← Quay lại trang sách

Thù Nhà Nợ Nước Chương I

Hai chú cháu đành phải đỗ gánh ở cái lều này vì thấy trời chiều càng vắng lặng quá. Con đường trước mặt đã xa hút lại thêm một rặng núi cao ngất mờ mịt ùn ùn những chướng khí, như sắp đổ sập xuống đầu người ta và bịt kín hết các lối các ngả, giữ người ta lại trong một đêm tối vô cùng vô tận, đầy những ác thú rình mò, không cho người ta tìm kiếm được một thứ gì mà ăn sống người cả.

- Chú ơi! Hai bọn đi sau sắp đến chưa?

Thơm vừa nuốt nước bọt, lấy vạt áo lau trán lau mắt, gọi chú. Người chú chỉ dám ho khẽ khẽ để ngực đỡ chói:

- Hình như họ cũng đang qua cầu kia kìa.

Lại không phải! Chỉ là một cơn gió rào qua bụi cây bến ngòi. Khi cả hai chú cháu cùng nghển trông thì vẫn thấy đồng không mông quạnh và bóng chiều lại đổ tối hơn.

- Chú ơi! Chú thấy có làng, có người ở gần đây rồi chứ?

Người chú vẫn lẳng lặng: "Có người, có làng thì cũng thế thôi". Ông sẽ sàng bảo cháu:

- Để chú liệu xem, thế nào ta chả phải vào trọ đêm nay và rồi cũng phải nấu lấy bát cháo mà ăn hay đun siêu nước mà uống chứ.

Tới bây giờ người chú mới xem kỹ thì thấy cái lều đã nát còn cây đa sau lều lại đáng sợ quá! Không phải là một gốc hai gốc mà lá sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, mười hai gốc chằng chịt với không biết bao nhiêu chùm rễ. Có gốc sâu hoăm hoắm như cửa hang. Có gốc bửa ra làm ba bốn cụm nữa và lại thêm những hốc, những hườm, những ngách cũng ghê rợn như thế. Ngủ ở đây không chết với yêu với tinh thì cũng chết với các thứ trăn dữ, rắn độc. Rồi có nhóm được tí lửa lên thì sẽ làm kinh động cả vùng, không khéo đến bị bắt ở đây mất! Thôi, cứ phải tìm vào làng hay vào nhà ai quanh đây mà nghỉ ngơi đêm nay. Nhất là phải để thằng Thơm nó lại được tí hơi gạo vào bụng, còn thêm cái sức mà đi, chứ bỏ nhà bỏ cửa lên cái đất rừng rú này mà ốm thì...

- Họ đến thật rồi, chú ạ... - Thơm reo lên. - Mà lại còn mấy người nữa mới nhập bọn kia kìa!

Thơm xăm xăm chạy đến toan đỡ hộ nhà người mẹ hai bên thúng có hai đứa con nhỏ thì thấy một thằng nào ấy thấp bé hơn mình đang cùn cũn gánh đi trước, còn người chồng thì có một anh cũng lạ mặt cõng cho. Cô lớn con ông cụ mù và bà đứng tuổi dắt con trong bọn vội lên tiếng:

- Thế là không những đủ bọn ta mà lại mới thêm người. Đông thế này, ta có thể nghỉ lại đây thôi!... Còn một cái lều khuất ở mé trong gốc đa kia, để vợ chồng con cái nhà bác Khoái Châu trú với mấy đàn bà con gái chúng tôi.

- U ơi! Cho con uống nước.

Một bên gánh có tiếng khò khè hư hư gọi.

- Vừa mới uống xong... hẵng gượm.

Người mẹ kéo kéo chiếc thúng có đứa bé cho vào chỗ thật phẳng phiu rồi đến bên chồng khoàng khoàng cánh tay để đặt lưng chồng ngả hẳn lên cái bị và cúi nhìn sát mặt chồng:

- Hai ông ơi! Các bác, các cô, các chú ơi! Bố cháu mệt quá, đờm lại kéo lên hay sao thế này?!!

Bác ta còn ghé tai vào nghe ở cả yết hầu xuống tới mỏ ác lại lên yết hầu:

- Hai ông ơi! Đờm kéo lên cứ ứ ứ ấy! - Tiếng nói càng líu ríu: - Hai ống chân, mà cả chân nữa, lạnh... lạnh quá. Lạnh hơn đông ngâm, như vậy thì còn đi đứng làm sao?!!

Rồi bác chồm hẳn lên, lập cập banh banh mắt chồng ra, òa tiếng:

- Không biết gì nữa rồi! Hai ông ơi! Bố cháu không còn biết gì nữa rồi!... Thôi hai ông với các bác, các cô, các chú cứ cho nhà cháu ở lại đây thôi!... Để cháu xem đêm nay còn chuyển bệnh đến thế nào? Chả lẽ giời cũng lại cướp cả chồng tôi? Chả lẽ, chỉ vì mấy hôm thôi mà tôi lại bị cướp mất thêm người nữa?!!

Chợt có tiếng tù và rúc lộng óc ở phía trong làng. Rồi nổi trống. Không phải ngũ liên mà là tiếng trống dõng dạc, hách dịch đôn đốc canh gác của một nhà quyền quý, giàu có. Một vùng lửa trước còn mờ mờ đỏ đục sau rực lên trong những lớp khói ùn ùn cuồn cuộn. Những ngọn tre và mấy chòm cây ở đấy phần phật như sắp bén lửa. Có mùi bò bê thui thoang thoảng trong gió.

Mấy người trong bọn Thơm nhổm nhổm hẳn lên chỉ trỏ bàn tán:

- Như thế trong làng chắc lại có công việc đây?

- Nghe nói làng to, tiên chỉ là cụ bá hộ nhà giàu lắm đang có việc.

- Thế thì bọn ta cứ tìm vào xem sao.

Ông cụ mù hỉ mũi, hướng mặt vào chỗ chú cháu Thơm:

- Không được đâu, ông ạ! Ta có lần vào được đến trong ấy thì cổng cũng đóng rồi. Mà đương thời buổi này, tối rồi, đến người của các quan trên tỉnh về gọi cổng, trong làng cũng mặc xác nữa là bọn ta lếch thếch, không biết ở đâu đến và kéo nhau đi đông thế này?!! Có thừa cơm, thừa gạo thì cũng chẳng đến cái thứ chúng ta rửa bát, quét sân!!!

Người mẹ nghe chuyện vội van vỉ:

- Vâng, vâng... hai ông, các bà, các cô, các chú cứ đỗ gánh lại đây với chúng cháu đêm nay. Đêm nay bố cháu mà qua khỏi.

Người chú Thơm đà đận mãi mới nói. Tình ý câu nói muốn theo sự quyết định của ông già mù. Dù đã tối, cả người còn trẻ, khỏe nhất cũng đều mỏi mệt, nhưng cứ nên xin vào trọ không được ở trong làng thì cũng ở ngoài xóm, ngoài ấp bìa làng. Chứ nghỉ lại chỗ gốc cây đây, nhỡ ra có xảy ra sự gì thì đầu chẳng phải lại phải tai, họ đổ cho mình là phường du thủ du thực định làm việc phi pháp, tụ bạ nhau thì biết cãi với ai?!!! Vả lại trong bọn có người ốm nặng, vào trong ấy có đun tí nước uống hay nấu niêu cháo, nồi nước xông, cũng không e ngại gì cả. Ngoài ra lại còn có thể tìm xem có thứ lá lẩu gì cấp cứu, may ra chạy chữa được cho bác Khoái Châu cũng nên. Ấy là chưa kể nhỡ giời nổi cơn nổi trận mà ở đây thì lấy gì che chống?!!

Cả bọn bước thấp bước cao dò dẫm theo chú cháu Thơm đi vào phía vùng lửa đang bốc. Thơm gánh cho bà con mọn. Cái anh mới nhập bọn lại cõng bác chồng ốm; ông già mù phải vịn vai thằng em anh nọ; ông không chống gậy, cố đi kịp mọi người.

Càng đến gần thì càng thấy lối này không phải lối vào cổng chính, và sao mà lắm ao chuôm và đường ngang lối dọc quá mấy. Đã thế, có quãng lại rào rấp toàn gai bồ kết và chông chà... Cuối cùng vượt qua được con đường mòn ở một bãi mua rậm rịt thì cả bọn đến một chòm xóm có mấy nóc nhà tối om, chẳng thấy tiếng người hay tiếng chó, tiếng gà gì cả, nhưng phía bên trong làng lửa đốt lại càng bùng bùng, tiếng người càng râm ran ào ào, đúng là đang đông đám.

Người đàn bà đứng tuổi và hai cô con ông cụ mù đi trước, lên tiếng:

- Bà ơi! Bà ơi! Các cụ trong nhà ơi!

- Thưa với các cụ trong nhà... Các cụ ơi!

Một nhà, hai nhà, ba nhà và là nhà cuối cùng. Bọn đàn bà con gái quay lại, kẻ chào, người gọi to hơn. Ông chú Thơm dấn bước lên, xua xua tay, ghé vào túp lều cheo veo cuối dãy:

- Cụ trong nhà ơi! Bọn chúng cháu đi nhỡ độ đường...

Cả bọn hồi hộp, nghe tiếng người thều thào như rên:

- Ai đấy?!! Không còn ai ở nhà đâu i i i!...

Ông chú Thơm quay bảo mọi người:

- Tiếng cụ bà... để bá nó và tôi vào nhà hỏi.

Hai người hắng giọng, cúi bước vào cái khoảng tối om và ngồn ngột mùi hôi hám quen thuộc:

- Cụ nào trong nhà ấy ơi! Bọn cháu đi nhỡ độ đường vào xóm đây xin cụ hớp nước.

- Đã bảo không còn người nào cả mà! Chết hết! Đi hết!... Hết cả người rồi.

- Có bà cụ! Có bà cụ ở nhà, bà con ta ạ! - Ông chú Thơm gọi mọi người, vui vẻ bảo xong, thì cúi hẳn xuống chiếc chõng:

- Cụ bà mỏi thế nào đấy! Bọn chúng cháu ở dưới Nam lên, tối rồi, tìm vào cụ chỉ xin hớp nước uống và nghỉ lại một đêm, mai gà gáy là đi thôi.

- Đừng! Đừng ăn thịt trẻ con! Chớ có đổi con cho nhau mà ăn! Hùm đói hùm dữ cũng còn không ăn con nữa là người! Thịt cũng biết khóc đấy. Thịt người...

Bà đứng tuổi lay lay đống chiếu:

- Cụ bà ơi! Cụ bà mỏi thế nào mà nói mê nhiều mấy?!!

- Không! Thằng Bờ mày định đưa về cho "bà" ăn, nhưng tôi không ăn đâu! Nghe thịt nó khóc mà giời đất vẫn cứ làm đói kém tao loạn. Nó bò, nó nhổm, nó tênh tênh mà ăn thịt nó à?!!

Cả ông cụ mù cũng đến bên chõng bà cụ chủ nhà. Khi hai cô con ông cụ cùng bà đứng tuổi mở chiếu đỡ bà cụ lên thì hình như đỡ một đứa bé lên bảy lên tám. Đầu trọc, ngực trần, xương thịt nhẽo nhèo, quấn manh giẻ vó. Mặc dầu một cô con ông cụ đã ngồi xuống cho bà cụ ngả người vào, nhưng bà cụ vẫn rúm ró, oặt về một bên. Ông chú Thơm kéo chiếc chiếu đắp lại cho bà cụ, rồi bảo xếp gọn các gánh và không nên bàn tán ồn ào. Ông đánh đá lửa châm bùi nhùi giơ soi. Mắt bà cụ vẫn không mở, chỉ nheo nheo. Bà chóp chép miệng, cái đầu trọc ngọ nguậy.

- Thằng Bờ đã về đấy à? Mày cho ta bát nước mưa... ta uống. Ta đã bảo không ăn nó đâu! Ta chỉ uống nước mưa thôi!

Cánh nhà bác phủ Khoái có mớ đóm nhựa trám. Bá Hà Nam rút một thanh to đốt lên thì mắt bà cụ đục lờ hé hé như định mở ra nhìn mọi người. Ông chú Thơm nắn nắn bàn tay lạnh nhũn của bà cụ.

- Cụ bà nhỉ, cụ bà cho bọn cháu ở đậu nhà ta đêm nay nhỉ. Nào cô nào đi lấy nước cho bà cụ uống đi. À! Cái lọ nước ở ngay chân cột kia kìa.

Bà cụ mút mút nước rót vào cái bát sành như trẻ con dại uống nước. Bảo hai cô gái đặt lại bà cụ nằm xuống, ông chú Thơm quay ra sắp xếp:

- Thôi, hãy tạm thế này nhỉ, nhà bác phủ Khoái và bá Hà Nam cùng hai cô ở trong này với cụ. Còn thì ở cả ngoài cửa. Đêm nay quang giời, có sao, không mưa được đâu! Ta cứ chờ xem lúc nữa có ai về không thì ta nói xin vào hai nhà kia nghỉ, bằng không thì nằm cả ở mái bếp cạnh đây. Mệt thì mệt, tôi cũng không ngủ ngay hay ngủ say được đâu! Tôi thức nằm nghe ngóng động tĩnh cho...

- Thế ông cháu không thổi nấu ăn uống gì à? - Bác Hà Nam hỏi.

- Kể ra có nắm rau nấu với muối mà ăn, không thì đun nồi nước lá vừa xông vừa uống giải cảm thì hay quá! Nhưng đến đây bây giờ thì làm sao còn có những thứ ấy được?!!

Ông cụ mù thở dài. Ở đằng góc nhà cắm que nhựa trám, bá người phủ Khoái, một tay ôm đứa bé, một tay vẫn vuốt vuốt mỏ ác cho chồng. Thỉnh thoảng bác còn cúi xuống mũi, xuống miệng chồng như để có thể mớm, có thể hà hơi sức thì cũng hà mớm cho. Những nhịp thở của người chồng càng khò khè, giần giật. Đôi khi như nghẹn lại. Chợt bác thở dốc u ú mấy tiếng rồi ưỡn trỡn yết hầu, ho sặc sặc. Cặp mắt vàng nhớt hé ra, trợn trợn đưa đẩy:

- U ó à... ôi i... ôi... i ôi i ôi!...

- Hai ông ơi! Hai ông ơi, các cô, các chú ơi! Bố cháu ngọng cả lưỡi rồi. Anh ơi là anh ơi! Sao lại khốn khó cho thân tôi thế này!... Anh ơi là anh ơi!... Anh bỏ mẹ con tôi giữa đường giữa chợ mà đi sao đành!!!

Người mẹ ôm chầm lấy ngực chồng, lay lay giật giật. Thằng bé khóc thét và ưỡn ưỡn người để toài ra vì bị đè nghẹt. Mọi người xúm lại, tất cả đều xớn xác thấy người mẹ bế cả con chồm dậy, móc móc giằng giằng giật một cái túi buộc chằng buộc chịt ở đáy thúng lên.

- Hai cô ơi! Gạo đây, hai cô lấy mấy lẻ đi nấu cho tôi niêu cháo! Anh ơi là anh ơi!... Anh mà bỏ mẹ con tôi đi thì mẹ con tôi sống với ai bây giờ. Hai cô ơi! Hai cô cứ nấu đặc đặc, ba bốn lẻ gạo cũng được! Anh ơi là anh ơi! Người còn thì của cũng còn! Nhưng tôi làm gì có của! Thôi, cứ để nhà tôi ăn lấy bát cháo cho hết cái nghĩa với tôi, rồi muốn ra sao thì ra! Ới giời cao đất dày ơi! - Người mẹ xốc xốc thằng con, rung rung mà khóc:

- Con ơi! Thế là giời cướp nốt bố con đi mất rồi!... Mẹ con làm gì mà nuôi nhau sống được đây?

Bà đứng tuổi và cô gái lớn ông cụ mù chỉ dám vốc lùm lùm hai lẻ gạo, lấy cái nồi đất nhỡ để nấu. Thơm, thằng bé mới nhập bọn và thằng cu con bá Hà Nam xuống cả bếp. Ở lại với bọn trên nhà, người chú Thơm và ông cụ mù thay nhau xoa bóp cho người bố hấp hối. Củi rào nỏ, cháy bùng bùng, tiếng nước reo và mùi gạo cháo. Ánh mắt của đám người vây quanh càng lấp lánh. Thơm vẫn đăm đăm nhìn những cành củi rèo rèo bọt và phần phật cháy làm nổi những đốm lửa li ti, loang loáng, chìm chìm, hồng hồng, tím tím, lúc ở mé trong, lúc ở mé ngoài, lúc leo lên gần miệng nồi. Cả người Thơm như bồng bềnh cùng những làn gió ù ù ngoài trời.

- Chú nhỉ, nhà bá phủ Khoái như thế là cũng có người bị đấy!

- Làm sao cháu biết?!! Bà ấy chuyện gì với cháu vậy?

- Chẳng chuyện gì với cháu nhưng mà cháu vẫn biết.

- Thằng này lạ thật! Này cháu, nghe chú dặn, cháu biết thì biết nhưng chỉ để bụng thôi đấy nhé. Cháu ơi! Tai vách mạch dừng bây giờ ma quái ở lẫn với người, dọc đường dọc sá lại càng phải giữ gìn!

Thế là chính ngay chú Thơm cũng lộ liễu rồi! Nhưng người nhà bá phủ Khoái Châu bị như thế thì xử ở đâu? Xử thế nào, xử với ai? Chắc là cũng bị gần đây thôi, không trong đám ông giáo gì hay chữ mới nổi lên ở Sơn Tây thì cũng đi theo ông gì nổi lên ở Nam Định. Mà không chừng là người của ông Ba Vành cũng nên?! Thế ra người anh của bá này cũng là giặc, cũng làm loạn, cũng bị chém. Nhưng có người nhà, rõ ràng bị chém vì tội là giặc, làm loạn thì phải bỏ làng bỏ quê bỏ quán đi tha hương cầu thực, chứ đây, từ khi Thơm có trí khôn, Thơm có bao giờ nghe thấy chú Thơm hé răng với Thơm chuyện ông Thơm, chuyện cha Thơm, cũng là người như thế, cũng làm như thế, cũng bị như thế, nên hai chú cháu cũng phải lẩn lót đi kiếm ăn ở hết tỉnh này sang tỉnh khác. Đã phải lẩn lót đi kiếm ăn hết tỉnh này sang tỉnh khác hàng chục năm rồi cũng vẫn không yên tâm, tới nay lại còn định đi biệt lên rừng xanh núi đỏ, mai danh ẩn tích mà sống ở đây!

Chú ơi! Ừ thì chú phải giấu các quan lại sai nha, chú phải giấu mọi người thiên hạ, nhưng lẽ nào chú cũng giấu cả cháu nữa! Chú kín đáo, ý tứ đến nỗi cháu đã không hề nghe chú thở than các nông nỗi oan khiên đau tủi này, mà còn nhiều lúc cháu thấy chú làm cơm cúng ông cháu, cha cháu, cháu cố nghe chú khấn ra sao cũng lại không được nghe.

Những vầng mây và khí núi nhiều lúc như dòng lũ mực cuồn cuộn tràn qua trời đêm. Đồi bãi và các rừng cây càng mờ mịt. Nhưng có mấy vì sao ẩn hiện vẫn long lanh như mắt một giống chim giống thú rất to, rất lạ bay, bơi, nhấp nhô trong mây không muốn rời bỏ những người trông vời nó.

Những tiếng vang âm. Của gió, của rừng, của núi, của suối, của khe ngòi, của đồng không mông quạnh, của thăm thẳm trời mây, của hun hút đêm tối và xa kia.

Vùng sáng giữa làng đã ngàn ngàn lửa khói, nhưng không hiểu trong ấy lại thắp thêm những gì mà vẫn như có mặt trời mọc thế kia. Còn sự ồn ĩ, inh ỏi thì chỉ ở phía bụi tre hay bờ giếng, bờ ao xa đây. Đúng tiếng trống con, tiếng trống cơm đang bập bùng với tiếng sáo, tiếng sênh ríu rít, dập dìu. Hương sạ, hương trầm thoảng ngát.

Bọn đàn bà con gái nấu cháo cho nhà bá phủ Khoái ở dưới bếp đang kiếm cái lót tay để bưng nồi lên, thì thấy bước chân rậm rịch, thì choàng cả người trông ra sân. Toàn những tay thước, gậy bịt sắt, thiết linh và giáo mác ập đến.

- Quân nào ở đâu mà kéo vào đây đông thế này?

Bá Hà Nam vội chắp tay níu ngay cái người chống tay thước, quát hỏi nọ:

- Bẩm... bẩm chúng con nhỡ độ đường, đến đây tối quá, trong bọn chúng con lại có kẻ liệt, đang hấp hối, chúng con không dám gọi cổng sợ trong làng các cụ các ông có việc! Bẩm! Bẩm... chúng con mạn phép.

- Bọn bay đi đâu mà nhỡ độ đường?

- Bẩm... bẩm thầy... quê chúng con bão lụt mất mùa đói kém cùng kiệt quá, chúng con nghe nói trên Thanh Sơn...

- Hừm, hừm, chúng bay chạy đói lên Thanh Sơn hay theo giặc châu chấu đang bị truy nã, trốn lên Thanh Sơn?

- Bẩm thầy... thầy là chức vụ đương thứ sở tại, chúng con là con em dân lành đói khổ nơi xa, xin thầy đoái thương mà xét tình cảnh cho chúng con.

- Thế chúng bay ở đâu?

- Bẩm thầy, toàn những dân vùng đói cả!

- Ai chả biết là vùng đói! Bây giờ thì còn đâu là vùng no! Mà kìa trên nhà bà thằng Bờ sao mà cũng nhiều người thế kia?

Tên trương tuần đã nhô ra khỏi bọn tuần tráng, nhưng lại đứng sững, hít hít:

- Chúng bay đun nấu gì thế?!! Đói mà vẫn còn gạo à?

- Bẩm thầy, chúng con đã bẩm thầy rằng chồng bá phủ Khoái và cả thằng con bé bá ta cũng nóng sốt từ mấy hôm nay ốm liệt, bá ta còn mấy lẻ gạo nhờ chúng con nấu cho lấy tí nước gọi là có hơi gạo để đổ cho chồng con...

- Hà hà!... Gọi là... gọi là, những lưng một nồi cháo đặc thế này! Đến người khỏe đi cày về cũng chẳng có mà ăn! Ất! Ất! Mày bưng hẳn lại đây cho tao xem nào.

Tên cầm giáo như vồ lấy nồi cháo. Nó lót bằng cả tàu lá chuối khô, chiềng ra cho tên trương tuần cúi hẳn mặt xuống, mà hà hít.

Người bá Hà Nam run bắn, tiếng nói lạc hẳn đi:

- Thầy ơi! Bẩm thầy... quả chồng bá ta đang hấp hối mà thằng con thì lại đang cơn sốt, thầy sinh phúc cho... cho kẻ ốm liệt, cùng kiệt... Trong làng... trong làng đang có cỗ bàn. Các thầy, các chú sinh phúc cho.

Thằng cầm gậy bịt sắt vàng lục, lảu bảu:

- Một con bê bốn tháng với hai con dê như hai con chó ghẻ thì bôi mép quan phủ, quan huyện và hai ông xuất đội cũng chẳng đủ nữa là, lại còn hàng chục cơ lệ với lũ con hát. Đến người nhà kẻ hầu người hạ, còn phải tranh nhau cả bát nước xít kia kìa...

Tên trương tuần lại dõng dạc nói nhưng không giận nổi sự sốt ruột:

- Ất! Thì mày sinh phúc sẻ lại cho bố con thằng ốm kia một nửa, còn thì đưa về cho thằng Thập nằm ở điếm ngoài kia... Kìa... kìa!... Cái mảnh gáo dừa ở ngay đống lá ấy, sẻ lại cho chúng nó, sẻ đầy đầy cho chúng nó.

Cái tay thước gỗ lim khua khua gõ gõ chan chát vào cửa vào cột túp lều.

- Những đứa nào ở trong ấy, ra cả đây trình diện. Ố ố ố! Sao mà lại đông hơn mấy?!! Một này, hai này, ba này. A! Cái thằng này còn sức vóc như thế đi làm quân lương thì gánh cả bịch thóc cũng được đấy!... Nào nào vợ chồng con cái thằng ốm liệt đâu. Thôi thôi... cứ ở trong ấy!

Ất đã quơ quơ những mo tre, lá khô và cành rào định châm lửa đốt thành đống. Tên trương tuần vội vàng:

- Đừng, đừng! Đem thanh đóm nhựa trám ra đây để tao xem mặt mấy thằng này thôi!

Thanh đóm cháy phùn phụt khói đưa qua đưa lại từ mặt ông cụ già mù, ông chú Thơm, anh trai mới nhập bọn, sang đến mặt hai cô gái. Thơm, thằng em anh con trai.

- Thế những đứa nào có đồ đạc tiền nong gì thì phải bỏ hết ra cho ta kiểm. Ta kiểm, ta giữ cho, sáng mai hay lúc nào ra đi thì ta hoàn lại cho cẩn thận. Kẻo nữa bọn bay đến đây ngủ đỗ ngoài này, nhỡ ra mất mát, ta lại mang tiếng canh phòng không nghiêm mật và mang tiếng cho cả vùng này nữa!

Mọi người ruột gan như bị bóp bị xoắn, bị xẻo khi tên trương tuần vừa dứt lời, thì tất cả những gánh, những tay nải, những bị, những gói tiền dỡ hết ra... Kìa kìa... trong thắt lưng, ở cạp quần, gấu áo kia còn có gì nữa!... Đã bảo phải trình tất cả để ta kiểm... ta giữ cho mà! Cái tay thước liền khua lên như sắp đập vào mặt, vào mũi, vào đầu mọi người. Thằng cầm giáo cắp nách giáo, thằng cầm gậy cắp nách gậy, thằng cầm thiết linh cắp thiết linh, để rảnh tay lần lưng, nắn bụng từng người trong bọn Thơm.

- Kìa cái con mẹ kia lại còn túi gì nữa ở cạp quần ấy! Ất! Ất, mày lấy dao mà cắt phăng nó ra chứ còn cởi với tháo làm gì! Rồi kiểm cả thằng chồng nó nữa. Xốc nó ngồi hẳn lên mà kiểm.

Tên trương tuần phải cố giữ sự lạnh lùng như con hổ đã chắc chắn vồ sống con mồi quý hiếm ở trước mặt mình. Nó đếm thầm đúng năm mươi hai đồng tiền Tự Đức mới đúc mà thằng Ất cứ mắt la mày lét, quắp quắp bàn tay định làm cả cái trò quái quỷ với "bố" nó, diễn ngay trước mắt "bố" nó kìa!

⚝ ⚝ ⚝

Ở gian nhà bỏ hoang tên trương tuần cho phép bọn đàn ông và ba bố con ông già mù ngủ đỗ, Thơm càng căng cả mắt. Bên kia, bác phủ Khoái được mọi người bón cho hơn môi cháo rồi nặn bóp chân tay thì hồi hồi lại. Nhưng người vợ càng như cuồng. Chị khóc chán lại kêu rên, kể lể. Đang kêu rên kể lể lại chồm chỗm lên khóc. Khóc đến rũ người ra.

- Cả bọc gạo, bọc khoai khô và năm mươi hai đồng tiền đồng của tôi mà họ kiểm... họ giữ.. Giời ơi! Họ cướp... họ cướp mất rồi, giời ơi là giời! Thế này cả vợ chồng con cái nhà tôi đến chết đói hết thôi!.... Giời ơi! Cả năm mươi hai đồng tiền đồng, cả bọc khoai khô... cả bọc gạo...

Từng tiếng nấc, tiếng nghẹn, từng lời rên rỉ cứ như dao nứa cứa vào bên tai Thơm, như mỡ sôi rỏ vào ruột gan Thơm. Gà đã gáy nửa đêm. Tiếng tù và, tiếng trống, tiếng mõ cầm canh có quãng đã chệch choạc. Trăng sắp lên. Một quầng đỏ như tiết gà đang he hé nhờ nhờ...

- Thơm! Mày dậy đi đâu?

Người chú chới với níu lấy ống quần cháu. Thơm phải ngồi xuống kẻo rách quần:

- Chú cứ nằm ngủ, cháu đi đây chỉ một nhát thôi!

- Cháu đi lấy lại các thứ à? Để chú đi với cháu.

- Đừng... đừng chú ơi! Để mình cháu thôi! Hai người dễ động. Chú! Chú! Thôi buông cháu ra, tiếng chó cắn lắc nhắc càng nhiều rồi! Để nó về nhà tẩu tán đi thì ai oán quá! Chúng nó thế nào chả được ăn vèn những mâm thừa với đám kẻ hầu người hạ trong nhà lão bá hộ, nên chưa động đến gạo, khoai... Chú! Thôi cháu đi đây... Mà chú phải sắp sửa, hễ cháu về là chú cháu cùng vợ chồng bá phủ Khoái đi ngay thôi....

Nhanh hơn con sóc, Thơm băng xuống tràn ruộng hoang um tùm lau sậy rồi vượt lên hai sườn đồi tắt qua điếm canh đến chỗ tiếng chó đang cắn ran cuối xóm. Đây rồi, thằng nọ đã kéo cánh liếp vào nhà, vợ nó lục sục dậy xuống gian bếp thổi lửa. Kia kìa... nó dúi cho vợ nó gói to cơm, nắm vội, cứ tả vãi ra chiếu. Lại một miếng thịt, không, chỉ là cái móng bê gặm dở và một vốc hành tươi, dưa muối. A ha! Cái gói đồ của bọn Thơm nó không giở ra, treo lên con sỏ ở góc trong giường. Nó giục vợ nó ăn, nó giục vợ nó nằm xuống với hai đứa con còn bé... Nó đã dập dập cái bùi nhùi, khói lửa khét mù. Đầu Thơm lót bên đống cỏ khô lá khô và cành rào, Thơm áp mặt, áp tai vào bức vách và quăng quắc mắt nhìn. Trong người Thơm nóng rực và càng như có kiến bò. Thơm chửi thầm một câu và nghĩ đến thằng nọ sáng mai sẽ phát điên rồ, với bọn tuần tráng. Còn bọn tuần tráng thì có thể ăn gan uống máu ngay thằng nọ, nếu có đứa trong bọn không nén nổi máu uất mà dám đâm dám chém thằng nọ. Thơm nghĩ đến cả ông già mù và hai cháu gái, bá Hà Nam và thằng con bé. Không! Không! Như thế cả bọn lại phải cùng đi... đi ngay đêm nay.

⚝ ⚝ ⚝

Người chú đón nghe bước chân cháu Thơm từ xa. Cả hai chú cháu đều luýnh quýnh. Không hiểu vì linh tính thế nào mà ông cụ mù ở bên này, bá Hà Nam ở bên kia cũng choáng choàng ngồi dậy. Tiền này, gạo này, ba vuông khăn này, hai bao lưng này, đôi áo chưa vá này... tất tật vừa bị cuộn làm một bọc to đem đi, nay lấy về đủ. Người chú Thơm đến ông cụ mù đưa những thứ gì là của ông con nhà cụ và dặn bảo xong, đã đứng lên sắp bước ra cửa thì ông cụ còn túm lấy cánh tay rung rung, giật giật xuýt xoa, tấm tắc cám ơn.

- Chú ơi! Chú ơi!

Nghe thấy tiếng Thơm gọi hớt hải, người chú quay lại:

- Gì thế cháu, ta sang đưa đồ và bảo nhà bá phủ Khoái và bá Hà Nam thu xếp đi ngay đây mà.

- Kìa, chú hãy gượm tí nào, cháu còn có việc.

Người chú hơi luống cuống ghé ghé ngồi xuống chỗ cháu. Thơm lại đứng lên:

- Chú này, chú và mọi người cứ đi đi nhé! Bọn ta tắt qua ngòi, lộn xuống đồi ba cây rồi ra bờ sông. Cháu đi sau, cháu đi sau.

- Sao lại thế, cháu à?!! Có chuyện gì thế?!!

- Còn vuông vải điều của bố cháu!... Cháu phải lại lấy.

- Thôi thôi cháu à... ngỡ là chuyện gì!!!

- Cháu phải lấy lại... chú ơi... vuông vải ấy nó vắt ngay trên cái sào ở đầu giường, nhưng cháu vội quá!...

- Thơm! Thơm! Thôi thôi Thơm ơi!...

- Chỉ một nhoáng là cháu theo kịp thôi! Chú bảo thằng cu gì ấy chịu khó đỡ cho bá phủ Khoái một quãng cháu về cháu gánh cả cho...

Đám người như mọc cánh. Anh trai tráng cõng bác phủ Khoái ốm đi trước, chống một khúc đòn tay tre đực như vừa làm gậy vừa làm khí giới. Ông cụ mù vịn vai thằng em anh ta để cô gái bé gánh đỡ người mẹ. Cô gái lớn gánh đồ cho bá Hà Nam dắt con. Hai người mẹ cũng lấy hai khúc tre làm gậy đi đoạn hậu với ông chú Thơm. Mặc dầu cả ông cụ mù và ông chú Thơm, khi mọi người đã cất gánh tiến ra ngoài bãi sim rồi vẫn còn căn dặn rằng đi đường thì ai nấy phải "ngậm tăm", nhưng hai người mẹ thỉnh thoảng lại xuýt xoa lào thào với nhau. Sang khỏi cái cầu ngồi ọp ẹp chông chênh, rẽ vào con đường tắt rồi mà đằng sau vẫn im ắng, thì bá phủ Khoái sụt sịt khóc, khóc hẳn thành tiếng, và lại kể lể:

- Anh Thìn ơi! Anh sống khôn chết thiêng thì mới run rủi cho vợ chồng em gặp may gặp mắn như thế này. Anh ơi!... Em đã lo liệu mồ yên mả đẹp cho anh rồi, vậy thì đứt hương nhưng vẫn còn khói thì anh phù hộ độ trì sao cho...

Người chú Thơm kêu thầm, chậc chậc lưỡi:

- Lạ thật! Lại cùng cảnh với mình!

Ruột gan càng như có lửa đốt, ông lại ngoái nhìn. Vẫn chưa thấy hút bóng Thơm. Ông thở như bị đá đè.

⚝ ⚝ ⚝

Đúng Thơm bị bắt.

Thơm đã bò được vào nhà, lại chui qua gầm giường, kiễng người rút vuông khăn điều vắt trên sào, rồi trở ra. Trong đêm tối như bưng lấy mắt, tưởng chừng đến rắn cũng chỉ êm chỉ nhẹ bằng Thơm thôi. Sắp tới bờ rào vượt ra ngoài vườn, bỗng Thơm thấy sa sẩm cả mặt mày vì vấp sụt xuống một hố sâu rất lạ và một bàn chân Thơm như có gươm đâm suốt qua, buốt lên tận óc. Bọn chó con xồ ngay đến. Rồi cánh cửa liếp đẩy đánh rầm, thằng trương tuần xách tay thước như đã rình từ lâu, chụp một cái gì như cái nơm sắt lên miệng hố.

- Không! Sao mày không phải là con chó to hay con cầy, con cáo con dông mà lại là như người lục sục thế này?

- Ông cứ để tôi lên! Ông cứ để tôi lên mà!...

Ối giời tiếng trẻ con! Đúng tiếng trẻ con! Thằng nọ cũng có một thứ linh tính riêng biệt. Nó sực nhớ ra cái thằng bé kia và cắp mắt ban nãy đã chằm chằm chỉ nhìn vào nó. Nó cũng liền nghĩ ra không biết bao nhiêu việc ghê gớm của thằng bé nọ đã làm. Nó liền cười sằng sặc.

- Con ơi! Thằng bố con không biết gan to như thế nào mà đẻ ra con, để con dám bạo thiên nghịch địa, như thế này?!! Muốn sống hay chết thì phải nói ngay... nói ngay... bọc tiền nong và các thứ của chúng bay, mày vào lấy trộm lại ông rồi phải không?

- Đây! Đây! Ông hãy để tôi lên. (Thơm nghiến răng cắn bập lấy môi để như làm chết cái đau buốt của bàn chân như bị gươm đâm suốt kia). Tôi nộp hết lại cho ông! Ông hãy để tôi lên.

Nó không cười mà hú lên:

- Thì cứ đưa cái bọc đã! Cứ phải đưa cái bọc lên trước để tao xem đã.

Thơm phải nhuốt nhuốt ngụm máu ứa ra đầy miệng:

- Ông à! Cái bọc chú tôi ôm ra trước rồi. Tôi đã dặn chú tôi cứ chờ tôi!

- Giời ơi! Thằng quỷ! Thằng quỷ! Ông phải chôn sống mày! Thằng chú mày chờ mày ở đâu?

Trống ngực Thơm đập dồn, Thơm lạnh toát đến xương tủy vì mừng rỡ:

- Chú tôi chờ tôi ở ngoài đồi kia! Ông để tôi dẫn ra ngay, kẻo chờ lâu, không thấy tôi ra, chú tôi đâm sợ, bỏ chạy thì hỏng bét.

Thằng nọ lại rít, lại gầm gừ:

- Ông mà mất cái bọc này thì ông phải giết chết mày! Mày phải chết ngay, phải chết ngay, ông mà mất cái bọc này.

Cái nơm hé ra. Nó quát:

- Mày muốn sống hay muốn chết? Muốn sống thì phải đưa hai tay không lên trước, có dao có gậy thì phải vứt đi. Chập hai tay vào cho khít để ông trói rồi ông cho lên.

Thơm phải làm ra giọng van vỉ:

- Ông ơi! Thế ông không cho tôi gỡ cái bàn chông bẫy sập à?

Nó lại cười sằng sặc:

- Quỉ ơi là quỷ! Mày khôn ngoan quái quỷ với ai chứ với ông sao được! Cứ để cả cái bẫy chông sập mà lên mà đi... Nào giơ cao hai tay nữa lên.

Không phải dây thừng mà là cả một trạc trâu thít hơn bó gò lấy hai cánh tay Thơm. Nó lôi xềnh xệch Thơm lên. Thơm phải đạp đạp mà nhoai nhoai người lên, đau như đứt ruột. Thơm chưa kịp đứng thẳng, nó đã rút quặt hai khuỷu tay qua đầu và ghì xuống hông bên bắp chân bị ngoạm lủng lẳng cái bẫy chông sập.

- Hễ mày chỉ kêu lên một tiếng thì ông cho cái tay thước này ăn rập ngay sống mũi mày. Thôi đi... nhảy nhảy mà đi... ông làm phúc dắt, đỡ cho mà đi...

Trăng đã lên, như một đĩa mẻ máu ôi máu đọng. Thơm nhảy nhảy lết lết. Thằng trương tuần một tay túm giữ người Thơm, một tay lăm lăm cái tay thước. Liếc mắt nhìn trời sương, rặng núi xa mù mịt, mảnh trăng sao mà gớm ghiếc và bốn bề lặng ngắt, Thơm cứ trở đi vật lại ý nghĩ:

- Không! Mà cũng không cần phải đi tới cái cầu ngòi Thơm mới húc cả người nó cùng Thơm đâm xuống vực, mà Thơm phải húc ngay bây giờ cho nó ngã mà cắn chặt lấy mũi nó, cắn nát cả mặt nó, lấy hai bắp đùi quặp chặt lấy bụng nó, thúc vào bọng đái nó... để có chết cùng chết. Chứ đi như thế này, đau như thế này, thì Thơm sẽ không còn đủ sức mà chịu đựng thêm được nữa!

- Chú ơi! Con chết đây! Con chết mất đây!...

Bỗng Thơm nhuốt ngụm máu sao mà thấy to thấy mặn quá thế! Thơm thở hưng hức.

- Không! Không! Nó phải chết chứ ta không chết! Ta sẽ vừa cắn vừa ghì giữ nó cho đến lúc nó chết rồi ta sẽ chạy với cả cái bàn chông bẫy sập này ta về với chú ta... Cũng như nếu ta có húc nó xuống ngòi thì ta cũng ghì cho nó chết ngạt rồi còn một chân thì ta bơi ngửa đỡ được quãng nào hay quãng ấy, ta men lên bờ tìm đến chú ta.

Chợt từ trên phố phủ cả một vùng trời cứ bừng bừng ngùn ngụt mãi lên. Tiếng trống ngũ liên đổ dồn hơn cả lúc đang có lũ đổ về mà đê vỡ. Tiếng tù và rin rít không còn biết rúc lên từ đâu và bao nhiêu người kêu gọi. Những tiếng nổ như ống lệnh của tre nứa bốc cháy, vừa dứt ở phía này lại tiếp liền phía khác... Tiếng người hò gọi kêu thét thì rền rền như sấm ở cả bốn góc trời.

Trong làng đang im ắng, bỗng rùng rùng chuyển động. Khu nhà bá hộ lại bật đèn bật đuốc, nhưng lần này hỗn độn nhốn nháo một cách lạ quá vì những tiếng quát của quan tri phủ truyền lệnh cho cả quan tri huyện và hai tên xuất đội đốc thúc quân gia mình trỗi dậy...