Chuyện Cái Xóm Tha Hương Chương I
Ngày ấy, ở triền Đông nam và Đông bắc dẫy Tam Đảo rừng già còn chạy xuống cả những huyện Kim Anh và Phú Bình. Muốn từ Thái Nguyên sang Tuyên Quang, phải vượt núi luồn rừng men những con đường nhỏ có những quãng đi hàng hai ba ngày đường không gặp một bóng người.
Những cầm thú kỳ lạ, thì cứ mỗi bước người ta lại gặp một giống hiện ra. Từ sườn núi lấp loáng mây trắng đổ xuống dốc lũng lau cỏ thăm thẳm, một đôi nai vút qua mặt người ta biến đi không để lại một tăm hơi. Giữa lưng đèo nghi ngút sương, một chú hươu, lông như nhung như gấm, cất đôi sừng lởm chởm cao hơn một thước ngước lên nhìn, mắt ánh như có lửa và như muốn hỏi:
- Người ở đâu đến? Người là ai vậy?
Nghỉ chân bên suối, người ta thấy tiếng hoẵng giác, tiếng hổ gầm ngay sau lưng.
Từng đàn chim không hiểu là chim gì, như một làn mưa bóng mây và là một làn mưa ánh sáng của bẩy sắc cầu vồng bay qua đầu người ta, những tiếng quang quác, líu ríu làm nhộn nhịp cả rừng núi. Từng đàn ong loáng bay che kín từng mảng trời, sập đến át cả tiếng suối, tiếng thác. Những đồi sim chín xa trông tưởng như đang lúc nhúc hóa thành chim thành bướm. Mùi dứa dại, hương hoa cỏ ngào ngạt. Suối thác rền rĩ gầm vang...
Giữa một năm đói có một đám người tha hương cầu thực đã kéo nhau đi trên quãng đường hoang thẳm ấy.
Tất cả sáu bếp. Ông già bà lão, người lớn trẻ con, hai mươi người. Bếp thì ở vùng chiêm luôn mất vụ bị lụt, bị hạn, mất mùa. Bếp thì ở ven biển, nhà cửa tan nát vì bão nước. Bếp thì con cái bị quan tỉnh, quan huyện bắt đi lính đi phu ốm chết. Còn cái gì bán được và đổi lấy quan tiền bát gạo họ đều đổi hết cả. Sau hàng tháng lang thang, nằm sương gối đất, tình cờ họ gặp nhau ở cửa chợ vùng Bắc. Họ chuyện trò than thở với nhau đêm trước thì hôm sau nhập làm một bọn, lại dắt díu nhau đi.
Họ đi tìm vàng.
Vàng giá những gấp mười bạc. Một nén vàng. Chao ôi! Chỉ được một nén vàng thôi, thì cả những người như họ cũng sẽ sung sướng quá. Họ sẽ có nhà, sẽ có ruộng, sẽ có trâu, con cái họ sẽ được ăn no mặc ấm. Còn những ai mà có những hàng chục, hàng trăm nén vàng thì sẽ sống như những đại phú gia... như quận công, nhà vua. Mà chỉ như nhà vua, chỉ quận công, chỉ những đại phú gia mới có được nhiều vàng như thế!!
Họ nghe đồn ở cửa rừng Suối Cát có mỏ vàng. Nhiều người đã lên đây mò vàng. Người ta thuê người đãi vàng. Có người chỉ đãi thuê cũng đem được nén vàng về xuôi rồi.
Ngày đi đêm nghỉ, bữa cháo bữa cơm, nắng mưa chẳng quản, bước đường càng thêm cơ cực. Hàng quán, quà bánh không dám nhìn qua: trẻ con ông già nhỡ bữa có đói lắm mới được ăn củ khoai củ sắn. Quãng thì nghỉ chân ở cổng đình, cổng chùa. Quãng thì thổi nấu ở điếm canh, ở gốc đa. Quãng thì ngủ ở đầu chợ hay trên cầu Thượng Lương... Nửa tháng rồi, đám người càng đi càng thấy biền biệt. Dọc đường, một ông già, rồi một đứa bé gái trong bọn ốm quá, cháo cũng không ăn được nữa, chết.
- Bà con ơi! Từ đây còn phải mấy ngày nữa thì mới đến Suối Cát.
- Bà con ơi! Trên Suối Cát người làm thuê đãi vàng ngày được ba bát gạo phải không?
- Bà con ơi! Đường lên Suối Cát còn xa không?
Tiếng gọi hỏi cứ một ngày chỉ một lào phào. Nhiều người lớn đã nói không ra hơi, chỉ lết chân đi được một quãng lại phải đặt gồng gánh, con cái xuống rệ đường, rồi rũ ra hay nằm lăn ra đất ra cỏ. Nhưng mẹ cứ ẵm con, ông cứ cõng cháu, con lại dìu bố, thằng anh lớn kéo đứa em nhỏ... sáu bếp tha hương nọ cũng lên được đến Suối Cát. Không người nào còn một đồng tiền trong lưng, không nhà nào còn đủ bữa gạo trong bị. Người khỏe nhất cũng lả ra.
Họ đến cửa rừng giữa một buổi trưa. Những ngọn Tam Đảo nghi ngút trong mây trắng và khí núi. Rừng xanh ngăn ngắt. Trời như đổ lửa... Những đồi sim, đồi mua, hoa quả như cháy lên, mật nhựa chảy quánh. Suối thác như những nồi nước sôi réo. Thỉnh thoảng có tiếng nai, tiếng hoẵng hú lên. Tiếng chim "bắt cô trói cột" văng vẳng. Ở một chỗ họ đỗ gánh, chỉ nghe thấy tiếng suối gào xiết đằng xa và thứ tiếng âm âm của sương lam chướng khí bốc lên. Rừng hoang núi thẳm như đầy những ma thiêng thú độc chờn vờn ở khắp chung quanh, chỉ chờ đêm tối ập đến.
Suối Cát không có mỏ vàng, và cũng không có xóm làng, bản trại, không có ai ở, ai thuê mướn cả! Ở đây, một dạo người ta tưởng có mỏ vàng, đã kéo nhau đến tìm. Mấy tháng liền, những người lên trước họ đã dầm mưa, dãi nắng ở các khe suối. Họ ăn toàn củ mài, củ sắn, người chỉ còn da bọc xương, lại kéo nhau đi nơi khác. Dưới mấy gốc cây cổ thụ vẫn còn lăn lóc những hòn đá kê làm "ông đầu rau". Những kèo cột phên liếp xam xám xệch xoạc, những ống bương vẫn còn vùi với lá cây, với bùn đất.
Tất cả ông già bà lão và đàn bà con mọn trong đám lên sau ấy ngồi lặng lẽ đi với nhau rồi dân dấn nước mắt, có kẻ nức nở òa lên khóc.