← Quay lại trang sách

Chương III

Mặt trời sắp lặn ở sau lưng chú, cháu. Bóng hai người nhấp nhô chỉ còn mờ mờ heo hắt giữa vùng đồi cỏ thanh hao và ràng ràng. Khói đốt đống rấm thoảng đến. Sắp có xóm, trại, ấp rồi. Qua mấy bãi đồi nữa, chú Thơm phải đứng lại để định phương hướng. Từ lúc gặp bọn gánh than đi luồn rừng về trỏ đường cho, đến giờ vẫn chưa thấy nhà cửa hay người đi nào khác cả.

- Đúng cháu ạ, phải đồi Ba Cây kia rồi. Có ngợ là ngợ quãng đường rẽ này.

- Ấp trại trong ấy có đông nhà không, chú à?

- Tiếng rằng vợ chồng ông ấy ở làng đây, nhưng làm nhà vỡ bãi với hai người nữa ở một quả đồi rất lảnh. Hai năm rồi chú không lên, chẳng hiểu nay có thêm ai đến, hoặc giả hai nhà hàng xóm nọ lại thấy làm ăn khó khăn bỏ đi nơi khác cũng nên. Đất có lành thì cò mới đậu chứ!

- Nhưng ông bà ấy vẫn ở đây chứ?

- Thì cánh đi rừng quen chú, tháng trước còn thổi nấu ăn rồi ngủ đỗ liền hai đêm ở nhà ông bà ấy mà...

- Vậy thì là đất đây vẫn lành chứ!

Có dáng người cao lớn xăm xăm trên dốc đồi bên kia xuống và gánh một gánh nặng. Chú Thơm xớn xác:

- May quá! May quá! Để chú gọi hỏi xem.

Hai chú cháu cuống quýt vừa chạy vừa gọi. Như vì phải gánh nặng hay đang nghĩ việc gì, người nọ cứ sầm sầm đi, khiến chú Thơm phải níu vội lấy gánh. Thì, chính người nọ reo lên:

- Ông Hưng! - Và tuy chưa quen biết gì Thơm người nọ cũng vồ vập - Cháu đấy à? Sao chuyến trước hẹn bắt tay gặt thì lên, vậy mà...

- Ông để cháu gánh đỡ.

- Không! Không! Nhà kia rồi. - Người nọ giơ cánh tay áo gạt mồ hôi, giọng càng tươi bưởi. Thằng dái này mười mấy rồi?!! Ốm đau hay sao mà gầy như thế này. Đây, đây, rẽ lối bãi sau sau đây...

Cả mấy bước chân cứ như ríu lại với nhau. Ba gian nhà đất và một gian bếp, người đứng thẳng chạm đầu, chẳng có cổng ngõ gì cả, nhô lên giữa một bãi sắn um tùm. Một người mẹ váy ngắn hũn, chỉ mặc có yếm vá và một thằng bé bụng căng mông, tống ngồng chạy ra.

- Nhà nấu nước gì thế mẹ dái? A nấu lá chu chi đấy à? Cho thêm nắm nữa và đun quàng lên.

Miệng nói, tay cầm chổi lúa, người nọ đập đập phủi phủi cái chõng đóng lấy bằng cành cây, rồi đi tìm cái mẹt, lau lau với mớ giẻ vó, bày ra bốn chiếc bát sành.

- Dạo tháng sáu tôi reo hàng hai chén hạt chu chi, nhưng vì giời ít mưa hay đất xấu thế nào ấy mà chỉ được có một đám đằng bụi sau nhà kia. Ở đây mà không có cái giống này nấu nước uống thì chẳng còn biết mùi mật, mùi đường là gì cả.

Bên ngoài đã chạng vạng. Mặc dầu gió thổi đùng đùng người nọ cũng không chịu khép bớt bên cửa liếp. Bác chập ba que đóm nhựa trám đốt lên ngùn ngụt. Nước hãm trong ấm sành rót ra, xanh như nấu với chè vườn, thoảng thoảng vị ngai ngái, nhưng uống vào cả hai chú cháu Thơm thấy ngọt mát một cách lạ. Thơm vừa uống vừa ngắm đôi gò má và cái cằm bạnh sạm râu của người nọ.

- Chết! Chết! Chỗ ông với tôi anh em mà lại khách tình thế à? Mẹ dái nó đâu, lại đi sang bên ông đĩ Tới mà hỏi ấy!

Người nọ nhất định giữ lấy cái khăn gói của chú Thơm. Còn chú Thơm thì cứ nhất định giằng lấy khăn gói để đổ ra tất cả chỗ gạo ăn đường còn y nguyên, phần vì giữ để phòng lúc hai chú cháu còn đói, còn đau ốm, hơn nữa, phần vì sợ nhĩ mục quan chiêm, vào trọ nhà ai hay thổi nấu dù ăn với nhau ở bờ ở bụi trong lúc này, cũng rất không nên, mà chỉ nên cầm hơi lấy sức với củ khoai, củ sắn hay tấm bánh đúc mua dọc đường thôi.

- Ông Ngọ ơi! Người ta thường nói cảnh nghèo túng làm ăn cùng cực thì mùa màng xong chưa treo hái đã hết thóc, chứ cảnh ông thì lại chẳng có cả thóc nữa, còn hái thì nhà có cày cấy hay ai thuê mướn gì, lấy liềm đâu mà treo? Mai mới phiên chợ tỉnh lại là phiên xép, bên củ nâu và bên măng kia có đem đi bán thì...

Người nọ liền cười, tiếng cười rất vui rất khoái:

- Thế không có ông lên hôm nay thì vợ chồng con cái nhà Ngọ này tối nay nhịn đói và ngày mai đi chợ lại không bán được nâu, được măng lấy tiền đong gạo thì cũng lại nhịn đói nữa à?!!

- Không! Không phải như thế, không đến nỗi thế đâu, ông Hưng ạ! Tôi bảo mẹ nó đi hỏi... là hỏi rượu... hỏi rượu!... Ông bạn của chú Thơm đi rừng về, vừa nhấp nhô cái đầu bù xù vừa kéo dài tiếng rượu ta, nói rất to bên tai khách:

- Phải đi hỏi rượu chứ! Có một miếng thịt nai khô, hơn nửa cân đây này, mà không đem ra nhắm với nhau tối nay thì để đến lúc chết mà cúng kem à?!! Tôi tuổi Ngọ, ông tuổi Tỵ. Có vất vả đói rách thì tôi vẫn sướng hơn ông. Ngựa đẻ tháng ba lại vào canh hai, ăn no cỏ xuân, ngủ trong chuồng, đêm xuân ấm áp thì còn lo gì nữa.

Chú Thơm càng như nở nang thêm khúc ruột:

- Thế thì ông càng phải cho tôi tự nhiên - Chú Thơm ghé vào tai ông Ngọ thì thầm cho biết rất thật là ba hôm nay đi đường hai chú cháu không có hột cơm hột cháo nào vào bụng, vậy chả lẽ tối nay anh em lại tìm đến nhau mà không thổi lấy bát gạo, dù mỗi hột cơm phải cõng đến hai củ sắn thì cũng vẫn là bữa cơm. Nhất là để ăn mừng...

Ông bạn chú Thơm sừng sờ và không thể nào ngờ được lại vừa xảy ra cơ sự như thế.

Cả nhà xúm xít dưới bếp.

Miếng thịt nai phải rửa nước nóng đến hai lượt mà vẫn như quai guốc, như chão trâu, nếu đánh rơi ở ngoài đường có người đi qua cũng chẳng để ý hay buồn nhặt. Vậy mà Ngọ nào thái mỏng để xào với măng, nào thái con cờ để ninh với sắn, và còn đem áp chảo với tí dấu mỡ ở cái lọ  sành hơ lửa tưởng đến nứt lọ ra mới nhỏ được mươi giọt xuống mảnh chảo gang. Lại còn một đĩa rau thơm: nào mùi tàu, nào húng chó, rau răm và hàng chục quả ớt chỉ thiên ở ngoài vườn cạnh giếng. Bác Ngọ trai cứ tranh vợ cả từ thái măng đến xào nấu, mặc kệ vợ cứ quầy quậy giằng lấy dao, lấy thức nấu, và đuổi chồng lên nhà để chuyện với khách, mà chồng thì cứ đang dở câu này lại bắt sang câu khác, vừa phù phù thổi bếp, vừa ho sặc khói, vừa gọi vợ đưa hết thức này đến thức khác cho mình làm món, vừa vắt mũi, chùi má và gắp cho con ăn mấy miếng nếm thử, thấy chín tới.

Tất cả những cái gì có thể đựng có thể bày được món ăn đều lấy ra hết. Cả cái bát hương vỡ đem đựng muối. Cả cái đĩa gỗ sứt mẻ dùng làm khay chén, bác trai còn cắt miếng lá chuối lót đĩa rồi đổ đầy món măng xào. Nhà còn mỗi bát chậu mẻ quá, bác trai liền bảo vợ đi mượn thêm một bát nữa để đơm canh sắn.

Cả chú cháu Thơm cùng bác Ngọ trai chuyên dần lên nhà. Bác gái đang đập đập, phủi phủi định tìm mớ giẻ vó để lau cái mẹt cho bác trai bày, thì bác trai vội đưa tay gạt gạt xua xua.

- Kìa bố nó lại còn định bày biện gì nữa thế?

- U nó mặc tôi. U nó xuống bếp xới cho tôi một bát cơm đem lên đây.

Bác trai với cái chổi lúa mới treo ở con xỏ gian bếp, quét quét phủi phủi tấm ván ban thờ ở hai cột gian giữa. Bác ngắm nghía bày lại bát nhang, rót rượu ra ba chiếc chén sành cờn miệng đặt trước bát hương, rồi sắp tất cả những bát đĩa thức ăn thành hàng sang hai bên rất cân xứng, mỗi bên một bát một đĩa. Cuối cùng, bác để bát cơm đầy lên, châm ba nén hương đen, quay ra nói:

- Ông Hưng nhẻ, buổi nay anh em ta vẫn còn sống lại tìm được đến nhau, vậy ông cho phép tôi "triềng" với các cụ...

Bác Ngọ xốc xốc lại cổ áo, cài lại mấy cúc ở ngực ở rốn, kéo lại hai ống quần, rồi cúi đầu giơ cao ba nén hương lên mà lầm thầm vừa đăm đắm trông những vờn khói bay cuộn lên nóc nhà thơm sực. Gió thổi hơi đêm lạnh. Ba que nhựa trám cháy ngút. Thằng cu cởi truồng càng nép người vào váy mẹ, chớp chớp mắt, hết nhìn bố, lại nhìn lên bàn thờ, lại nhìn bố, lại nhìn hai chú cháu ông khách và những bát cỗ đĩa cỗ trên bàn thờ.

Không bảo nhau, chú cháu Thơm đều khoanh tay, cúi đầu, đứng lặng.

Người chú cũng trông lên những vờn khói và thấy như đây là nhà mình. Cái nhà ở một huyện đói nhất, nghèo nhất của tỉnh Hưng Yên kia, ba gian tre ngâm, mái rạ, vách đất, vườn tược xơ xác, cỗng ngõ, cửa giả chẳng bao giờ phải rào, phải nấp cả. Nhưng gian giữa vẫn đủ ban thờ trong hương án ngoài, mâm bồng, chân nến, bực tam cấp, giá đũa và một khung gỗ mộc đóng làm hoành phi, phất giấy hồng điều, viết ba chữ lớn "Đức lưu quang" nhờ một cụ đồ chữ đẹp nhất và cũng nghèo nhất ở làng bên đề cho từ ba đời nay.

Chiếc bài vị, gỗ đen xỉn, phủ vải đỏ đặt trên cái ỷ cũng đã mọt lại hiển hiện. Bùi ngùi, nghiêm nghị, thăm thẳm nhìn cả hai chú cháu Thơm. Ông chú bỗng giật thót trong người vì thấy như có một tiếng gọi hay một tiếng quát vang lên từ trên bàn thờ đỏ rực lửa trám của người bạn nghèo khổ kia và từ gian thờ xa thẳm không biết nay còn hay đã đổ nát tan hoang, thành bụi tre búi dứa, vườn sau ao trước, đường ngõ nhà ai rồi?!!

- Thịt nai? Thịt nai khô! Thịt nai săn được ăn không hết phải đem phơi đem sấy đem gác bếp để ăn dần... Thịt ăn mà lại đem đi cho?....

Mặc dầu Thơm đã nghĩ sang chuyện khác, việc khác, nhưng những con nai, những con hươu rồi cả những con gấu, con hùm và không  biết bao nhiêu con thú khác cứ chồm, nhảy, lồng lộn, thoáng hiện, vút biến, gầm rít, lúc gần, lúc xa ở trước mắt Thơm, ở trong đêm tối, đồi bãi rừng núi, suối ghềnh ngoài kia.

Săn bắn những thú này bằng súng kíp và bằng cả tên nỏ. Đánh cạm đánh bẫy thì bằng hầm sập chông ác hơn của tên trương tuần dưới xuôi suýt làm chết Thơm. Vậy thì chỉ mai mốt thôi, Thơm không có súng thì cũng phải làm lấy nỏ mà bắn, vào rừng tìm các lõng có nai có hùm đi về mà đào hố đặt sập cắm chông. Đã được thịt ăn, lại còn mật, nhất là mật gấu, và xương nấu cao đem bán. Chú Thơm may, thêu giỏi. Da hổ, da báo đem thuộc rồi cắt may những bộ áo, bộ mũ mặc thì ấm, thì đẹp biết bao; không mặc mà lại đem về các chợ to Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Đông, Nam Định bán cho các nhà giầu, các gánh tuồng gánh hát lấy tiền mua vải, chú cháu chả còn lo rách rưới rét mướt!

Không! Không! Thơm còn phải tìm các phường săn, chọn phường nào giỏi nhất, đông nhất đi theo mà học, dù có vất vả nguy hiểm đến thế nào chăng nữa, Thơm cũng không quản ngại... Mà Thơm sẽ gặp thầy, sẽ có bạn, sẽ kết bạn với nhiều anh em, nhiều nơi... Cái chân đau của Thơm chỉ rửa nước muối và rịt nắm lá thuốc dấu mà mười phần đã đỡ quá nửa. Vậy chỉ mấy hôm nữa là Thơm có thể theo ông Ngọ luồn rừng được. Còn chú Thơm thì phải làm sao có ngay mật gấu, mật trăn để uống và rượu thuốc để xoa bóp. Hình như chú Thơm đã ho ra cả máu song cứ lại giấu cháu.

⚝ ⚝ ⚝

Thơm bổ rộng miệng hố hơn một gang tay nữa mới chịu nghỉ. Cả vạt sắn ở sau nhà, vạt sắn lối đi xuống giếng, đều sạch sẽ. Luống nào luống ấy cao, rộng hẳn lên. Gốc nào gốc ấy xum xuê, to vững thêm. Đất ấp vào gốc cây vừa bở tơi vừa trộn thêm nhiều tro hun cỏ rác. Còn cái hố gần chuồng tro, Thơm đào sâu hơn thước nữa, đổ cỏ rác trong vườn ngoài sân và tưới nước đái, nước vo gạo, nước rửa bát ủ làm phân. À, còn phải đi cắt lá hôi về bỏ hố nữa chứ! Như vậy, ngày mai chân Thơm còn đau và đang gắn miệng, Thơm chưa theo chú Ngọ đi rừng được, thì Thơm bảo thím Ngọ đi sát gang tất cả cuốc, liềm, dao phạt bờ, chứ không thể tiếc tiền để tức anh ách, tốn công, phí sức vì cái của cùn của mẻ này mãi!

Mặt trời nhoi nhói sau gáy Thơm. Những bóng lá xanh nõn xanh mọng lao xao như có hoa, có bướm đuổi nhau trong bãi sắn. Ba ngọn rặng núi Tam Đảo phía xa càng biếc, ngun ngút. Thỉnh thoảng những đám mây trắng hơn bông lại đuổi nhau dồn dập lúc ở bên trên, lúc ở lưng chừng núi, nhiều đám cuồn cuộn nhập với nhau rồi đùn bồng lên, che hết cả ngọn núi một lúc thì toang ra, chảy tan vào cái biêng biếc thăm thẳm. Mặt bãi tuy dằng dịt cỏ lưỡi rắn, cỏ ràng ràng và lởm chởm các cụm gốc sim mua, nhưng chỉ cuốc bật lên hơn gang tay là đến đất đen, đất xốp. Thơm chống cuốc mà ngó nghênh trời mây rừng núi, các làng, các ấp, các trại xa xa, vừa nghĩ đến bao nhiêu việc làm để đỡ chú mình, nuôi chú mình, để giúp rập thu dọn cho chỗ ăn chỗ ở của vợ chồng Ngọ khỏi tuềnh toàng xơ xác. Đặc biệt là nếu như sẽ góp gạo thổi cơm chung lần hồi với nhau thì không đến nỗi đói rách cơ cực quá. Thơm quyết xin cáng đáng điều này dù còn ít tuổi.

Ô kìa! Thế rồi ta khỏi chân, ta đi rừng, ta vào các vùng trong rất sâu, ta lên các mạn trên, thì ta phải có được cái nỏ, hoặc xin, hoặc mua, hoặc nhờ ai khéo tay làm hộ cho cái nỏ, rồi ta còn phải có cả một khẩu súng kíp chứ...

- Ông khách ơi! A ông vườn ơi! Đứng bóng rồi, ông cũng phải nghỉ tay, kẻo cái cuốc nó đi kiện ông đấy! "Sao cái nhà bác Hưng lại có thằng cháu đã hay lam hay làm, thạo công biết việc, mà lại khỏe lại lành thế này?!".

Nghe bác Ngọ gái gọi và đứng trông mình chăm chắm, Thơm ngượng nghịu không biết chào biết nói ra sao, vội vun vun chỗ đất lại. Bác Ngọ gái giằng lấy cái cuốc, nắm tay Thơm, kéo Thơm đi với mình vào nhà. Chú Thơm lồm cồm tung chiếu ra, bác Ngọ gái đắp lại chiếu bảo chú Thơm cứ nằm. Nhưng rồi khi Thơm ra giếng rửa chân tay và chú Thơm rót nước súc miệng, bác liền trở ra vườn, cuốc lưng sảo sắn, bưng xuống bếp.

- Thầy trò tôi vừa ăn sáng xong hãy còn no, giờ lại luộc sắn nữa, mà lại luộc nhiều thế kia!

Chú Thơm theo bác Ngọ gái xuống bếp, nhưng không thể nào ngăn được bác. Thế là cả chú Thơm, Thơm lại ngồi trước bếp lửa với bác đun một nồi bọng xếp chật những khúc sắn trắng ngần.

- Vợ chồng ông ấy cứ dỡ mãi sắn non, ra giêng rồi sang tháng hai tháng ba còn là đói kém thì bới đâu được cái ăn. Khổ thật, nói thì chẳng nghe, giữ cũng chẳng được... Đối xử với chú cháu ta trong lúc này như vợ chồng ông ấy, ta biết lấy gì trả lại.

Đã được người lính rất lạ cứu sống, hai chú cháu Thơm ở bên Sơn Tây sang Bắc Giang đây, lại được nhà vợ chồng người bạn thiên hạ cưu mang tận tình như là anh em ruột thịt... Ông chú Thơm càng nghĩ càng thấy náo nức trong bụng và càng không thể sao hiểu được đời mình lại gặp được những người như thế.

Thật ra vợ chồng Ngọ đều biết đích xác chú cháu Thơm đang bị truy nã. Còn chuyện vượt ngục kia, vợ chồng Ngọ không cần nghe chú cháu Thơm kể mà cũng rất tường tận, vì trong mấy hôm nay không ở quãng đường nào, chợ búa nào, bến đò lò rào nào, lại không có hết đám này đến đám khác, đồn thổi đi sự việc của chú cháu Thơm. Năm trước, chỉ sau mấy buổi chợ, nhất là sau những ngày chú Thơm chạy chữa cho thằng con đã lớn của mình bị phù thũng, mấy lần về xuôi lấy thuốc cho mà càng thấy không thể cứu được người, thì Ngọ càng mến càng phục ông chú Thơm về ngỏ ngay ý nếu khi nào thấy khó khăn quá thì ông chú Thơm cứ đưa cháu lên đây nương náu. Vùng đây tuy chín người mười làng, nhưng toàn là kẻ nghèo đói cùng kiệt, nên rất quý người, thương người cùng cảnh. Còn làm ăn trên đây tuy vất vả vì phải lặn lội rừng sâu nước độc, nhưng lại dễ bòn dễ kiếm được cái ăn. Không muốn nhờ vả nhà giàu phát ruộng cho cấy lúa rẽ, thì vỡ bãi dựng nhà ở, gơ khoai trồng sắn mà ăn. Chưa tới vụ gặt hái, tháng ba ngày tám, thì đi rừng đào củ mài, tìm quả nóng, lấy măng, nấm hương, mộc nhĩ để vừa nhà ăn vừa đem bán chợ... "Còn chú cháu ông chỉ hơi động dạng là tôi đưa ngay vào trong kia hay lên quá trên kia thì dù có thiên binh vạn mã cũng không vây, không bắt nổi".

- Ông Ngọ! Trên này khan muối, mà luộc sắn ông cũng tra muối?

- Vài hột thôi ông ạ, cho nó khỏi say. A, cu Thơm, Thơm ta thích ăn sắn lùi thì lại đi lấy lá chuối, chọn củ nào to nhất đem quấn lá mà lùi.

Không đợi chú phải đưa mắt, Thơm cười bẽn lẽn:

- Thôi, cháu chỉ ăn sắn luộc thôi.

- Thì tôi đã bảo Thơm ta thích ăn thì cứ chọn củ nào to nhất đem lùi cơ mà... Lên ở trên đây với nhà tôi, cứ phải ăn cho thật no, thật tự nhiên, tôi mới bằng lòng.

Thấy Thơm không những không lùi sắn mà lại nhặt nhặt những khoanh vỏ sắn, bóc lấy lần cùi, bỏ vào rổ, bác Ngọ giai liền trợn mắt:

- Làm gì thế vậy? Cùi để bên nhà ông đĩ Tới nấu cho lợn.

Thơm càng ngượng ngụi:

- Chỗ cùi này ngon lắm. Ông để cháu đem rửa lại. Nhà còn dưa muối, còn tương, cháu kho để ăn thêm...

- Giời đất! Ăn tranh cả lợn à?!!

Cả ông chú Thơm cũng sửng sốt vì ý định này của Thơm. Ông không hiểu Thơm đã được ăn món này từ bao giờ hay đã thấy nhà nào làm như vậy mà nay bắt chước ăn như họ. Chú Thơm vội cười xòa xòa:

- Ờ! Ờ... cùi sắn non sớt thế kia, đem kho với dưa với tương thì ngon cũng như bì lợn lang hồng hay cá khoai ấy!

Bác Ngọ giai đi lấy cái nồi đất, xúc bát đầy dưa và đổ một bát tương trộn với cùi sắn. Thơm cời than ra cửa bếp, đun to lửa nữa. Thêm mấy củ hành khô thái mỏng bỏ vào nồi "bì thịt lợn lang hồng kho dưa", mùi thơm càng sực nức. Bữa sắn "uống nước" buổi trưa thành bữa cơm rất ngon. Bác Ngọ cứ tấm tắc khen mãi cái món nấu này của thợ cỗ Thơm.

- Cô ả nào mà lấy được thằng cu này thì được nhờ phải biết! Thôi để tớ xem có đám nào gần đây, người cũng khỏe mạnh, hiền lành tớ phải đi xin ngay cho...

Chiều trở gió. Những bụi lau bờ suối và đám sau sau trên đồi rùng rùng cuồn cuộn như rít như gào. Các vùng đồi chung quanh và rặng núi phía xa đều bốc mây bốc sương mù mịt. Trời càng đổ tối thì càng như có không biết bao nhiêu suối thác ầm ầm tràn về. Mấy đám lửa rừng ở phía trong rừng sâu rực lên. Ngồi trong nhà, nghe tiếng gió răng rắc, Thơm càng bị cuốn vào những câu chuyện của bác Ngọ và hai ông hàng xóm sang rủ ông Ngọ mai đi rừng sớm để ngày kia về kịp phiên chợ tỉnh mười rằm.

Bức vách chỗ chú cháu Thơm nằm phải lấy cỏ chít đến mười mấy cái khe mà gió vẫn ù ù lọt vào. Còn chỗ mẹ con thằng cu thì phải lấy tất cả nia, chiếu cũ và bao tải để che. Gần gà gáy canh hai, Thơm cũng thức giấc và càng cố ngủ lại, càng không sao chợp mắt được vì gió và cái lạnh thăm thẳm âm vang rất lạ của rừng núi thổi về.

⚝ ⚝ ⚝

Sáng nay lại mù sương, đằng đông trước còn hừng hừng sau rực lên, làm các cụm rừng và ngọn núi phía đó nghi ngút như có một sông lửa tràn lũ. Thơm đã cuốc được một đống nữa, đất đỏ lạo xạo sỏi, khi đổ nước nhào thì quánh nhem nhép. "Cối đất này và cối đất nữa là đủ một trăm cay đấy!". Thơm khoan khoái tự nhủ và tính ngay đến nếu hôm nay và ngày mai trời vẫn nắng thì Thơm có thể đóng xong đúng một nghìn cay. Như vậy chỉ chờ đến phiên chợ sau sẽ lên cáng rồi nói với bác Ngọ nghỉ đi rừng vài buổi, hai chú cháu cùng làm thì chỉ ba hay già lắm là bốn ngày sẽ xong một "đỏ". Nghĩa là ba gian nhà sẽ xây xong tường. Còn kèo cột thì chỉ thay mấy cây que cũ vốn là gỗ rừng tốt, chẳng cần thợ mà chỉ cần người nhà với hai con dao thật sắc, và lạt thật tốt sẽ làm xong. Nếu như lại có cả mấy bó mây chẻ sẵn phơi gác bếp mà buộc mà néo cho thật kỹ, rồi đánh thêm mấy phên tranh, thì... càng chóng có nhà mới!

Bác Ngọ gái cũng trỗi từ lúc gà gáy sắp rạng sáng. Bác lừa thằng cu, đắp chêm cho nó cái áo rách của mình, rồi xuống bếp. Vừa đặt nồi nấu nước uống vừa thổi cơm. Năm buổi nay, bác Ngọ giai nhận về cho ông chú Thơm thêu một tấm y môn của một nhà ở gần chợ tỉnh. Cứ như mua mới hay nhờ thợ dưới Bắc Ninh làm, thì mất mấy chục quan tiền đấy, nhưng chú Thơm chỉ xin có ba đấu gạo, nên nhà chủ liền cho cả ba đấu, rồi khi treo thử, thấy ai cũng khen cẩn thận, nền nã, thì lại thưởng thêm cho một quan tiền và hứa sẽ mách mối cho mấy bà con thân thuộc đang muốn tìm thợ làm hàng thêm để nhà thờ ngày Tết.

Khi bác Ngọ ra đi lại gọi vợ ra tận đường căn dặn có thổi cơm thì phải thổi hơn bát gạo cho ông chú Thơm và thằng cu ăn no còn nhà vẫn cứ phải... sắn, phải sắn!!!...

- U mày xem có ai bán mớ cá mớ tôm thì mua, nấu bát riêu hay kho nhàn nhạt cho bác Hưng ăn, chứ đừng để bác ăn mãi cái tang dưa với cùi sắn kho chườm muối.

Người vợ liền lườm chồng:

- Tôi gần nửa đời người rồi mà ông còn phải bảo quá đứa trẻ! À mà đến phiên chợ chính này, có kiếm được nhiều măng, nhiều vỏ đỏ thì ông cũng đừng bán tống bán táng cho mấy đứa đi đón hàng chiều áp phiên ở phố chợ đấy nhá!

Vợ Ngọ vẫn chỉ manh yếm và chiếc quần ngắn hũn ra giếng.

- Thím! Kìa thím! Thím để cháu kín nước.

- Thím ơi, thím! Để cháu làm cối đất ấy!

- Thì tôi cũng cuốc đất làm cối khác vậy. Chân anh vẫn còn đau mà anh lại cứ làm đất thế kia thì đến bao giờ mới để cho nó khỏi hẳn.

- Không, chân cháu sắp khỏi hẳn rồi và còn đau gì đâu!

Vợ Ngọ chạy lại vỗ vỗ vào đầu gối bên chân vẫn rịt thuốc dấu và quấn vải:

- Nói dối! Cứ nói dối!

Thơm cười thẹn:

- Cháu không nói dối thím đâu, thật chân cháu sắp khỏi mà! A thím này, chiều nay thì cháu đóng đủ một nghìn cay, thím với cháu lên cáng hết những cay đã nỏ. Rồi sáng mai, thím với cháu xây.

- Anh Thơm cũng biết cả xây cay.

- Có thím bảo cách xây thì cháu xây được mà. Hôm lên đây, cháu đã xem hai bọn xây tường cay, cháu thấy cũng chẳng khó lắm. Thím ở trên này lâu, chắc thím phải biết việc, thím bày cách cho cháu gây chân móng, cuốc đất làm vữa, rồi thím chọn cay cho cháu, là cháu khắc quen ngay.

Thơm nhấc nhấc một hòn cay đóng khuôn nhỡ, sỏ nhỏ, đất nhào nhuyễn, phơi đã đỏ tươi và hin mịn như gạch nung, Thơm cũng nhấc nhấc cả cái khuôn gỗ hình chữ nhật lên, tấm tắc:

- Dưới quê cháu mà có thứ đất sỏi này và biết cách đóng này, thì không lo gì cây que tường vách, mưa nắng bão gió nữa! Thím nhỉ, tường cay càng dãi mưa nắng, càng trơ sỏi ra, thì lại càng đanh càng chắc... càng đẹp hơn cả tường xây gạch non, trát vữa tả!

Sáng hôm phiên chợ sau nữa, trời càng nắng. Thơm đang lúi húi cuốc mấy gốc cây cạnh bãi, ngẩng lên thì thấy bác Ngọ gái cuốc xong một đống đất từ bao giờ và đang gánh hai nồi nước chạy veo veo ở giếng lên để nhào. Bác vẫn chẳng chịu đội nón gì cả. Tóc bác đã ngắn lại thưa. Chiếc khăn vấn bằng vải nâu đã bạc, đã vá, lẳn gọn như cái sừng của mũ đâu mâu, gương mắt bác đỏ hồng, bả vai, sống lưng, bắp tay bắp chân, da thịt lấm láp như tắm mồ hôi...

- Tôi nhào xong cối đất này rồi anh nó hãy cuốc móng nền nhé. (Bác gạt mồ hôi trán với cánh tay nâu cháy) - Ông cụ bên đồi sau nhà vừa xem lịch xong, bảo hôm nay được ngày đấy, ta động thổ ngay để lấy giờ thôi.

Miệng nói đoạn, tay giội nước, chân sục vào đất giậm, giằm, nhào trộn, bác Ngọ tươi hơn hớn, lại gọi Thơm:

- Đã xong cái thằng gộc trám ấy, lăn nó ra giữa kia đoạn ta đóng cọc, chăng dây, cuốc móng.

Đất dưới chân bác Ngọ gần thành bùn, lắm lúc phì phì, phòn phọt, bắn cả lên mặt bác. Thơm chưa kịp bẩy cái gốc cây, bác đã chạy đến, dạng chân chèo, chẳng cần gậy, cần đòn gì cả, vần thình thịch cả khối gốc rễ lởm chởm sỏi đất nọ, băng hẳn đi chỗ khác. Thơm không thể tưởng tượng lại có một người đàn bà làm khỏe và tợn tạo đến thế.

- Nào, anh nó cứ theo thẳng đường dây mà cuốc xuống một tấc, để tôi gánh nước về rước cho thật thấm rồi hãy đặt cay.

Gày xong chân móng hai đầu hồi hướng tây và hướng đông xong, bác Ngọ gái lại tranh đi gánh cay. Lần này thì Thơm phải chạy lại, giằng giữ lấy quanh gánh:

- Thím! Thím! Thím gánh hai hòn thôi. Gánh những bốn hòn thế kia, sút lưng thì sao.

- Ôi lêu ơi! Hai hòn cay như hai cái gối của cụ đồ thế này chả bõ chuyến. Cơm đơm thì phải đầy bát, ăn mới ra ăn... Quét nhà không đau cái chổi, cuốc đất không đau hòn đất, gồng gánh mà cứ tênh tênh ấy... Ai, chứ tôi trông thấy làm ăn mà như thế, tôi ngứa mắt lắm.

Xếp bốn hòn cay vào đóng cay ở chỗ Thơm xong, gồng quang gánh xuống giếng, bác Ngọ bỗng đứng lại giữa bãi gọi:

- Đẹp đấy anh nó ạ, mới lên được hai hòn mà trông đã đẹp đấy! Ta cứ lên từ từ, xong chiều nay mà lên được mỗi đầu hồi hai thước thôi, rồi ngày mai, ngay kia có cả bố nó xây, thì chỉ năm hôm vẫn nắng như thế này là cất được nóc.

Nền nhà mới trông thẳng xuống bờ suối dưới chân đồi. Ngọn đồi xấp xỉ nóc nhà, có một rặng sau sau và mươi gốc dẻ. Mặt trời chiếu chênh chênh sau bãi sắn phía trái, qua đây lại sang một quả đồi thấp hơn, cây cối rậm rạp. Sáu mấy quả đồi và mấy cánh rừng xa xa là phía triền núi Tam Đảo xanh ngút, bạt ngàn.

- Các bà đi chợ qua đây thế nào thấy nhà mới chả đỗ gánh lên nhà uống nước. Còn các ông trong ấp đổ cày về thì lại vào hút thuốc. Chuyến này nhất định phải sắm cái điếu bát thôi...

Bác Ngọ gái còn bụng bảo dạ:

- Rồi cũng phải vỡ vạc cái rẻo gần bờ suối mà cấy hẳn một nồi thóc mạ. Không nhờ được trâu cày thì cuốc. Hai vợ chồng và thằng anh Thơm nó kia mà cuốc thì không kỹ  hơn trâu ấy à? Không có vốn nuôi lợn lấy phân bón, ta đi cắt lá hôi đem ủ hố nước giải, đi rạc cỏ hun, đi gánh đất lầm ở các vũng...

Hai thím cháu lại lên được hai hàng cay nữa. Thằng cu con đi chơi về cũng cố bưng một nửa cay vỡ đến cho mẹ, cho anh Thơm xây.

- Lang! Không khiến! Lanh chanh lanh chanh, cay chơi xuống chân thì què đấy.

Lang cứ cố ốm, cố nhấc hòn đất, Thơm chạy lại đón, cười:

- Chú để tôi đỡ cho chú nào. Ai chà, nặng thế này mà cũng bê được, khỏe gớm đấy chứ. Thím Ngọ à, thế quê chú ở Lang Tài, còn quê thím ở bên Quế Dương hay Tiên Du?

- Ở Quế Dương mới khổ như thế này, chứ ở Tiên Du thì đã không theo cái lão ấy lên đây!

Không để Thơm phải hỏi, bác Ngọ gái cười rinh rích:

- Ruộng Tiên Du vừa tốt, bờ bãi lại nhiều, gái Nội Duệ, Hiên Ngang ở Tiên Du cứ nguyên trồng dâu nuôi tằm dệt lụa dệt vải cũng đã làm giàu cho bố mẹ, cho nhà chồng. Chả thế mà gái Nội Duệ, Hiên Ngang cứ đẹp như tiên mà hát quan họ thì đến cả tiên cũng phải ghen, cũng chịu thua ấy! Chứ đâu như gái Thi Xá bên Quế Dương này!

- Thím à! Thím ngã, bị nhọt, bị bỏng hay làm sao mà vai có sẹo to thế kia?

Đến bây giờ Thơm mới dám hỏi.

Bác Ngọ gái cười:

- Ấy thằng chó, nó cắn đấy!

Thấy Thơm ngớ hẳn người, bác Ngọ gái càng cười to. Thằng chó ấy nó hiếp người ta không được thì nó cắn đấy!

Không để Thơm phải chờ đợi, bác Ngọ gái liền dảu dảu kể ngay câu chuyện nọ:

- Thằng chó ấy nó làm đội lệ ở huyện Lang Tài. Người nó như ông Hộ Pháp mà thấy đàn bà thì cứ như chó dái ấy. Không vợ hai, vợ ba, vợ tư nào chịu được nó. Nó gặp ta đi cấy bên ấy tuần trước, tuần sau nhờ ngay mõi đến hỏi ta. Có là chó mới đâm đầu vào cửa nhà nó. Nó đón đồng ta mấy buổi, bảo nào về với nó, nó sẽ làm ngay nhà cho ở riêng, muốn sắm hoa tai vành cánh hết bao nhiêu tiền nó cũng sắm. Nào không muốn đồng áng vất vả, thì nó cấp hẳn vốn riêng cho đi chợ... Ta càng lặng thinh thì nó lại càng bám lấy chằng chằng. Tối hôm ấy có trăng, ta với bọn thợ cấy đi xem chèo về, bức quá ra giếng cuối xóm lau mình. Thằng chó ấy đứng rình ở gốc đa, ta vừa xách gầu xách chậu đi đến, nó liền vồ lấy ta. Nó đã dằn được ta xuống, nhưng ta cứ đạp, đầu gối cứ co cứ thích lên ngực nó. Rồi sau ta cào vào mặt nó, tóe cả máu mắt. Thế là nó bóp cổ ta và cắn ta một miếng thế này rồi bỏ chạy.

- Tóe cả máu mắt, thế nó có mù không?

Thơm mím mím môi nhìn vết sẹo, hỏi bác, Ngọ gái Bác cười khanh khách:

- Không mù nhưng phải đi chữa hàng tháng rồi thành chột. Anh nó ạ, rồi thế này mới ghê chứ, lão ta ấy mà... (Bác Ngọ gái bẽn lẽn) Lão Ngọ ngày đó chuyên đi gánh thuê và làm đất thùng đấu, lão phải lòng ta. Không hiểu ai phô chuyện đó với lão mà lão đùng đùng đi tìm ta, căn vặn mãi ta, hỏi "có làm sao không?", "có việc gì không?". Rồi lão bỏ ta, lão đón đường thằng chó ngay tối hôm sau nó đi đánh chén ở một đám khao về. Lão chẳng nói chẳng rằng, vật nghiến nó ra, vừa bóp cổ vừa đập đập đầu nó ở ngay dưới gốc đa ấy. Thằng chó nằm thẳng cẳng, tưởng chết. Thế là lão ta cuốn gói đến gọi ta đang ngủ, lôi ta dậy, bảo ta phải đi ngay, trốn ngay. Thế là ta lên ở Lạng Giang với lão, rồi lên đây. Thế là từ ngày ấy đến giờ ta phải bỏ làng...

Thằng cu nghển nghển, thần mặt ra nghe mẹ kể chuyện. Nó ngồi hẳn vào giữa hai bắp đùi mẹ, mặt nó áp vào cổ mẹ, cái chỏm tóc xờ xạc hoe hoe dụi dụi vào bả vai bầm bầm vết sẹo. Chợt người mẹ chớp chớp mắt, giọng nói, vẻ mặt trầm hẳn lại:

- Càng nghĩ lại càng thương, càng xót xa cái chuyện mẹ ông thủ khoa Nguyễn Cao.(1)

Sang chuyện này, bác Ngọ gái như không phải chỉ nói, chỉ kể với Thơm, với thằng con, mà như nói như kể cho tất cả những ai ai, tất cả khắp nơi, chưa biết chuyện hay biết rồi cũng mặc, đều nghe vậy:

- Bà cụ ông thủ khoa người đẹp gái chứ không như ta đâu! Đã mỏng mày hay hạt, lại còn được cả đôi con mắt nữa. Người ta bảo gái vùng Thủy Nguyên ở dưới Đông, mắt cứ như mắt bồ câu, nửa vui nửa buồn, mà nhìn ai thì như bỏ bùa bỏ bả cho kẻ nấy. Đôi mắt bà cụ còn trong hơn nước giếng khơi, thăm thẳm thăm thẳm. Ấy, cũng chỉ vì đôi con mắt ấy mà bà cụ khổ!

"Bà cụ góa chồng. Ông cụ chết năm ông thủ khoa mới biết bò còn đang bú. Thấy gia cảnh thanh bần mà bà cụ vừa có nhan sắc vừa hiền hậu đảm đang, kẻ thì đánh tiếng lấy bà cụ khi bà cụ đoạn tang chồng, kẻ thì xin ông thủ khoa về nuôi, nếu bà cụ định đi bước nữa...

Mặc kệ tất cả các đám đi lại thăm nom mối lái, bà cụ cứ ở với ông thủ khoa, nhà bố mẹ đẻ cũng không về nhà ông chú bà bác đằng chồng cũng không về, cứ lần hồi với mấy sào ruộng vườn. Phải năm đói kém, càng loạn lạc càng nhũng nhiễu. Nhiều người thân thuộc đã khuyên bà cụ thấy chỗ nào hiền lành, hiếm hoi, cần người quý người, thì mẹ con nên về đấy mà nương tựa. Bà cụ càng lặng thinh, càng thức khuya dậy sớm. Bà cụ làm thêm cả hàng xáo, một tháng sáu phiên đi chợ đong thóc, bán gạo, kiếm thêm đấu tấm đấu cám nuôi con.

... Có một thằng phó tổng vừa có của vừa hiếm hoi, mấy lần cho người đón chợ và đưa tiền xuống tận nhà bà cụ ngỏ ý cưới hẳn bà cụ về làm vợ bé. Lần trước bà cụ còn bồng con sang nhà bà thím không tiếp, lần sau thì bà cụ đóng cổng mặc người gọi, mặc chó cắn... Thằng nọ liền đe nếu bà cụ không chịu lấy nó thì nó sẽ cho cướp đến đốt nhà, giết con. Bà cụ vẫn mặc kệ. Thế là thằng chó ấy cũng đón đường, hiếp bà cụ. Hôm ấy, bà cụ gởi con hàng xóm đi chợ từ lúc tinh sương, bà cụ gánh gánh thóc đong về, hàng xóm phải kẻ thì chạy thuốc, kẻ thì xay giã giúp. Bà cụ lấy vải quấn chịt hẳn cái bên vú mà thằng chó ấy bóp, thằng chó ấy cắn. Bà cụ cho con ăn bú một vú. Từ ngày đó bà cụ không đi chợ nữa, chỉ quanh quẩn cuốc xới lam làm ở nhà với con. Mặc dầu bà cụ quyết tâm như thế, thằng chó ấy vẫn cứ cho người nhắn nhe, săn đón. Bà cụ nuôi con đến năm lên ba, ăn khỏe, chạy vững và tới ngày giỗ đoạn tang chồng cụ, thì bà cụ nhờ người đi chợ mua trầu cau vàng hương về làm lễ ban thờ. Lễ xong bà cụ đóng cửa lại, đưa con đến giường chồng, cột chân con lại bên cái nong, để trên tàu lá chuối mấy nắm cơm chim chim, xẻo bên vú đã bị nhuốc nhục để giữ trọn vẹn da thịt xuống với chồng, rồi thắt cổ với vuông khăn tang chết ở xà nhà.

... Anh nó ạ, bà cụ chết rồi thiêng đáo để. Không cho ai đưa được ông thủ khoa về nhà mình nuôi; dù ai chăm nom may mặc và cho ông thủ khoa ăn uống thế nào, ông thủ khoa cũng cứ ốm đau quặt quẹo, khóc cứ sa sả. Ông thủ khoa về ở bà ngoại nuôi đến lớn rồi giao người chú. Duy có nhà ông chú nghèo nhất là ông thủ khoa chịu ở. Lên năm, ông thủ khoa chỉ theo các anh và các trẻ trâu đến nhà một ông đồ nghe trẻ học mà ông biết đọc biết viết, thuộc hết cả mấy bộ sách của ông đồ. Người ta bảo nhiều đêm khuya cứ nghe thấy tiếng xay thóc giã gạo và cả tiếng bà cụ giảng sách, dạy con học ở bên nhà thờ bà cụ. Lên bảy, ông đi học, năm nào cũng nhất trường, nổi tiếng cả huyện. Lên mười thì lừng tiếng cả tỉnh Bắc ta. Ông đi thi kỳ nào cũng đứng đầu bảng. Ông vừa đỗ xong, vua bổ đi ngay làm quan. Ông lên Yên Thế ta, xây ngay thành, vừa trấn lấy cửa Nhã Nam không cho bọn giặc từ các mạn trên kia kéo xuống cướp phá, vừa mở Tỉnh mới cho bà con nghèo đói khai hoang vỡ rậm.

Thơm càng quăng quắc đôi mắt trông về phía rừng núi trước mặt tâm trí lại cồn cồn. Bác Ngọ gái còn muốn chuyện nữa, nhưng chợt nhìn bóng nắng, vội đứng lên phủi phủi đũng quần, ẩy thằng con ra, lại cười khanh khách:

- Chiều rồi, thôi ta lên thêm một hàng cay này rồi còn sắp bữa. Lão ấy nó đi rừng về mà không có cơm ăn ngay thì lại giời long đất lở với lão!...