái thằng bé mắt xếch là con giai của cái nhà mợ trắng trẻo, trông lúc nào cũng buồn buồn ấy đấy... Nhà bà cụ bán bánh chưng ở đây đâu rồi?... Bà cụ cũng phải về vị trí à?
- Vinh ơi!... - Cùng với tiếng kêu thầm lên trong tâm trí, người mẹ kéo bàn tay xuống, mắt như đỡ lấy những hình ảnh hiện lên.
Chị ngừng hẳn lại tiếng đọc kinh. Đôi mắt của chị lóng lánh nhìn lại đôi mắt sáng bực tức và thương xót của Vinh nhìn chị:
- Em đừng giận chị. Chị không đời nào chịu nhục! Nhất là không đời nào chị để nhục cho em, để nhục cho ba đứa con của chị. Vinh ơi! Em hãy còn bị chúng nó giam giữ hay đã trốn thoát được rồi?
Lại một đôi mắt khác hiện ra. Đôi mắt của bố Hi lặng lẽ hệt như đôi mắt của bà mẹ và khác hẳn đôi mắt cũng sáng nhưng nhanh nhẹn và vui tươi của thằng Hi.
"Tôi đã theo anh lấy anh, mười năm nay tôi đã sống được với người mẹ chồng, chết lặng người đi vẫn không thay nét mặt, vẫn không to tiếng. Tôi lại còn theo cả đạo, bỏ hết cả cúng giỗ, để giữ đạo cho tròn. Tất cả chỉ vì yêu anh. Tôi lại được cha mẹ cho ăn học. Mà cũng chỉ vì có học mà tôi vượt cả mọi sự để trọn tình yêu chồng, yêu con..."
Môi người mẹ gần như đứt hẳn mà vẫn cố xiết thêm. Y nghĩ đến chỉ mai kia thôi anh em bộ đội sẽ đánh vị trí này - "Các anh ơi!... các anh đánh đi... tôi có thể nhảy vào gai, vào chông, lội cả vào lửa mà cùng các anh giết chúng nó...". Y nghĩ đến các anh các chị cán bộ đã có liên lạc vào đây, hay có rồi mà y chưa biết. "Các anh các chị tìm cách nào tổ chức trong này đi... Được liên lạc của các anh, các chị thì tôi dù có phải lấy thằng Trùm Hai hay lấy cả Tây trắng, Tây đen, ngụy binh, bảo hoàng đi nữa, tôi cũng lấy để tìm cách phá cho tan nát cái đồn này, cướp lấy súng của chúng nó, thả những đồng bào bị giam cầm chết dần trong hầm trên đồn ra, giải phóng cho các đồng bào Công giáo bị dụ dỗ lừa dối.
Lạy Chúa con! Lạy Rất thánh Đức Bà Maria... Xin Chúa soi sáng cho đồng bào ở đây!... Xin Chúa trừng phạt chúng nó... Xin Chúa phù hộ cho kháng chiến... Xin Chúa phù hộ cho nước Việt Nam con chóng được độc lập... thành công. Xin Chúa lòng lành vô cùng thương xót chúng con đau khổ và ô nhục vì quân giặc... Xin Rất thánh Đức Bà Maria thẩm nhận lời con kêu van... lắng nghe tiếng con cầu xin.