Chương XII
Con Hiền bỗng đi mất!
Hôm đó sắp đến ngày giỗ đầu bà cụ Trọng, phường săn Suối Cát bảo nhau đi một chuyến xa để lấy thịt về làm cỗ cúng. Họ đi từ sáng sớm. Năm trai tráng gồm có anh Đông, Xin và ba người săn giỏi nhất xóm và ba anh em thằng chó Hiền. Thường thường tà tà thì phường săn về. Hôm đó trời đã tối mịt, người ở nhà càng trông càng không thấy tăm hơi. Về khuya lại nổi cơn mưa bão. Sáng hôm sau cũng không thấy bóng ai. Đến mãi trưa, bọn săn mới về. Chỉ thấy hai con chó theo năm người về thôi.
Cả xóm đổ ra đón, hỏi chuyện. Bọn trai tráng phờ phạc, buồn rũ. Anh Đông và Xin nói cứ ứ ứ trong cổ họng:
- Con Hiền bị lạc hay bị bẫy rồi! Con Hiền bị lạc rồi!
Chẳng còn nhà nào thiết ăn uống. Đàn ông và trai tráng tức tốc chia nhau đi các ngả.
Hai ngày... bốn ngày... một tuần. Cuối cùng, có người quen cho biết con Hiền của họ vẫn còn sống nhưng bị người nhà quan châu bắt mất! Nó mải đuổi mồi đã bị sa vào bẫy của tên chột người nhà quan châu. Tên này đã thả mồi lừa bọn săn Suối Cát và ba anh em thằng Hiền.
Hôm đi Suối Cát về, tên chột mắt đặt ngay bẫy ở mấy khu rừng có tiếng là nhiều hươu nai, lợn cỏ ở gần châu. Rồi nó làm ngay một cái chuồng đợi con Hiền sa bẫy. Con Hiền vừa sập hố, liền bị trói khiêng đưa về châu nhốt vào chuồng ngay. Cái chuồng ở giữa vườn trong đồn. Lính tráng thay nhau ngày đêm canh giữ.
Ông lão Đông nghe con trai, Xin và bọn trai tráng về kể xong thì giơ tay lên kêu "giời" rồi vò đầu bứt tóc cả ngày hôm ấy. Cả đêm hôm ấy, ông cụ ngồi như pho tượng, mắt nhiều lúc đỏ ngầu lên. Hôm sau, tờ mờ sáng ông lão cùng với Xin và Đông cơm nắm khăn gói ra đi luồn rừng tắt đường đến châu. Ông lão Đông đi thì đi chứ biết rằng không thể nào, không cách gì lấy được con Hiền về. Thôi chỉ mong được nhìn thấy mặt nó, xem nó ra sao rồi về không cũng được. Khốn nỗi! Nó không chết... nhưng nó lại sa vào cái thằng uống máu người không biết tanh kia thì cũng như nó chết rồi! Còn ông lão Đông buồn nhớ quá cũng đến chết thôi!
Tới châu, cha con ông lão Đông và Xin chỉ mon men được gần đến cái cổng. Quan đây có tiếng là nghiêm. Có việc vào châu đường còn khó, còn sợ, nữa là cầu may, nhất là lại vào tư thất của quan. Ông lão Đông đành nhìn những cổng cao, tường dầy, lính tráng gươm giáo sừng sững tua tủa mà gạt nước mắt quay về.
Trong khi nước mắt người cha già giàn giụa thì nước mắt của Đông và của Xin cứ nuốt xuống ruột gan. Và từ gan ruột anh Đông và Xin cứ như có lửa có dầu cuộn lên:
- Bà con cửa rừng Suối Cát ơi! Không đời nào xóm Suối Cát chịu mất con Hiền! Thằng Đông và thằng Xin này mà sống thì nhất định lấy con Hiền về ở với cửa rừng Suối Cát!
Anh Đông và Xin vừa đi vừa nức nở nói với mình như thế. Hai người như nghe thấy tiếng nói ấy dội ra cả rừng núi bên ngoài. Suối chảy, thác băng đều vang lên bảo hai anh:
- Đông ơi! Xin ơi! Đó là lời nguyền của hai người...