← Quay lại trang sách

Chương II

Sinh bước dài mấy bước, lùi về đằng sau, lim dim trông những nét chữ thẳng tắp. Đã xế trưa, nắng vàng rực. Trong chỗ rợp, nước sơn bóng hẳn lên. Màu trắng mỡ nổi bật màu xanh tươi và những đường chỉ tím biếc. Cái biển hàng dài, rộng, tựa nghiêng ở chân tường, lấp lánh thêm vì soi lên mặt tủ kính trong suốt, gỗ đánh bóng lộn.

Sinh gật gù:

- Thế mà thành nghề rồi đấy. Tiếc thay những năm còn được đi học chỉ vẽ quấy không thì bây giờ cũng có chút khéo léo của họa sĩ làm các biển hàng, các mặt hàng.

Sinh mỉm cười, tưởng ngay đến những con số hai to tướng phê vào gần suốt vở vẽ của Sinh. Sinh đã phải lấy "compas" khoanh đường tròn của cái ấm chuyên quả quít. Cái lọ đựng hoa, Sinh nhờ một bạn vẽ hộ rồi loay hoay Sinh chữa nó thế nào thành ra trùng trục, cổ tè bè như cái ống nhổ. Và, một lần Sinh bị thầy giáo gọi lên bảng bêu riếu trước mặt cả lớp.

Buổi ấy, giờ vẽ tưởng tượng cái nồi đất. Chẳng cần suy nghĩ, Sinh đưa vòng luôn bút chì rồi đem cạo chì, bôi đen kín cái khoanh tròn ấy. Hứng tay, Sinh gạch nhằng nhịt, xồm xuề ở hai bên, ở giữa và dưới. Đoạn Sinh mở rộng vở và, trong khi chờ thấm, Sinh cùng một thằng cũng liều lĩnh đánh cờ vào giấy kẻ vuông.

- Ai xong thì đưa lên đây.

Thầy giáo vừa dõng dạc dứt tiếng, thằng bạn thích khuỷu tay vào lưng Sinh:

- Kìa tao và mày đưa lên chứ. Chấm trước đi cho thoát nợ mà còn chơi.

Sinh gật đầu:

- Ừ! Mày đưa lên trước vậy. Mày khéo tay, như thế là tuyệt tác, nhưng tao đây hậu đậu, phải tô điểm thêm cho nó trông ra hồn một tí. Mà mày ạ, lối vẽ của tao hôm nay thật khác hẳn cả lớp. Tao vừa xem một tay họa sĩ vẽ phóng bèn bắt chước đấy.

Thêm nhiều nét nguệch ngoạc và rối xòe vào hình vẽ, Sinh đường hoàng đưa vở lên bàn chấm. Sau những phút khá lâu, thầy giáo chau mày nhìn hình vẽ của Sinh, Sinh thấy vẻ mặt nghiêm trọng kia mà trống ngực đập thình thịch. Chợt thầy vẫy một ngón tay, ra hiệu cho Sinh đứng lên hẳn bàn. Sinh mở to mắt, bước rụt rè. Sinh vừa tới, thầy giáo liền vươn từ từ cánh tay, xoắn êm ả nhưng riết lấy tai Sinh, kéo dần đầu Sinh dụi xuống vở:

- Cái này là cái gì hở Sinh? Nói! Nói mau!

Sinh bưng tai, xuýt xoa:

- Thưa thầy… thưa thầy… cái… cái nồi ạ.

Thầy giáo mím môi, xoắn mỏng tai Sinh hơn nữa:

- Cái nồi! À à cái nồi! Để tao hỏi cả lớp trông xem đó có phải cái nồi không…

Mấy tiếng thước kẻ vang lên, quyển vở của Sinh giơ ra:

- Đây, các anh xem thằng Sinh nó vẽ cái gì?

Chỉ thoáng nhìn cái vòng tròn đen kịt và rối bù như bối chỉ thâm, cả lớp đủ cười phá lên. Một thằng lém lỉnh và chơi thân với Sinh lắc đầu nói:

- Thưa thầy mắt chúng con kém cỏi quá hay sao ấy, quả thật chúng con không thể hiểu anh Sinh định vẽ cái gì trên thế gian này.

Những tiếng cười giòn tan ầm ầm trào lên. Bị xoắn tai tưởng đến đứt mất, mặt Sinh đương nhăn nhó bỗng đỏ bừng. Thật ra nghe thằng bạn ranh mãnh kia trả lời Sinh cũng muốn phá ra cười nhưng phải cố gò ruột gan lại. Thầy giáo đã cất tiếng:

- Đó là cái đầu thằng ăn mày hay thằng điên, mà thằng ăn mày hay thằng điên ấy là thằng Sinh. Chứ quả rằng khắp gầm trời này không thể tìm đâu ra cái nồi như nó vẽ.

Với những cái mới lạ, Sinh còn nhiều ham muốn sôi nổi nữa. Thêm nhiều lần Sinh bị thầy giáo đánh mắng, phê đầy điểm xấu vào vở nhưng Sinh chỉ càng bị kích thích. Buổi ấy như kẻ khác thì hổ thẹn lâu lắm, trái lại Sinh đã khoan khoái vì đã đưa lại cho anh em một bữa cười hể hả.

- Này cậu kia! - Chợt có tiếng gọi Sinh - Làm gấp liệu đến trưa mai có xong cho tôi không?

Sinh quay ra nhìn một bà béo lùn, mặt bự phấn, vàng ngọc đầy tay. Sinh ngẫm nghĩ rồi tươi cười:

- Thưa bà kể muốn chóng cũng được. Nhưng mặt một cửa hàng có bao nhiêu người qua lại để ý tới, phải sao cẩn thận, đẹp đẽ, không thì giảm giá trị đi.

Người đàn bà gật gù:

- Ừ, cậu nói phải đấy. Cậu cứ làm hết sức đẹp cho tôi, tôi sẽ tính thêm.

Được dịp tốt cho cả bọn, Sinh nắm ngay lấy:

- Thưa bà, giá mà bà thay cho thứ sơn "Mặt trời" thì còn nổi nữa. Thứ sơn "Mũi tên" này dù sao cũng không bóng bằng.

- Ừ! Ừ! Thì cậu bảo thằng xe nhà tôi nó đi mua ngay đi. Hay đây tôi đưa cậu ba đồng, cậu liệu đấy, thừa phần cậu, thiếu cậu bảo tôi.

Sinh được tín nhiệm như thế không phải vì những mánh khóe. Một buổi Sinh đương sơn những tủ hàng trong nhà, chồng bà này bỗng gắt ầm lên. Với cái giọng ồm ồm của một người Âu béo lùn, rậm râu và luôn miệng chiếc điếu vồ, ông đã làm tất cả người làm ngơ ngác, lo lắng. Bà cũng giương to mắt trước cơn thịnh nộ đột nhiên của chồng. Thoáng nhận ra, Sinh tiến ngay đến giữ tay người bạn lại và trỏ:

- Anh đừng kẻ chữ bằng thứ sơn này. Ông ấy đương kêu màu đỏ ấy làm tối cả mặt đường đi.

Chồng bà nọ tươi ngay nét mặt sau khi Sinh thong thả hỏi ông bằng tiếng Pháp:

- Thưa ông, trên cái nền xanh phớt này ông muốn chúng tôi kẻ chữ tím nhạt ạ?

Người Âu liền đập vai Sinh với bàn tay dày, xồm lông:

- Anh đã nói trúng ý tôi. Ừ! Anh bảo bạn anh theo thế mà làm.

Bao nhiêu cặp mắt ngạc nhiên đổ dồn vào Sinh. Họ coi Sinh như một sự phi thường bỗng đâu sa xuống. Khi người chồng ra ô tô về sở, bà vợ tươi cười bảo Sinh:

- May quá! May quá! Không có cậu hôm nay thì tôi lại khổ vì cơn điên của nhà tôi. Mà này, cậu chắc đã đỗ bằng rồi hay đi làm việc Tây quen nên mới nghe thạo và nói hay như thế?

Sinh mỉm cười:

- Thưa bà, tôi không có bằng gì hết, tôi chỉ đi làm nhiều thôi.

Sinh đã nói dối. Sinh không muốn người ta biết Sinh đã có tấm bằng Sơ học Pháp - Việt ngày nay phổ thông quá rồi. Đó là tất cả những đau khổ xé lòng Sinh ra. Nếu sinh trưởng trong một gia đình có căn bản chắc chắn và mẹ Sinh còn sống, làm gì Sinh phải thôi học sớm và lao mình vào mọi cảnh làm ăn ngay từ năm mười bốn tuổi đầu? Làm gì Sinh phải qua những ngày tối tăm đói rét và bệnh tật. Sinh thiếu thốn đủ mọi cái, thèm khát đủ mọi cái. Sinh đã nhiều phen không dám nghĩ tới sự học hành sớm tắt của mình mà Sinh thấy xót xa và mênh mông nhớ tiếc chắc chắn phải tới lúc chết.

Hộp sơn trắng và hai hộp sơn màu Sinh mua có hai đồng tư. Sáu hào thừa, Sinh chia cho cả hai người bạn. Nhường chỗ mặt hàng cho một người bạn làm, Sinh đem lên gác một hộp sơn mới để sửa lại mấy biển gỗ ở dọc tường.

Nắng càng bừng to. Nóc tầng nhà Sinh làm chói lóa. Ngói mới đỏ tươi như tỏa khói và reo những tiếng vù vù của lửa rực xưa kia nung đốt nó. Gió sông thổi mạnh không kém ở dưới Bãi. Cái thang Sinh ngồi hơi rung rung. Sinh tuy sợ nhưng khoan khoái, Sinh càng miệt mài với những nét bút đưa mềm lên gỗ đã mượt sơn.

Sáng nay nhiều sương mù và gió giật quá. Nhìn trời mây bao la xám nhờ, Sinh đã tưởng cả ngày cảnh vật đến buồn rũ người ra. Nhưng gần mười giờ, Sinh kẻ xong một tấm biển, một mảng trời bỗng tỏa sáng, ánh vàng non như hoa mướp. Trong chòm lá lăn tăn và xanh êm bên kia đường liền chân đê, nắng mỗi phút một giội xuống ào ào. Mấy sân thượng gần đấy đã thấy phấp phới màu trắng trong sạch sẽ và mạnh mẽ của vải trúc bâu làm nổi bật các màu lộng lẫy của tơ lụa "bom bay" dưới trời xanh.

Suốt buổi trưa, ăn cơm xong, Sinh muốn chợp mắt vài phút song không thể được. Những ánh nắng vàng thoang thoảng hương hoa, cứ rào rào trước mặt Sinh. Vả lại Sinh có thật buồn ngủ thì những tiếng reo cười của bọn trẻ con chơi bóng ở đường ngay đấy cũng chẳng để Sinh yên giấc. Chúng nô đùa ngay dưới mắt Sinh. Những bọng chân nhỏ xíu hăm hở trong cuộc xô xát, giành giựt kia khiến Sinh cũng náo nức. Sau cùng, Sinh phải đứng dậy, đi đi lại lại trong bóng rợp trước cửa vươn tay thở hít cho dịu sự bứt rứt. Như thế tới hết giờ Sinh nghỉ.

Đồng hồ gác bên cạnh đã ngân bốn tiếng vang vang. Một khoảng mái ngói nhạt đi, hồng phớt và thấp thoáng thứ khói trắng đục. Xa kia, mặt trời hạ xuống sau những đám mây trắng, xốp và dày, chuyển cuồn cuộn. Chợt có tiếng gọi réo rắt:

- Sinh ơi! Có bánh giò nóng đây này.

Sinh cúi nhìn người bạn ngửa mặt lên, tay giơ cặp bánh, tươi cười:

- Hẵng nghỉ tay cái đã, xuống đây mà ăn. Bánh ngon lắm, chúng tớ ăn thử rồi.

Sinh nghĩ đến bữa cơm sắp tới, lắc đầu:

- Cảm ơn đằng ấy, tớ không đói.

- Không đói mà không "chở" được hai chiêu à? Hay ngại xuống đây cầm lên cho.

Dứt lời, người bạn đưa cả đồng hào cho cô bán hàng ngồi xổm trước tấm biển sơn dở:

- Thái cho tôi hai xu giò lụa, rẻ vào đấy.

Cô hàng trùm khăn vuông, mắt sắc, mỉm cười. Cô đưa lên lưỡi dao to bản và sáng với gương giò dán mịn vào thép. Người bạn lột lấy miếng giò, chạy lên gác. Sinh phải nhận. Nhưng Sinh không ăn, treo bánh lên khung cửa để chốc nữa về cho hai đứa cháu bà cụ An.

- Bánh nóng hổi thế này giá chúng nó ăn ngay bây giờ!

Sau câu này, trống ngực Sinh đập mạnh. Chính bà cụ An, một bữa nấu được nồi canh củ, vừa bắc ở bếp ra cũng lẩm bẩm:

- Giá cậu Sinh về ăn ngay bây giờ cho nóng sốt!

Thì bà cụ giật mình. Sinh bước vụt vào, quên cả lễ phép, vỗ lưng cụ:

- Đây con về đây! Ấy tại con bấm độn thấy cụ nấu canh củ và nấu nhiều để phần con, nên con phải bỏ dở việc ạ.

Bà cụ An hấp háy mắt, cười. Sinh tranh bê nồi canh bốc hơi nghi ngút, tỏa ngào ngạt vào mặt. Ăn những miếng củ dừ mịn và những ngọn rau cần sồn sột, Sinh đã càng thêm bùi ngùi vì tình thân mến của người đàn bà già yếu, xa lạ nọ. Và Sinh thấm thía đau đớn nghĩ đến sự ăn uống nguội ngậm, thiếu thốn, vội vàng, khi người ta đã phải suốt cả ngày làm việc mệt nhoài ra, quần áo nhớp nháp, chỉ cốt sao được lưng lửng bụng cơm và bát nước chè tươi rồi lại chúi đầu vào công việc.

Tâm trí Sinh bị kích thích ghê gớm vì tưởng tượng tới bữa cơm sắp tới.

Cái bút sơn càng đưa mềm trên gỗ. Nước sơn lướt ra và bóng loáng. Tóc Sinh xõa ra, phất phới. Từ ngoài sông Cái chảy ì ầm, gió thổi vào lồng lộng. Cạnh dãy xóm Sinh ở, dải đường nâu mịn chỗ bồi chỗ lở, đã thẫm lại với những bóng cây cối xanh mướt. Nhưng trên những nóc nhà chen chúc nhau, phấn nắng vẫn bồng bềnh dưới mặt trời đỏ ngời. Đằng xế tây, muôn vàn cánh tay vàng tay bạc vươn ra, như muốn ôm ấp lấy những cây cỏ bé nhỏ bắt đầu run run trong khí lạnh của sông Cái tỏa lên.

Trên mặt đê, trên đường và suốt hè phố Bờ sông sự hoạt động về chiều càng dồn dập qua những lớp nắng rừng rực. Sinh chợt chau mày, nhìn xa lên phía trên, từ chung quanh khu Đầu Cầu tới tít mãi vùng nào đó yên lặng, chắn lấy chân trời có một đỉnh núi tím bàng bạc, choàng kín hờ những dải mây trắng đục, uốn éo.

Khu thành phố!

Hà Nội. Đây, những ống khói của nhà máy điện ngang tàng húc lên cao và nhả từ từ những sợi khói lấp lánh trước suối ánh sáng của mặt trời đương gấp gấp tràn ra. Các máy móc khổng lồ chạy ầm ầm. Cây cối chung quanh, xanh um, ngập nắng, giội thêm vào những tiếng reo vang vang. Cách đấy một quãng ngăn ra bởi những nóc nhà lố nhố, cái khối đá hùng vĩ của bể nước nổi bọt lên. Sắc xam xám của những tầng đá cũ và sùi mất đi, những mặt kim cương chuyển vân óng ánh tia ra. Những dãy phố Hàng Giấy, Hàng Than, Hàng Khoai đều hướng tất cả những cửa hẹp và mờ tối lên cái kiến trúc đồ sộ kia, để cùng kêu gọi ánh trời chỉ còn chốc lát lưu luyến những khoảng đất đầy khói bụi này.

Tâm trí Sinh đê mê thêm.

Thứ tiếng ồn ào không phân biệt của khu chợ Đồng Xuân bỗng cuồn cuộn chảy về phía Sinh, qua những lớp bụi đỏ ngầu. Trên nóc chợ, mảng trời là cả một mình cá khổng lồ, mây trắng lợp thành vẩy chói lọi. Vẫn người và người. Ở các ngả chung quanh chợ, những bước chân nhộn nhịp tràn về phố đằng này rồi lên cầu Sông Cái. Những gióng sắt cẩu tua tủa như cây để đỡ lấy nền trời bóng nhoáng thêm một lần nữa với ánh vàng của chiều. Nó cùng những đoàn xe cộ chạy không ngớt gào lên ầm ầm, rung chuyển tất cả vùng sông nước và làng xóm ở dưới.

Sinh rùng cả mình, choáng váng. Đã lâu lắm Sinh mới lại đứng trên cao nhìn cái dòng sinh hoạt gấp rút của Hà Nội lúc mặt trời sắp lặn. Những ngày vừa qua, ở nhà thương, nằm tê tái mà nghe sự huyên náo dội vào gian buồng âm u, Sinh chỉ có thể tưởng tượng được cảnh làm ăn sầm uất khiến Sinh vui đến náo nức thôi. Và, những khi đó, Sinh thường ghê rợn nhìn những bức tường xanh nhợt nó như nghe ngóng, rình mò giờ chết của các bệnh nhân thở không đều và rên rỉ. Sinh đã hoang mang đau đớn và tự hỏi:

- Không biết rồi đây ta sẽ làm gì? Không biết rồi ra khỏi đây có được nhiều cảnh tưng bừng làm khoan khoái vui thích không?

Sau một cái thở dài sâu và mạnh, Sinh lịm đi, mắt lờ đờ đuổi theo những gợn nắng lấp lánh trên mặt cỏ lùa gió ào ào. Cái buồn xa vắng của cảnh đời trơ trọi và cùng khổ đã đến. Lòng Sinh đau chói và lạnh buốt đi. Một mảng tâm trí Sinh liền những tê đi bởi những hình ảnh mịt mờ, đìu hiu hiện ra với thứ tiếng vang vang của đêm khuya cuối đông. Sinh đành lại để những cảm tưởng xâu xé Sinh vì Sinh không thể tự lừa dối bằng những ảo tưởng dù rực rỡ chừng nào nữa.

Sự thực của cuộc đời đã ngày càng rõ rệt. Cảnh sắc của vũ trụ và của người tươi tươi đấy nhưng chỉ hòa hợp với những ai ai chứ đâu với Sinh. Qua những năm tháng đầy đọa, Sinh đã có cái can đảm nhìn thẳng vào đời. Sinh không còn dám ngại ngùng, và, mặc dầu đã biết trước, biết chắc chắn, sự lầm than còn là lôi cuốn Sinh đi, Sinh cứ phải tiến bước. Và Sinh càng cảm thấy rõ như bàn tay nắm lấy một lưỡi dao sắc, Sinh còn phải tiêu đi bao nhiêu cũng ít chút sức lực héo hắt của Sinh để kiếm sống, nếu Sinh còn khát sống như người khát nước trong cơn sốt, nếu Sinh còn muốn sống một cách ngay thẳng, trong sạch, tìm trong đó cái ý nghĩa vui sướng của cả đời mình.

Cái tâm trạng trên kia khi Sinh còn ốm liệt giường vụt trở lại. Một cảm giác lạnh rợn thắt lấy người Sinh. Sinh mím môi và lắc đầu:

- Không! Không!

Sinh chau mày, nhìn hút vào cái khoảng xanh xanh trước mặt, lại tự nhủ với những ý tưởng mọi ngày. Cảnh vật tưng bừng và bao nhiêu cái hay, cái sung sướng không hòa hợp với Sinh, nhưng không vì thế mà Sinh chán nản, thả mình cho sự đau khổ đắm đuối. Và đã nhận định rằng bị nghèo nàn không phải là cớ để mình phiền muộn và khiếp sợ, thì Sinh phải luôn luôn vui vẻ và tin tưởng vào cuộc đời đương tiến tới mà Sinh chưa được rõ con đường phải đi. Không khó khăn, không ươn hèn, không chịu sự rũ rượi. Sinh không thể nào cứ cô độc và khổ sở mãi.

Hai thái dương Sinh đập dồn dập. Sinh cắn chặt môi với mấy tiếng thầm: "Bất cứ ở hoàn cảnh nào cũng phải hết sức chiến đấu và vui tin mà sống, Sinh ơi!". Liền đó, đại ý một câu văn tiếng Pháp giống thế thoáng qua, Sinh hối hận không thuộc lòng câu đó để lúc rạo rực này rung lên trong tâm trí một thứ tiếng ngoài tiếng mẹ đẻ của Sinh.