← Quay lại trang sách

Chương II

Tung... tung... tung...

Tiếng trống ruổi quân nghe ra thì vui, nhưng trông mặt quan tri huyện, nhất là quan tri phủ, sao mà tã tượi bực bội, lo lắng thế kia. Hai viên xuất đội cưỡi ngựa đi trước, theo sau chỉ có bốn lính giáo mác hẳn hoi còn thì là một lũ tuần tráng quần áo nhếch nhác vác đủ các thứ gậy gộc, dao quắm, mã tấu vây kín lấy ba kẻ bị trói mà mọi người ở hai bên đường cứ chồm chồm lên nhau, đón trước chạy sau để nhìn tận mặt xem quân châu chấu ấy là người ở đâu, vẫn lấn lót về đây, vẫn còn bị bắt thế này? Quan tri phủ, tri huyện đi sau. Theo hầu bên ngựa của hai quan còn có thêm cai cơ và viên lục sự vừa từ trên phủ chạy về đón và tất cả lính đều nai nịt cẩn thận, khí giới tua tủa. Nhưng khí thế thì không oai vệ như buổi chiều trảy quân đưa quan về cái làng xa nhất vùng Quốc Oai lại an cư lạc nghiệp mà trên tỉnh đã tâu về trong triều mà nhà vua rất lấy làm bằng lòng họ.

Tuy vẫn đeo hài ngà và đội nón lông, chóp bạc, nhưng cả hai quan đều chít khăn rất chặt, đã thế lại còn bao khăn bằng cái mũ dạ bịt tai, và đều mặc áo đoạn thâm, cả vạt trước vạt sau đều cuộn lên gài khít. Còn hai tên lính vẫn che cái quạt lông to như cái tàn nay không cầm quạt nữa mà cũng bồng gươm tuốt trần đi sát ngựa quan.

Cắp mắt voi của quan tri phủ đã sắc đã nghiêm, giờ đây lại đăm đăm vì lo nghĩ, căm giận, nên càng làm mọi người chú ý bàn tán. Rồi khi nhìn đã kỹ ba tên giặc châu chấu tàn quân của quan giáo Quốc Oai họ Cao nổi tiếng là thơ hay chữ đẹp nhất Bắc Hà kia, thì họ lại càng xôn xao.

Kẻ bị đóng cũi là một người gầy guộc, đầu tóc bù xù áo nâu cúc tết, quần lá tọa, nếu không phải là phó mộc, phó sơn, phó cối thì cũng là phó may, phó mã hay đi hàn nồi, bán quạt, bán điếu, mà ta thường gặp ở các chợ, các phố phủ, phố huyện. Còn kẻ nhốt trong rọ đúng là một thằng bé không hiểu đã đâm chém giết chóc ai mà quần áo mặt mày chân tay đều bê bết máu. Một bắp chân và ống quần của nó sũng máu và máu cứ tong tong dọc đường. Nó đã bị trói bằng dây tam cố lại còn đóng một vòng sắt ở cổ, ròng lòi tói, để một người lính giữ, lăm lăm thanh mã tấu trên đầu nó.

Nhưng đến thằng thứ ba tuy chỉ bị trói giật cánh khuỷu vào một đòn tre và buộc dây thòng cổ dong đi thì nhiều người bàng hoàng, kinh lạ quá sức lẽ mình và cứ phải thờ thẫn ngờ ngợ hay mình nhầm. Nếu đúng thì đúng là thằng trương tuần người xóm ngoài Trại Vải, phiên chợ chính nào nó chả đưa chó lên bán cho quán rượu Hai Oẳng ở cổng bãi chợ trâu?!!

Không như mọi khi cứ thấy quân lính đi tuần tiễu thì nhiều cửa hàng và nhà ở dọc đường những nơi đông đúc đều nếu không thu bớt chõng ghế hay tạm đóng cửa, thì cũng buông mành, hạ bớt các cửa ở mặt đường xuống để tránh các "kiêu binh" và các quan "tướng" đi đánh dẹp vất vả thắng trận trở về, thỏa sức bắt người phục dịch, hối hả gọi mua bán đổi chác và lùng sục rượu, thức ăn. Hôm nay họ bán hàng như thường. Nhiều nhà chỉ khép khép một bên cánh liếp cánh cửa. Khách ăn uống cứ ăn uống, khách thăm hỏi chuyện trò cứ chuyện trò. Ở mấy nhà có các cụ đang uống chè, ngâm thơ, bình luận cổ kim chi sự thì cứ pha thêm chè mà thơ mà chuyện các chuyện kim cổ cổ kim.

Duy những ai có việc lên hầu phủ thì đều đứng ngồi không yên, mọi sự lo lắng, buồn bã, khổ sở hiện hết cả lên nét mặt! Chầu chực ở cổng phủ hay chờ đợi ở các nhà các hàng mối manh quen thuộc với người trong phủ, họ thấy như mình sắp bị giải vào điện của Diêm Vương, không biết chừng những tai bay vạ gió, những điều vô phúc, chẳng lành lại đổ xuống chính đầu mình cũng nên.

- Có phải bà lão mù vẫn ngồi ăn mày ở cổng chợ chỉ sờ lần quét những thóc rơi thóc vãi gánh trong khi đi đường mà cũng được lưng rá phải không?

- Giời đất! Bánh bày cỗ trông giăng vẫn còn mà để mốc để khô như củi hết a?

- Bao nhiêu mâm đồng, chậu thau chảy quánh lại, phải phá tường gạch ra mới cậy, mới dỡ được.

- Tiền đồng từ đời Gia Long mà thành đống thành cối đấy!

Không biết bao nhiêu chuyện và tiếng thầm thì, rì rào ở cả trong nhà, các đám người trông theo quan tri phủ và đám tù dong...

Qua khỏi ngã tư đường cái xứ, người họp chợ giăng giăng, ngựa quan đi vào một quãng đường lát đá tảng. Tiếng chùm nhạc xoang xoảng càng chót càng lọng xóc không những ở bên tai mà cứ như thúc vào mỏ ác của quan tri phủ.

Sao như vẫn còn khói ri rỉ trong lũy tre khu sau dinh cơ ông  nhạc bà bé của quan ở làng trong thế kia? Chúng nó đã cướp của mà lại còn đốt phá nữa! Cái lẫm thóc và kho mật, kho muối chứa đầy như vậy mà tan hoang, sạch sành sanh ư? Lại còn một kho đồ đồng, vải lụa quần áo người ta cầm cố? Lại còn một kho những đồ gỗ đồ thờ tự, quan ký rấm ở đây, chỉ chờ thuận chuyến là chở về quê. Giời đất ơi! Đã đau vì mất của, lại còn lo vì khiển trách. Tổng đốc là quan thầy mình đấy, nhưng còn bao nhiêu miệng khác nữa, vàng bạc đồ lễ nào lót mồm đấm họng cho xuể để cơ sự này khỏi bay vào trong triều.

- Làm sao mà biết được cái thằng nào, con nào vô ý vô tứ để cháy nhà bếp hay đống củi khiến cho tan hoang như thế kia nhỉ?

- Giá mà có thằng nào, con nào tháo vát giúp dập cho ngay lúc bén lửa nhỉ?

- Làm sao mà có được một đứa nó khai ra tên thủ xướng hôi của cướp thóc của ta bây giờ?

Tên tri phủ trong bụng thì thẩm bẩm xuýt xoa, cầu khẩn, ngoài mặt lại càng lập nghiêm đến nỗi khi trống ở cổng phủ đổ hồi đón quan đi công cán về, nha lại lính tráng ràn ra luống cuống chắp tay vái chào, ngẩng đầu lên thấy quan đã vút đi khỏi, thì họ bàng hoàng như vừa qua một cơn sét đánh.

Hai quan đuổi hết lính hầu trà ra ngoài, chỉ uống xong tuần nước bèn đăng đường ngay.

Cổng phủ đóng chặt. Trong không cho ai ra, ngoài cấm mọi kẻ vãng lai nhòm ngó. Lính tráng vòng trong vòng ngoài. Đằng sau và ở hai bên ghế quan ngồi đều có lính bồng gươm và mã tấu. Toàn là những chân tay thân cận nhất. Các thứ roi song, gậy lim, chày sắt, bàn vả, mũi gai, kìm kẹp, hỏa lò, nước muối, nước điếu, dây thừng, gông xiềng bày khắp mặt đất. Bốn tên đầu trọc, lưng trần, đen trũi, mặt mày xám xám, bì bì, càng trông càng thấy như không phải mặt người, chúng khoanh tay, ngồi xổm, gân thịt cứ rung rung giật giật, luôn luôn ngọ nguậy, liếm môi, đảo mắt. Tên trương tuần Trại Vải phải ra chịu đòn và khai trước về tội ngu muội, quen ăn bẩn uống thỉu, đón được lõng giặc rồi mà để chúng cướp lại khí giới tẩu thoát hết, may mà có lính quan phủ sai đi bổ vây, không thì tính mạng cũng chẳng còn mà lại còn mở đường cho giặc tràn về các làng nữa. Còn hai tên giặc, một tên vẫn còn quàng cả cờ đỏ, vải đã thẫm máu và trong người có không biết bao nhiêu dấu tích vừa vết thương cũ, vừa vết thương mới. Một tên còn đeo ở chân nguyên cả tấm bẫy chông sập ở hào nơi nhà chúng cướp phá...

... Sau trận khóc lóc rên xiết kêu van của tên trương tuần, thì cả khu công đường lặng bặt. Chỉ thấy tiếng quát tháo, tiềng gầm rít, tiếng thở như trâu cày, bò kéo đói mệt phát cuồng, tiếng roi gậy vút véo như mưa, tiếng sắt tiếng gỗ loảng xoảng thình thịch. Ở cuối gió ngoài xa, chợt người ta thấy thoang thoảng một mùi gây gấc khen khét ghê rợn vô cùng.

Mấy người đàn bà và ông già bà lão vẻ mặt ai oán thở cứ sườn sượt, thì thầm với nhau:

- Lại khảo kìm chín đấy!

- Phải khảo đến kìm chín rồi đấy!

Cái kìm nung như một con cuốc, con quạ đói hay con cá ngựa khô đét, đen trũi, mà mỏ thì đỏ cháy đỏ sùi, cứ như mổ mổ và rúc rúc, ngoạm ngoạm, xèo xèo thật vào mông vào háng vào ngực vào vú mọi người. Mấy bà đang ăn ngô rang bỗng rùng mình nhăn mặt, ọe ọe và kêu giời, kêu rít lên.

Mặt viên tri phủ càng bầm bầm như tím hết cả máu cả thịt. Trong khi những roi gậy túi bụi rầm rập lên người chú cháu tên giặc ở trước mặt y, thì cũng túi bụi rầm rập những kèo những cột rui mè, sàn tre, hòm gỗ, bồ to, thúng lớn bị cháy bị sập bị đổ, bị phá, bị cướp giữa những tiếng reo hò còn hân hoan, hỉ hả một cách khác thường và lạ lùng vô cùng, chứ không như tiếng quân quyền của hắn đã đi theo các quan trên đánh dẹp suốt mấy năm nay ở các nơi trước đây.

⚝ ⚝ ⚝

- Khảo!

- Duýt... uýt... giời ơi!

- Cứ khảo!

- Duýt... uýt...

- Quê mày ở làng nào, tổng nào, huyện nào hay phủ nào, ở Hưng Yên hay ở Bắc Ninh chứ mày không phải người Nam Định, Thái Bình. Mày cứ còn khai dối thì... chết.

Tiếng "chết" của tên cai khảo vừa dứt thì vút, vút vút ba ngọn roi mây quất tiếp nhau xuống hai bên mông người chú, chỗ thì ứa thêm máu, chỗ thì đỏ đỏ đen đen sùi sùi sau trận kìm nướng. Từ nửa người dưới tuy đã như tê như chết hẳn, nhưng cái đau lại không ở đây mà lọng lên tận óc. Mỗi ngọn roi không phải chỉ đứt thịt người chú ra, mà đúng là đứt cả gân mạch ở hai thái dương và đỉnh đầu nữa.

- Làng nào? Tổng nào? Huyện nào? Phủ nào? Hưng Yên? Bắc Ninh?

Mỗi làn roi là một nhịp cho từng tiếng tra hỏi nọ. Mà từng tiếng từng tiếng tra hỏi nọ càng dồn dập một cách bất lực, thì lại càng như từng cục than hồng ném thêm vào bếp lửa đang đun sôi âm ỉ một vạc dầu đó là tâm trí, đầu óc của quan tri phủ từ lúc ngồi xuống cái ghế có nệm lót thêu chỉ ngũ sắc như cờ ngũ hành, lưng tựa cánh bành khuỳnh khuỳnh cũng bọc vải thêu. Dàn ra hai bên quan còn có hai bộ giá gỗ cắm đủ cả đao, thương, chùy, xà mâu kích, bổng... giữa một tòa nhà năm gian toàn gỗ lim kèo cột chạm trổ rất công phu, ở chỗ quan ngồi đốt đủ hai hàng đèn lồng cùng hàng đèn đĩa, hạc đồng đội rất cao, cháy ngùn ngụt, khiến dây vẫn sáng rừng rực mà vẫn cứ mờ mờ ngun ngút, rõ ràng đang giữa ban ngày mà lại tưởng như buổi chiều hay tối đêm vậy.

"Đằng nào mày cũng phải chết, chỉ hết đêm nay, rạng sáng mai, tao cho giải chú cháu mày lên tỉnh, thì lập tức mày phải vào ngục tối, rồi chỉ tuần sau là mày bị đem đi chém, chẳng cần xét xử gì đâu!

"Vậy nếu mày còn là người thì nên nhận, nên khai theo như ý ta. Trước hết mày không phải đòn nữa. Ta đã tha khảo mày lại cho mày ăn uống tử tế. Rồi lên tỉnh, tao còn sinh phúc bảo cai ngục bớt gông xiềng chằng trói cho mà chờ ngày hóa kiếp!...".

Viên tri phủ lại nhíu nhíu cặp mày đã có sợi bạc: "Không! Không! Ta không nhầm, ta không nhầm mà! Ta không bắt oan, khảo oan xử oan chú cháu thằng này mà! Lạ thật mà lạ thật! Sao càng cho khảo nó, ta chỉ càng thấy nó thật không oan! Đúng nó không là quân của Phan Bá Vành, của Cao Bá Quát thì cũng anh em nhà nó, chú bác nhà nó, mà anh em nhà nó, chú bác nhà nó nếu như không có người bị xử, bị chém trong mấy đám giặc này, thì cũng đã bị xử, bị chém ở mấy đám giặc trước, giặc khác! Chỉ vì thế mà nó phải trốn tránh và khăng khăng một mực không khai đúng quê hương bản quán, để bọn nha lại của ta có mấy đứa người Nam Định đám cam đoan với ta rằng nó không phải người tỉnh đây vì túng đói quá chú cháu phải bỏ làng đưa nhau đi lang thang các nơi làm nghề thêu đồ thờ tự nuôi miệng". Như vậy mà để chú cháu nó không chịu cung khai gì cả, rồi giải chú cháu nó lên tỉnh cho cụ lớn tổng đốc rất ngại công sợ việc, được quyền tiền trảm hậu tấu kia, cứ hạ lệnh chém phắt đi, thì quả thật mình là quân thật ngu, tối ngu vậy!".

Bộ mặt viên tri huyện ngồi né né bên tay phải quan tri phủ thì càng đăm chiêu thiểu não. Tuổi y hơn tri phủ hàng giáp, nhưng vì chức phận bậc dưới, vì thấy mình có thể là kẻ gây ra tai ương này cho bề trên, nên y chỉ dám cúi cúi đầu để xem bề trên tra xét và cũng tính toán rồi đây phải bẩm báo lo lót với quan tỉnh ra sao để lại xuê xoa cái vụ này đi.

Bá hộ tiên chỉ dưới Trại Vải là con rể lão, lấy cái ả đâu lòng người như cá rô đực, mắt lại lác, ăn nói lại càng khó nghe, tưởng mãi mãi sẽ làm bà cô ở nhà lão! Vậy mà từ khi lão tống táng ả về cho cái thằng rể béo trắng như quan thị và nói năng miệng như ngậm hột thị ấy, thì nhà thằng nọ làm ăn cứ như có người đổ của vào. Không hiểu ruộng nương, thóc lúa, tiền bạc, của nả nhà bà ba quan tri phủ trong mấy năm từ ngày quan cứ lẹt đẹt mãi ở chân tri huyện, nay được thăng lên tri phủ, có là bao nhiêu, chứ như người ta nói, thì con gái lão thừa sức lo cho bố thăng quan tiến chức như thế.

Hôm qua tri phủ về Trại Vải chưa phải là để ăn mừng con gái bạn đồng liêu của mình mới được con trai, mà chỉ đi chơi cho biết cửa biết nhà thôi!

- Xưng đi!

- Xưng... thật quê ở đâu?

- Cứ khảo nữa.

- Phải xưng.

- Phải khai.

- Chính quê... thật ở đâu?

Sống lưng và hai mông người chú trước còn quằn quại dưới nhũng ngọn roi vun vút, đều đều, sau thì gần như không động đậy mà chỉ bần bật, tới lúc tất cả bốn chiếc roi tới tấp quất xuống chỗ thịt đã đỏ lòm, nát nhũn, trơ cả gờ xương, thì người ta nghe thấy một tiếng rú lên rồi những tiếng sằng sặc, chết lịm.

- Thôi khiêng nó ra ngoài hiên, lại giội cho nó mấy gáo nước...

Lần này, chú Thơm lại bị hất đánh bịch từ cái cầu gỗ trói ghì cả chân tay xuống nền đất càng sũng máu và ngước ngước mặt để bọn lính kháo giội nước hồi sinh cho. Nhưng cặp mắt sâu lõm và cũng xước máu chỉ nhắm nghiền, mặt môi sưng vều bầm bầm và cũng ứa máu chỉ hé hé, mặc cho giọt nước nào sớt vào miệng thì sớt.

- Cho nó hồi lại rồi lại khảo. Nó chưa chết đâu. Cạy răng nó ra, đổ cho tí nước đái để nó chóng hồi.

⚝ ⚝ ⚝

Lần này tỉnh lại, người chú không thấy mình bị trói chặt như lợn rọ trên tấm ván gỗ, nhưng mà sao lại đau đớn lạ quá. Nắng xói giữa đỉnh đầu ông mà nếu không qua những trận tra hỏi hồi lùng suốt từ sáng, thì ông sẽ không thể nào chịu đựng được cái thử dùi lửa ghê khiếp ấy. Từ thóp xuống trán rồi xuống mắt. Mắt ông cũng bị kinh khủng như thế. Các tia nắng nhoi nhói, ngùn ngụt, xóc ngược sự đau đớn lên đỉnh óc và làm cho người ông choáng váng chỉ thiếu chút sức cố gắng chịu đựng là có thể đứt hẳn mạch máu thái dương. Ông không nằm mà ngồi. Ông ngồi xôm xổm, dằn nửa ngực trở xuống một rãnh nước, hai đầu gông gác trên bờ.

Mùi nước đái! Phải, cũng vẫn là mùi nước đái nhưng sao ở đây lại gớm ghiếc thế? Cũng lại vì gần như chết hẳn người rồi, nên tuy thấy gớm ghiếc mà ông không đủ sức nôn ọe, giẫy đạp. Hơi nước bốc như sắp ứ trong mũi, trong người ông. Cái nóng hầm hập của rãnh nước chật hẹp có lẫn phân người và những chuột bọ thối rữa, như đóng thành một thứ cũi, thứ hầm không có thứ hầm cũi nào nhốt ông, giam giữ ông, đáng sợ hơn! Không cần gióng chắc, gióng sít, không cần đóng hẹp, đóng thấp, không cần có đá nén, sắt đè, ông càng thấy sao mà ngột ngạt.

Cái rãnh tù đi đái này là chỗ để người chú Thơm ngồi chờ đến chốc nữa hết giờ Ngọ sang giờ Mùi, hai quan cơm nước xong, thì ông lại ra công đường mà khai xưng, và phải khai xưng cho nhanh, cho thật cho hết!... Không hiểu viên tri phủ nghĩ ngợi ra sao mà lại quát truyền cho một tên lính xuống nhà bếp trại cơ lấy nước cơm đổ cho chú Thơm. Phải chăng quan sợ chú Thơm chết? Hay là cho chú Thơm được chút hơi gạo này vào người là để kéo dài sức của chú Thơm, cho chú Thơm chịu đựng thêm nữa các trận khảo đả, mà trận phơi nắng này vừa là một trong cực hình ghê khiếp nhất của quan phủ đã phải thi thố lần đầu tiên ở cái đất nghịch nổi tiếng, triều đình vừa đánh dẹp xong ấy.

- Quân bay, đổ nước cơm cho nó, hễ thấy nó tỉnh lại thì phải bảo cho nó biết ta vẫn muốn cứu cho nó sống đấy! Từ giờ đến giờ Thân, nó có khôn ngoan thì phải nghe lời ta mà cung khai, chứ đừng để đến quá giờ Thân, ta mà phê cho hai chữ "bất trị" tống xuống ngục thất tử tù thì lại hối bất cập!

Tên lính hầu của quan truyền đi lấy nước cơm còn đổ thêm cho chú Thơm một môi nữa khi hắn thấy chú Thơm nhấp nháy mắt, chóp chép miệng, rồi hắn nhắc lại câu nói trên đây của quan phủ. Đáng lẽ chú Thơm lại làm như không nghe rõ vì vẫn còn đau choáng, tê dệt chẳng cất nhắc được chân tay, nhưng nghĩ ra, chú Thơm cố hé hé mắt nhìn cho thật kỹ nét mặt vẻ mày của tên lính, rồi thều thào:

- Giã ơn chú ngũ! Tôi giã ơn chú ngũ! Hà... hà mát ruột quá! Tôi sống để dạ chết mang đi cái ơn, cái môi nước cháo của chú... của chú!...

Người chú của Thơm vẫn tỉnh.

Người chú của Thơm vẫn tỉnh vì thấy mình phải tỉnh, càng phải tỉnh, càng phải rất tỉnh. Bị ngất đi lúc nào thì phải chịu lúc ấy, chứ hễ còn thấy biết đau, hễ còn nhận ra chung quanh kẻ kia là ai, người này là người nào, vật nọ là gì, thì chú Thơm lại nghiến chặt điều quyết định này giữa hai hàm răng. "Ta phải sống, ta phải sống để giữ cho thằng Thơm sống. Hay vạn bất đắc dĩ ta có chết thì cũng phải giữ cho thằng Thơm sống. Bởi vậy ta không thể khai thật một câu gì, một việc nào, ta không thể mắc lừa hay chịu thua bất kỳ mưu chước, roi vọt kìm kẹp khảo đả gì của thằng tri phủ quyết tâm sát hại chú cháu ta. Rồi cho dẫu nó có giải ta lên tỉnh, và trên tỉnh có đưa ta ra chém ngay, thì ta cũng vẫn thật là tỉnh táo mà trối trăng lại các điều cho cháu ta!...

Đây này cái bó những roi mây, gậy lim. Đây này những cuộn thừng dây dừa. Đây này tấm ván như ván thiên áo quan... tất cả không ghê lắm đâu, không khiếp lắm đâu, bằng bốn thằng tù hết hạn rồi nhưng xin ở lại để làm "lính" của hình quan, mặt tròn tròn, đầu nhọn nhọn, nước da bì bì, vàng ủng, lông mày đen rậm, ngắn ngủn, mồm miệng như không có cằm mà chỉ có hàm răng lèm lẹm cùn cụt, hơi thở và sắc mặt sao mà tanh tanh như của một giống gì chỉ lẩn lót trong sương trong cỏ ban đêm. Giời đất! Vậy mà mặt mày bọn "nó" cũng chỉ ghê chỉ khiếp thôi chứ không sợ bằng bộ mặt của quan ác. Ác từ cái khăn bịt đầu cho tới cánh tay áo chùng rộng. Ác từ cái nhìn, cái gật đầu, cái nhếch mép cho tới cái giọng nói, cái vẫy tay, cái phất quạt.

Không cần tình nghĩa, không thương xót, không biết ngượng mặt ngượng mồm, không bao giờ chùn tay và không bao giờ để nhỡ dịp, nhỡ vận. Bằng hữu, phu thê, phụ tử, quân thần, các điều gì là đạo lý, là cương thường... đều xếp dưới đồng tiền, nén bạc, nén vàng và tính mạng của mình. Vì thế nên không còn thấy, không còn biết không còn cho bất cứ việc gì mình làm để vụ lợi cho mình dù độc hại tàn bạo đến đâu chăng nữa là ác cả!

Nhưng lạ thật! Sao cũng trong đám người đang nghe ngóng chờ xem từng khắc từng giờ sự sống và sự chết của chú Thơm ra sao ấy, chú Thơm cứ thấy như có mấy người cũng rất để ý đến chú cháu Thơm, nhưng lại có một vẻ gì khang khác. Cái vẻ khang khác ấy vừa là xót thương vừa là lo lắng và cũng vừa là suy nghĩ tính toán cho chú cháu Thơm vậy!

Chính lúc mặt trời như một vạc lửa nghiêng nghiêng giội chếch xuống đầu và tung tóe ở trước mặt chú Thơm, thì tiếng gà gáy eo óc thưa dần, xa dần. Có một thứ tiếng o o, u u, âm ỉ sôi reo trong buổi trưa im lìm, xa thăm thẳm và sâu hun hút. Không biết ở bên nhà quan phủ có còn ăn uống, đâm xay hay đun nấu gì không chứ, bên trại cơ đây, mọi người đều ngủ như chết. Ở gian nhà dọn riêng mâm rượu cho bốn tên "lính khảo" của hình quan, tuy mẹ con và ông lão hầu hạ trong trại đã quét dọn rất kỹ, nhưng không hiểu sao ruồi nhặng cứ vọ vo từng đám bu đến bốn tên nọ như là bốn con vật chết trương. Thằng mở mắt, thằng há hốc mồm, thằng nhăn nhúm mặt mũi, thằng nửa nằm nửa ngồi, cổ ngoặt trên ngưỡng cửa; đứa ngáy, đứa nghiến răng, đứa thở phì phì sùi cả bọt mép, đứa như nửa cười nửa mếu; hơi rượu và mùi mặn muội tỏi ớt sặc cả ra ngoài hàng hiên.

Một con chó vện hao hao giống một con lợn hạch vẫn cứ quanh quẩn, hít hít như muốn gặm, muốn liếm cả vào mặt bọn nằm mê thiếp ở nền đất tanh tanh gây gây lạ lùng nọ.

Ông chú Thơm từ lúc nhuốt hết môi nước cháo thứ hai thì tưởng như mình có thể bẻ tan ngay cái gông và giật tung hết các dây trói. Nếu như lại là đêm tối thì ông có thể tìm đến chỗ giam cháu, bẻ khóa, bẩy tường, cõng cháu vượt qua thành lũy thoát ngay khỏi chốn này. Ông nheo nheo mắt, nhìn qua cái vầng lửa tia ria, ngùn ngụt chụp lấy người ông, các lớp các khu nhà cửa cây cối, đường đi lối lại, cổng ngõ, chòi canh, trạm gác. Chợt một làn gió sao mà mát lạ mát lùng như từ sông từ suối nào thổi qua mặt ông. Gió nam! Gió nam! Cả mấy chòm tre cao vút ở phía góc thành rào rào, ngọn này vừa rạp xuống, ngọn khác đã vồng lên, có ngọn quét lia lia đến cả những nóc nhà gần đấy!

Ông chú Thơm sởn hết gai ốc. Ông từ từ cúi đầu vừa nhắm mắt lại, mặc cho nước mắt dàn ra. Cái đầu người cụt cổ, máu ròng ròng lắc lư đu đưa, buộc túm tóc ở ngọn tre róc trụi như một cần câu cất vổng lên, trước mặt mọi người... cái đầu bị chém treo ngành ấy lại hiện ra, nhưng lần này cặp mắt chỉ càng xếch lên, càng quăng quắc, nhìn chiếu vào mặt ông, dễ dàng, nghiêm nghị mà nói với ông:

- Hưng! Cả một ngành họ Trương còn mỗi giọt máu ấy mà giao cho mày đấy!

Tùng ùng - ùng ùng… bi li li liii...

Trong khi tiếng bi li chưa dứt, thanh phạng sáng loáng và cánh tay áo đen vung lên hất gọn một cái, mọi người đi xem rợn lạnh hết cả chân lông, nhủn hết cả chân tay, nhắm sầm mắt lại, thì người chú Thơm vẫn níu níu vai mẹ, cố nghển nhìn "ông", nhìn cái đầu tong tong máu, lơ lửng bần bật như ở lưng chừng trời. Mặc kệ cả các cô, các thím, các bá, các anh chị em òa lên khóc lăn lộn, rũ rượi, lịm đi, ngất đi, người chú Thơm vẫn ráo hoảnh, trân trân hết nhìn "ông" lại nhìn cả họ mà nghĩ:

- Ông vẫn bị trói nhưng bay được đầu lên đấy! Người ta bị chém đứt đầu mới chết, nhưng nếu có phép gì lấy lại đầu, chắp cho đầu liền lại cổ thì cũng vẫn sống chứ.

Chú Thơm toan kéo kéo tay bố Thơm mà gọi hỏi:

- Cu Yên ơi! Cu Yên ời! Có phải như thế không? Có thể có phép như thế không?

Năm ấy là năm thứ ba triều Minh Mạng. Trong đám giặc giã rùng rùng kéo nhau định cướp huyện, phá kho thóc và đón chặn thuyền lương mà quân triều dẹp ngay được và giải đi chém ở ngay quê hương bản quán họ ấy, còn hai người nữa không hiểu quê ở đâu, mà không thấy họ hàng con cháu, nhưng vẫn có nhiều người khóc. Khóc cũng rất thương như các cô, các bác, các thím, các anh, các chị em con cháu "ông mình" vậy.

... Trống lại nổi lên ba hồi chín tiếng, hai quan tri huyện tri phủ còn đang uống trà và bàn định thêm mấy việc thì lính hầu cận lại thập thò ngoài hiên để phi báo tin người chú Thơm lại ngất. Chú Thơm ngất thật! Mình mẩy chân tay ông như cục lửa. Mặt đỏ rẫng hai thái dương căng phồng giần giật, chưa bao giờ bọn lính hình quan thấy ai nóng như thế. Chưa đến giờ Thân mà hai quan tri phủ tri huyện đều sụn cả lưng, ê ẩm cả người, đầu óc rối bời, càng như lửa đốt. Còn bao nhiêu hơi sức, bốn thằng "lính khảo" đều dồn hết vào những ngọn roi, những đầu gậy, những vồ, những chày, và những cuộn thừng mà lão cai khảo đã giở cả những ngón đòn tra hiểm độc nhất, dữ dội nhất nhưng vẫn không cạy được nửa nhời của ông chú Thơm cung khai quê quán thật và chịu nhận tội. Quan tri phủ phải mấy lần làm ra bộ rất tự nhiên xoa xoa nhẹ ngực để nén cơn ho sặc và sự tức tối ngột ngạt cứ rình thít lấy tim phổi hắn. Rồi đến trận đòn vồ. Ông chú Thơm bị trói sấp trên tấm ván cầu, bó chặt kín chăn bông và bao tải, nằm cập kênh trên bực cửa, đã chịu đến chiếc vồ thứ tám rùng hết cả nhà cửa, mà vẫn một mực giữ nguyên cung, thì quan tri phủ tím mặt lại, thở khò khè, giọng không còn giữ được sang sảng, oai nghi nữa:

- Nó lại ngất rồi! Thôi cởi ván và lại giội nước cho nó.

Bóng râm trước mái hiên đã ngả ra quá nửa sân. Bụi và hơi người hầm hập. Ở trong nhà trông ra ngoài nắng chiều càng như lửa vạc. Quan tri phủ chợt nhếch mép, gật gù nói với quan tri huyện:

- Thằng này đúng là muốn chết, quan lớn ạ. Thôi nó đã muốn chết thì ta mặc cho nó chết. Có sao nói vậy, ta làm tờ trình lên quan tổng đốc chuyển quan lớn và tôi đi công cán này rồi sớm mai cho giải nó lên tỉnh thôi.

Quan tri huyện toát mồ hôi trán! "Thôi thế là trong sự tình này đành sẽ phải đổ lên tỉnh không biết bao tiền của, có khi sạt nghiệp cũng nên! Chẳng những để gỡ cho thân "nó" mà là "nó" còn bắt ta phải bù cho "nó" thóc gạo tiền của mà nhà con vợ ba "nó" bị cướp đêm qua đây! Thôi thất âm đức thế này chứ đến thế nào chăng nữa, cái thằng "cử mặt dơi" này cũng cứ làm, mà ta cũng cứ phải theo "nó" ".

Giọng quan tri huyện rất sẽ sàng:

- Bẩm quan lớn, trí giả và cao kiến như quan lớn, người đã dạy thế thì phải nên thế ạ...

Quan tri phủ liền quay ra

- Truyền lính hạ hai chú cháu nó vào riêng một ngục tối.

Gần hết bọn lính hầu vội chạy xúm xít cởi thừng trói, tháo chăn, tháo bao tải rồi khênh đi cả tấm ván cầu đặt người chú Thơm nằm như một xác chết. Chợt một người lính quay giật lại vì quan tri phủ gọi. Nghe quan tri phủ dặn tên lính, quan tri huyện càng gai gai, càng bồn chồn:

- Tháo gông cho nó. Nhưng phải đóng cả xiềng cổ xiềng tay, xiềng chân hai chú cháu nó. Lại cho nó ăn nước cơm hay nấu cháo đổ cho nó ăn. Khi đổi phiên, giao canh, đều phải xem xem nó có thế nào chăng. Chúng bay mà để nó chết thì chúng bay phải thế mạng đấy.

⚝ ⚝ ⚝

Bọn lính hầu chỉ khiêng ông chú Thơm qua chỗ rãnh tù đi đái rồi sắp đến khu ngục của tử tù thì liền bắt bốn thằng lính khảo khiêng vào.

Ngục xây bằng đá, cánh cửa bằng cả một tấm gỗ lim, chốt sắt, khóa sắt, gióng đóng cũng bằng sắt. Trừ cái ô vuông ở mé cửa để người ngoài trông vào và một ô nhỏ nữa ở tít nóc nhà, còn không một khe kẽ nào nữa. Chung quanh ngục là hào sâu cũng cắm chông, có một cầu treo, chỉ khi nào ngục quan cho phép hạ xuống để đưa cơm nước cho tù hay giải tù lên hầu quan thì mới được hạ. Một chòi gác ngay cạnh cầu.

Không ai bảo ai, khi chờ  ngục quan truyền hạ cầu và mở khóa, cả mấy người lính bồng mã tấu và gậy lim đi theo, đều mau mau đi lấy nước cháo cho ông chú Thơm ăn. Lần này ỷ vào lệnh của quan họ đổ cho ông một bát đầy mà không hiểu người nhà bếp hay lính nào đã trộn thêm cho cả muối nữa. Họ còn cho ông trướt miệng bằng nước chè xanh mà ông uống cũng được nửa chén vại.

Chốt xiềng chú cháu Thơm đã xong. Tới khi cầu hạ để khiêng ông vào ngục thì cả bốn tên khảo tù đều dùng dằng. Viên ngục quan phải cầm chùm chìa khóa thụi vào mạng mỡ, vào đầu và dúi cổ hai thằng, bắt cứ phải khiêng vào.

- Chết hãy khoan, hãy khoan, thầy cai ơi! Tôi suýt quên! Suýt quên!

Chú cháu Thơm đã bị xích vào mỗi người một góc tường, cai ngục đã xem xét lại lần nữa xiềng xích, quay bước trở ra, thì một người lính hầu cận xộc qua cầu vừa mắng mấy tên lính trẻ:

- Các chú không nhớ quan lớn vừa căn dặn gì à? Giời đất, việc hệ trọng như thế mà mạng chúng mình có là mạng hình nhân hay mạng trâu mạng bò đâu mà thế được. Thầy cai, thầy có cái hàm thiếc nào không?

Viên cai ngục ớ người ra, tên lính hầu liền nhăn nhó:

- Đấy! Đấy! Như thế đấy mà không nghĩ ra thì có bỏ mẹ cả lũ không? Thôi để tôi chạy đi lấy vậy.

Cả mấy người đứng chờ ngoài kia và bọn lính hầu cận đều cằn nhằn nhau, có người văng tục chửi thầm:

- Mẹ cha mày! Muốn lập công lập cán gì thì cũng phải nghĩ chứ. Người ta bị khảo sưng tím hết cả mình mẩy, chỉ còn hấp hối thế kia mà lại còn đi lấy hàm thiếc đóng miệng người ta để người ta khỏi cắn lưỡi tự tử!

Một người nữa gườm gườm nhìn theo tên lính nọ:

- Gieo giống nào thì lại gặt giống ấy, thằng bố mày ạ!

Tức giận, viên cai ngục văng tục lên rất to, khi tên lính tất tưởi cầm cỗ hàm thiếc chạy về, y đóng sầm cánh cửa lim lại, hất hàm bảo tên lính nọ:

- Đấy! Mình ông vào trong ấy mà đóng mà đánh, giữ sao cho thật kỹ người ta không cắn được lưỡi thì giữ!

Thật ra viên cai ngục cũng thấy chờn chợn. Khác hẳn mọi lần, sao lần này bụng dạ y cứ nao nao và chẳng muốn chẳng dám bước vào nhìn vào cái chỗ này với hai người tù này một tí nào. Gian ngục tuy đã quét dọn, không còn mùi cứt đái gì cả, nhưng vẫn gai lạnh ghê thảm vô cùng.

Tiếng lên lính hầu oang oang:

- Tỉnh lại rồi chứ! Tỉnh lại đi! Đừng có nghĩ bậy nghĩ bạ gì đấy! Nằm yên cho người ta làm việc. Tối khuya có khát thì cứ gọi xin nước mà uống cho thật nhiều nhé.

... Ông chú Thơm càng như bị thắt gan thắt ruột. Cái bóng nắng về chiều thế là mất hẳn rồi. Giờ sắp sửa là đêm tối. Chỉ còn một đêm tối thôi, ông còn được ở với thằng cháu trong ngục thất. Sáng mai, rồi ngày mai, sẽ ra sao đây. "Giời ơi! Thế là tôi đành mang tội với dòng dõi tổ tiên, với cả bao người thác oan gởi gắm nghĩa lớn thù nhà lại cho cha ông, anh em tôi sao?!".

Thì, khi ông chú Thơm he hé miệng để đón cái múi sắt sáu cạnh vào giữa hàm ếch, nống không cho hai hàm răng ngậm lại, và khi cái vòng sắt bập lấy gáy để giữ khít miệng ông, bỗng ông choáng người, lạnh toát cả xương tủy và tưởng rụng rời cả chân tay vì tiếng người lính cúi vào tai ông gọi:

- Bác Hưng! Bác Hưng! Bác phải tĩnh trí nhé. Xiềng tay, xiềng chân của cả cháu và bác thì đập mắt vòng bên trái trước, hàm thiếc thì tháo chốt, dao giấu ở khe đá góc trái ngục thất. Sắp trống canh hai, khi nghe thấy tiếng người ho ở vọng canh sau ngục thì bác phá xiềng, nạy đá, lấy dao và bẩy chỗ chân tường ấy và cứ thẳng đấy lội qua hào, vượt góc thành đằng đông mà trốn.

Ông chú Thơm nhìn lên, mắt như muốn nứt, phều phào:

- Ông là ai! Giời ơi! Ông là ai đấy?!!

Người nọ như sợ ông chú Thơm chưa nghe rõ vì mình nói vội và dặn nhiều quá, liền vuốt vuốt mặt ông, nói lại từng nhời một và chờ ông gật đầu khi hết câu này mới tiếp câu khác.

- Sắp trống canh hai anh nhé, lúc nào nghe thấy tiếng người ho ở vọng canh sau ngục nhé, thì bác phá xiềng... Bác phải tĩnh trí, xiềng chân xiềng tay thì đập mắt bên trái nhé... dao giấu ở khe đá góc trái ngục thất nhé...

- Ông là ai đấy?!! Giời ơi!!!

Ông chú Thơm đang chờ nghe một câu nói nữa, phải, chỉ một câu ngắn nữa thôi, nhất là được nắm lấy bàn tay của người đó mà ấp mà nặn, thì người đó lại oang oang lên gọi viên cai ngục, vừa bước ra cửa, trịnh trọng, thuê thỏa, vênh váo hơn trước:

- Ông cai vào kiểm xem có thật chắc không?!! Gớm! Chưa thấy cái thằng tử tù nào lạ như cái thằng này! Dễ thường nó có thể nuốt cả cái quả khế kia chứ không phải chỉ cắn lưỡi thôi!...

⚝ ⚝ ⚝

Để mô đất gần bụi rậm trong bãi, Thơm không thể nào lê bước được nữa mà vẫn cứ loạng choạng chống chống cái gậy vừa níu lấy vai ông chú, nhưng sau đành ngồi xệp xuống. Ông chú toan xốc Thơm lên, sau nghĩ lại biết Thơm có đau đến mức nào mới chịu ngồi như thế, bèn ngồi xuống theo. Vừa phần chính ông cũng như sắp đứt cả ruột và không còn sức để thở nữa, vậy cũng nên nghỉ bước một chốc một nhát. Thấy chú đánh bệt đít xuống bên cạnh mình khò khè khò khè, miệng hớp hớp như con cá sắp ngạt sắp chết trước khi lên thớt, Thơm liền mím chặt môi, choàng tay ôm lấy vai chú, nhổm dậy:

- Thôi chú cháu ta lại đi thôi.

- Cháu ơi!

- Chú à!

- Không nên! Cháu cứ nghỉ cho đỡ đau rồi lại đi mà. Phải, đỡ đau, rồi lại đi ngay mà!

- Nhưng chú ơi! Trong bãi đây vẫn gần phủ lắm, vẫn trông thấy rõ cả đèn lồng treo trên cổng kia kìa. Nếu đánh động, lính bổ ra chỉ một nhoáng là bắt kịp chú cháu ta thôi! Trỗi! Trỗi! Trỗi thôi chú à!

Thơm lại chống gậy bước trước, ông chú phải rướn lên để đỡ Thơm. Con đường mòn qua những đám sim, mua um tùm lờ mờ sâu hút. Không như đêm trước, vành trăng đêm nay sáng lạnh trên nền trời mỗi lúc một quang, có lúc mây trắng bồng hẳn lên rất lâu cuồn cuộn nổi theo trăng và tràn qua trăng rồi mãi sau khí núi và mây đen mới dồn đến. Không hiểu vì nhiễm sương hay vì yếu mệt, ông chú lạnh run không thể giữ được, nhưng trán và trong người lại nóng bừng bừng. Hay cũng vì cả mừng quá! Cũng cả vì vẫn còn thật đáng lo, đáng ngại! Qua được bãi rậm này, rồi chú cháu sẽ gặp ngả đường nào, sẽ rẽ đi đâu, sẽ tìm đến đâu, giữa một nơi hoàn toàn lạ thung lạ thổ này. Thơm, người cũng run run và tâm trí cũng bừng bừng. Run run vì đau quá! Cái bên chân bị sập chông không còn phải của Thơm nữa. Cả bàn chân, ống chân đều sưng đẫn chói buốt, tê cứng, nóng giần giật. Giời ơi! Giá mà có được con dao gì thật sắc chặt phăng "nó" một nhát để rồi đây Thơm có phải đi bằng đầu gối, chống nạng như những người què cụt, Thơm cũng vẫn vui lòng. Chứ bây giờ "nó" thật là làm khổ Thơm vô cùng, và có thể làm hại Thơm nữa!

Còn bừng bừng thì đúng là chỉ vì mừng, chỉ có mừng. Mừng, nên Thơm không mảy may thấy lo, thấy ngại, thấy sợ gì nữa! Bãi rậm này rừng núi xa kia, linh tính Thơm còn báo trước cho biết lại có cả sông nữa, vượt được đến đấy thì chú cháu Thơm nắm chắc sự sống trong tay. Còn hơn cả Thơm nắm chắc cái gậy tre đực vót nhọn này, còn hơn cả chú Thơm nắm chắc con dao kia vậy.

Cả ngày hôm nay, bọn lính chỉ cho Thơm uống nước. Bởi vậy khi vừa rẽ vào bãi, thoáng thấy hơi đất, hơi cỏ, hơi cây, Thơm lại tỉnh táo thêm. Rồi thì Thơm sà xuống một cái cái búi sim trúng như là mồi của một con vật đã thông thuộc rình chộp mồi ăn lâu rồi. Thơm bứt bứt mấy búp lá và mấy quả còn sót xanh chát mà Thơm đưa cho cả chú ăn, thì Thơm tưởng như bắt được đào tiên, mơ tiên. Càng đi quá vào trong, càng chọn được những búi vẫn còn đôi quả chín mòng thì Thơm thấy thật là không còn lo gì đói khát. Ông chú Thơm phải can ngay cháu:

- Đừng ăn phàm quá cháu ơi! Búp sim và quả sim say đấy! Mà cháu đừng nhằn tai sim hay bứt lá vứt vương ra đường! Chúng nó mà sục vào đây tìm thấy lõng, đuổi vây chú cháu ta thì khốn to.

Nghe chú nói, Thơm liền ngớ người ra và thấy ân hận. Rồi từ quãng rẽ ở chỗ mô đất, Thơm nhất định không tìm sim ăn nữa và càng thương chú.

Thơm cũng bị khảo mấy trận ở trước mặt ông chú Thơm. Quan tri phủ định bắt người chú chịu thêm cực hình này và phải cung khai. Tuy chú Thơm đã kêu xin quan tha cho Thơm và có phải chịu bao nhiêu tội, chú Thơm xin chịu hết vì nếu là kẻ làm ra tội thì chính là chú Thơm. Rõ ràng lời lẽ rất thảm thiết khiến nhiều người xung quanh không thể không ai tâm. Nhưng quái lạ, Thơm lại thấy một tình ý khác hẳn cả trong khi chú Thơm chắp tay van lạy cũng như khi chú Thơm rầu rĩ, đau xót nhìn Thơm.

"Chết thì chết, chú cháu ta cũng không được tiết lộ tông tích. Và có sao thì...".

Phải! Có sao thì mình chú ta chịu chết! Chú ta chịu chết cho ta sống, để giữ cho ta sống. Chú ơi! Chú ơi! Chú mà chết thì cháu phải giết hết chúng nó. Chú mà chết, thì cháu... Không, chú ơi! Sao tôi lại chịu để cho chú tôi chết hở giời?!!

Bởi vậy, dù bị roi bị gậy quật tối tăm mặt mày, Thơm vẫn nhổm lên, vẫn bò đến mà ôm lấy người chú, làm cho quan tri phủ phải ra lệnh khiêng Thơm xuống trại giam. Hắn sợ xôi hỏng bỏng không, một là nếu cả hai chú cháu Thơm bảo nhau cứ gan lì không chịu cung khai gì cả, hai là hắn thấy không nên để quân lính nha lại chúng nó coi thường oai nghi của mình và động lòng vì sự đau đớn, oan khiên của hai chú cháu nhà nó kia...

Choàng tay qua vai chú, để chú đỡ người cho, nhiều lúc còn ôm lấy chú, níu trĩu hẳn vai chú xuống, làm chú cơ hồ ngã khuỵu, Thơm càng oán tức cái chân của mình bị chông làm hại, và Thơm càng bồn chồn vì sự chậm chạp của cả hai chú cháu. A! Không cần phải có cánh, không cần phải là người trời, Thơm cũng có thể cõng chú mà chạy như ngựa ấy! Phải, lúc này đây đúng là lúc phải chạy như ngựa ấy, thì mới thỏa nỗi vui mừng, và mới không sợ quân lính đuổi đón vây bắt.

Thơm lại rướn bước, cái gậy chống như lia, khiến người chú có phút liêu xiêu suýt nhào đi.

Đúng là trong thành đã nổi trống động. Lửa cũng theo nhau bùng bùng lên ở khắp các bờ búi tre pheo cây cối, ngóc ngách hào lũng. Rồi tiếng trống nổi tiếp ở cả từ xa và thoáng chốc cả bốn phía trời đều rùng rùng ầm ầm như quây tròn lấy cả trước mặt, sau lưng hai chú cháu kẻ giam ở ngục tử tù đã vượt ra được.

- Cháu à, không sợ, không sợ!

- Không lo! Không lo! Chú ơi!

- Cứ đi vừa vừa thôi, như chân cháu thế kia cố quá thì khốn đấy!

- Chú mệt lắm, chú cố quá, cháu biết rồi. Chú cứ để cháu đi không thôi. Chú có tuổi rồi, lại vất vả nhiều quá.

Đuốc lửa tóa ra ngoài, sẻ làm mấy ngả. Thơm buông vai chú đứng lại, chống gậy, bặm môi, trông một đám đuốc đã tụ lại, ngùn ngụt, dồn dồn ra ngả đường chú cháu Thơm. Mà kìa, nó như đang tiến đến bãi sim.

- Đúng là chúng nó biết rằng không đời nào tù vượt ngục lại đi đường cái, đường chính. Nên chúng chia nhau đuổi tìm ở cả phía bờ sông, phía rặng vải và phía bãi sim.

Và kìa! Lại thêm một đám đi đuổi nữa từ trong thành đổ ra, không vào trong làng mà lại quành lên phía bắc.

- Hãy gượm chú à!

- Thôi, phải đi ngay thôi!

- Không nên! Không nên! Cả hai đám đuổi ta đều đi vòng, chú à.

- Như thế là chúng nó định vây lấy cả vùng bãi này chứ gì?

- Chú à, chú xem có phải đây là vườn bãi không? Cháu thấy dông dốc và hơi quang. Thôi, chú cứ để cháu đứng đây, chú chạy quàng đi xem bãi còn rộng không, phía trước mặt ta là gì. À mà kìa có cây cao kia kìa, chú trèo lên mà thăm thung ba bề bốn bên cho kỹ.

Vành trăng càng le lói. Những đám mây đen như từng quả núi lúc đổ xuống, lúc đùn qua, lúc tràn ngập cả khoảng trời trăng leo lắt. Gà bỗng gáy rộn. Thoáng chốc trời đất tối rầm tối mịt. Chú Thơm đã về. Không chờ ông đến với mình, Thơm lia gậy chạy lên đón:

- Sao lâu thế chú ơi! Bãi còn rộng không? Còn rậm rạp không?

- Quang rồi! Quang lắm rồi! Hết cả cây cối sim mua chỉ có cỏ ràng ràng.

- Đường ra thế nào, hở chú?

- Có cả đường to và lối tắt.

- Đường to đi đâu? Lối tắt đi đâu?

- Đường to ra đường cái... Mà kia kìa, quân lính đang tiến ra đường cái.

Thơm kêu lên:

- Nó đuổi theo đúng lõng ta trốn! Chú ơi! Chú ơi! Lối tắt, còn lối tắt đi đâu?

- Ra một bờ đầm rộng.

Thơm liền reo:

- Ra một bờ đầm rộng?!! Giáp đầm là làng, là trại hay là bãi, chú à?

- Chú chỉ thấy mờ mờ tít tắp. Chú ngờ phía ấy không là bãi sậy thì cũng là đồng cỏ lác cỏ năn.

Có tiếng ngựa hí. Còn lửa đuốc cháy phần phật nhấp nhô thấy rõ từng đám ba bó, năm bó khua khua.

- Không lo! Không lo! Chú à! Ra ngoài kia là đầm rộng rồi lại là bãi sậy, đồng lác đồng năn thì chú cháu ta không lo. Giời lại độ ta, trăng lặn, tối mù mịt.

- Chết! Chết! Trăng mà lặn, giời lại tối là sắp sáng ngày đấy! Cháu không thấy gà gáy rộn à... Mau lên cháu, đi phía tay phải này mà ra lối tắt.

Thơm lại choàng vai chú. Hai chú cháu bước tràn lên cả những búi cây lởm chởm gai góc. Một lúc lâu thì ra cái lối đi nhẵn nhẵn ngoòng ngoèo xuống một sườn đồi. Thơm đang dựng dựng gậy để nắm cho chắc nữa thì thấy hẫng cả người vì vai chú Thơm chúi chúi rồi chú Thơm ngã dúi đi. Thơm nhào cánh tay để giữ lấy chú nhưng không kịp. Chú Thơm nằm xệp xuống cỏ phều phào:

- Chú chóng mặt quá! Chú bị cảm... chú...

- Chú chóng mặt, để cháu đỡ chú, chú choàng vai cháu mà đi.

- Cháu! Cháu!... Chú! Chú... phải nằm lại thôi! Chú chóng mặt quá!... Sao lại chóng mặt đến thế này?

Một vệt sáng đang hé nhờ nhờ ở đằng đông. Những bó đuốc tỏa ra, đi hẳn vào bãi. Tiếng chó săn rin rít. Tiếng người lào thào bàn tán.

- Cháu... cháu cứ để chú nằm lại đây, cháu ra ngoài đầm trước rồi chú ra sau... Nó có sục vào đến đây cũng còn phải lâu.

- Chú! Chú!

Vừa lay lay người chú, Thơm vừa kéo cánh tay, ôm hẳn chú dậy. Chú Thơm toan tụt xuống thì Thơm đã xốc được chú lên lưng. Phải, Thơm cõng chú chống gậy mà rướn bước. Không! Thơm chống gậy, cõng chú mà nhảy nhảy kiểu "xích cò cò" ngày bé thường chơi với các trẻ con, chơi đấu chọi đầu gối hoặc chạy thi. Xa xa ở đằng sau, tiếng chó rin rít lồng lộn. Những bó đuốc chúc xuống, khùa khùa, lửa táp cháy bén cả những đám cỏ may. Một mảng trời đỏ nhờ như máu ôi, loang dần. Những đám mây màu chì màu lục màu bồ quân trộn loãng xuống mé đầm phía bên kia.

Thắt hai ống quần lại làm dây đai chú trên lưng, hai chú cháu Thơm trần truồng lủi qua mấy bờ cỏ gai rậm, lần lần tụt xuống nước. Cái gậy và khăn gói quần áo, tiền gạo của "người lính huyện" giấu cho để độ thân cài trên lưng chú, con dao cài bên người mình, Thơm cõng chú bơi đứng, Thơm như không còn thấy đau và mệt mỏi nữa, Thơm lại được bơi và hớp những hớp nước sao mà ngọt, sao mà mát, chưa bao giờ từng có những ngụm nước nào ngọt mát đến thế. Thơm còn đớp cả những lá sen, những đốm bèo và cũng thấy chưa bao giờ từng có những hoa quả nào ngon thơm như vậy.