Chương IV
Mặt trời chỉ hơi ngả về phía rặng núi Tam Đảo đằng xa mà đường đi đã vắng quá. Bóng Ngọ và bóng Thơm với hai gánh củ nâu nhấp nhóa trong nắng xế trưa cứ biền biệt, họa hoằn mới gặp một vài bóng người khác đi ngược lại chứ không thấy ai nhập bọn cả. Họ cũng luồn rừng về. Kẻ đã bán cất hàng ở ngay chợ Nhã Nam rồi mua sắn, mua măng về, gánh vẫn cật sức. Thỉnh thoảng lại có người hỏi đường về chợ Thắng, chợ Chờ, hay bến Đông Xuyên, bến Xá, bến Ngọt để về dưới Bắc Ninh.
Đến cầu Ly Cốt, nếu như mọi khi còn cái quán nước thế nào Ngọ cũng nghỉ lại để hút thuốc rồi chuyện tào lao mấy câu với ông cụ ở đây. Nhưng từ ngày ông cụ ốm quá, thuốc thang và cả cơm cháo cũng không có nữa nên đành vào làng trong để chết, còn được bà con hơi hướng họ nội vuốt mắt cho, thì cái quán của ông cụ liền đổ nát, trẻ trâu dỡ dần cây que đốt sưởi, nướng cua, luộc rau má, rau rệu, rau tập tàng ăn chơi với nhau, còn đầu cầu bên ngoài từ bấy tới nay vẫn bỏ hoang.
Tắt sang rừng Thần, ra ấp Sậu đường cũng vắng nhưng còn có người làm đồng hay đi củi, đi trâu về. Đi củi là những nhà nghèo đói. Còn đi trâu không phải là trẻ con mà là những đàn ông, người lớn chăn trâu mình hay trâu chủ, tuy còn sớm giời nhưng đã phải về vì sợ cướp trâu. Đồi bãi đây cũng um tùm cây cối, các ấp, các trại đều rào rấp kỹ, mấy nhà gần đường đều bao tre gai, dứa dại, xương rồng. Ở một nhà quen trên đỉnh đồi, bọn luồn rừng đang đun bếp nấu nước, thấy cái bóng lực lưỡng và gánh củ nâu nặng trĩu của Ngọ, liền nhổm lên gọi:
- Vào đây, vào đây ngủ trọ thôi, ông Ngọ ơi!
Lại thấy một chú đi đằng sau, giành nâu cũng nặng không kém mấy người nọ nhao nhao hỏi:
- Cu nào đi theo mà khỏe mấy, ông Ngọ?
- Người nhà hay con cháu nhà ai ở trong trại mới lên đấy?
Ngọ và Thơm phải đỗ gánh, Ngọ hút luôn hai mồi thuốc lào rồi mới uống bát nước vối ủ đặc xít của họ rót mời, Thơm vẫn không khát. Thơm chỉ đứng nhìn bọn bạn rừng của Ngọ rồi trông ra các đồi bãi chung quanh. Vẫn chưa tới Tỉnh mới. Còn phải qua dốc Đỏ. Dốc Đỏ ở trước mặt kia rồi. Có phải cái tòa thành đất nổi lên sừng sững trước rặng núi xanh, giữa vùng đồi bãi và đồng ruộng thấp thoáng nhà cửa và người qua kẻ lại kia, là thành lũy của Tỉnh mới không? Thơm mím mím môi, Thơm sực nghĩ đến ông thủ khoa con bà mẹ người quê Thi Xá. Ối a! Thành này là của ông Tán Cao xây đấy, tỉnh này là của ông Tán Cách Bi mở đấy.
- Kìa! Ở lại đây ngủ với bọn tớ chứ!
- Hai thầy trò hai gánh củ nâu đẹp thế kia, mai phiên chợ, chỉ ra đến đầu đường vào chợ là nhẹ vai ngay.
Ngọ cười, chào mọi người, gọi Thơm lại cùng cất gánh. Thơm đi song sóng bên Ngọ:
- Chú à, quan Tán lên Yên Thế đây mà cũng xây thành? Thành to, hiểm còn hơn cả thành Bắc Ninh ấy.
- Có thế mới trấn được giặc từ các mạn trên kéo xuống chứ! Cháu không nghe chuyện đấy như: trước kia, mình đây cứ luôn luôn bị hết bọn giặc Tàu này tràn qua Cao Bằng, Thái Nguyên lại đến bọn giặc khác đổ từ Lạng Sơn, Móng Cái sang cướp bóc. Ngoài Nhã Nam có làng Tết năm trước cháy trụi, dân vừa đùm đúm được mấy gian nhà, thì Tết năm sau lại bị đốt phá sạch sành sanh. Bao giờ cũng vậy, hễ cướp của là đốt nhà, cháu à?!! Mà tàn hại nhất là mất trâu bò, thóc lúa.
- Thế mà quan Tán vẫn cứ nhất định mở tỉnh ở cái chốn đầu sóng ngọn gió này?!!
- Giữ được thành, trấn được giặc, phải có quân, mà nuôi quân thì phải có dân chứ. Mở tỉnh để chiêu dân lập ấp, phá hoang vỡ bãi, cày ruộng thì mới có cái mà sống. Chả thế mà thiên hạ dưới vùng xuôi kéo nhau lên Yên Thế mỗi ngày một đông.
Thơm thẩm lẩm: "Nhưng ông con nhà cháu ấy mà!". Thơm bỗng sững người. Qua khỏi chân dốc chơm chởm những gốc cây nham nhở vết chặt vết bổ, vừa lên tới đỉnh đồi còn rậm rịt sim mua và cỏ lưỡi rắn, thì Thơm bị cảnh tượng tòa thành vập ngay vào mặt với những quả đồi vây bọc đằng sau lưng, và mấy rặng núi xanh đang ngun ngút mây trắng phía xa xa.
- Chú à, chú bảo giặc ở các mạn trên tràn xuống đây cướp phá, thì từ Lạng Sơn, Quảng Yên, Móng Cái hay từ Cao Bằng, Thái Nguyên về đây bằng đường nào?
Ngọ phải đặt hẳn gánh xuống, một tay nắm cánh tay Thơm, một tay trỏ về phía Thơm ngước trông:
- Qua rặng núi xanh xanh mờ mờ đằng Đông Bắc kia là có đường lên cả Lạng Sơn và xuống Quảng Yên, Móng Cái - Ngọ bấm vào vai Thơm để Thơm quay người nhìn theo tay mình - Còn sau rặng núi rậm rịt cây cối phía trái ta là đất Thái Nguyên mà qua Thái Nguyên là lên Bắc Cạn, Cao Bằng...
Thơm còn đang đăm đắm trông thì Ngọ ẩy Thơm ra một mô đất để trông lại phía sau:
- Đấy! Đấy! Rặng núi cao cao chập chùng trước mặt đồi ta ở là rặng núi Tam Đảo, sườn bên này vừa là đất của Thái Nguyên vừa là đất của Tuyên Quang. Còn sang đất Vĩnh An, Phúc An, Sơn Tây thì đi con đường ông con nhà cháu lên đây ấy.
Thơm lại càng đăm đắm mắt nhìn. Ngọ phải kéo cánh tay Thơm và trỏ xuống phía hướng nam tòa thành mở một cổng trông ra cánh đồng:
- Còn từ đây, qua núi Đụn là có đường tắt về cả Yên Dũng, Lạng Giang, Quế Dương, Võ Giàng đến tận tỉnh Bắc Ninh. Hay muốn về Hà Nội thì chỉ vượt sông Cầu, sông Đuống, sông Cái bằng đường qua huyện Thắng, qua phủ Từ Sơn, qua huyện Đông Anh, là vừa gần nhất, vừa đông dân cư, chợ búa nhất!
Đến giờ thì Thơm phải quay lại mà nhìn Ngọ và như muốn thầm hỏi: "Chú ơi! Sao chú thông thạo đường đất các nơi thế? Và sao chú lại ru rú ở cái ấp lảnh của đất Yên Thế này hả chú?". Mà được người trí lự như quan Tán, sao triều đình nhà vua không để trị nhậm lâu đất này cho dân nhờ?!! Thơm còn đang xốc gánh thì Ngọ đã nhấc bổng gánh lên vai, Ngọ lại bước trước, cười:
- Chú cháu ta hẹn với ông đồ Mốc chỉ buổi trưa là đến. Bây giờ bóng chiều đã ngả, chắc ông đồ và bác phó Thêu sốt ruột lắm đấy!
⚝ ⚝ ⚝
Nhà cụ đồ Mốc ở bên đường có khu vườn liền với bãi rộng giáp góc thành. Ông đang ngồi vê vê mồi thuốc định nạp vào điếu hút, thấy tiếng chó sủa, vội ngẩng trông, vẻ mặt tươi tỉnh hẳn lên. Bọn học trò đang nhê nha học ở chung quanh hai tấm phản gỗ rộng trước ban thờ liền nháo nhác trông theo ra sân, mà vẫn vươn cổ đọc bài như hát ngao:
- Khổng Tử viết: Thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản... ( 1)
Ông cụ khua khua đôi guốc mộc đẽo lấy để ở gầm phản, quắp hai ngón chân vào đi lập cập ra cửa. Ông chú Thơm ngồi thêu ở giường gian bên, cắm phập ngay kim xuống miếng vải điều căng trên khung, cũng đứng dậy ra đón.
- Thưa cụ, cụ bà con vẫn chưa về cơ ạ!
Ngọ chào ông cụ và hỏi thăm ngay. Ông cụ đồ cười, trỏ tay xuống bếp:
- Có mấy bánh thuốc và cân chè ấy, đi vào trong Thổ đổi được đấu thóc nếp và ít mộc nhĩ, nấm hương xong, thì phải về ngay chứ ngủ lại trong ấy làm gì.
- Cụ bà nhà ta chịu khó quá, con đã bảo để con quẩy đỡ cho nhưng cụ bà nhất định không nghe.
- Ấy cứ cái nết ấy, hai ông ạ! Kia kìa, vừa về đến nhà đã lại xuống ngay bàn xe hương để đưa cho mấy hàng bán phiên chợ tỉnh ngày mai.
Ông cụ đồ vội kéo tay Ngọ:
- Lại cho cái gì thế? Ôi giời, cái ông này!
Ngọ tháo một đùm măng ở giành củ nâu ra:
- Có ít khoai môn để cụ bà nấu canh cá rô, rau cải? Nghe nói cụ ông mệt phải cho học trò nghỉ, thế mà hôm nay đã lại gượng dậy rồi. Thảo nào cụ bà con chả sốt ruột, sốt gan, về nhà ngay!
Ông cụ cười khơ khớ, oang oang gọi xuống bếp:
- Bà lão ơi! Thôi để việc đấy! Gà gáy mai tôi cùng dậy xe với, không lo nhỡ hàng của người ta đâu. Có việc này cần hơn, ông Ngọ dưới Đình Vồng lại cho khoai đây này. "Đi thời nhớ vợ cùng con, ở nhà nhớ củ khoai môn trên rừng". Mà cái ông Ngọ có ma xó mách bảo hay sao ấy, không thì làm thế nào biết được nhà mua được cá rô mà cho củ nấu canh. Thôi thôi đi làm cơm...
Thơm không thể không ngạc nhiên. Ông cụ người bé nhỏ, đầu bạc cạo trọc, tay chân càng như không còn tí thịt nào, còn da dẻ thì khô róc như đóng vảy, lưỡng quyền nhô như hai mũi lưỡi cày, đôi mắt mờ mờ như có màng nước. Thoạt trông trưởng như một ông tượng Tuyết sương đói gầy ở chùa nào ấy. Vậy mà sao lại nhanh nhẹn, vẻ vui lạ thế này?!
- Ông phó Thêu cũng phải nghĩ tay chứ, uống nước thôi.
Ông cụ đồ nhấc cái khay gỗ tròn, đen cáu ở trên ban thờ xuống, rồi lôi xềnh xệch dưới gầm nhang án ra cái hỏa lò đã nứt phải đành mấy vòng đai mây. Chợt nhớ ra còn bọn học trò vẫn ngồi nhớn nhơ nhớn nhác ở chung quanh phản, ông cụ nói như quát:
- Thôi xếp sách bút lại, chào hai ông, rồi cho về.
Rào rào như bầy ong, sáu đứa trẻ gấp gấp, quơ quơ, dúi dúi những giấy bút, ghế, chổi lại, nhao nhao chắp tay chào thầy, chào khách của thầy, ù té ra ngoài. Ông cụ đồ lấy cái chổi con treo ở cột nhà phẩy phẩy chiếu, đặt bộ ấm chén ra giữa phản, mời chú Thơm và Ngọ ngồi. Siêu đồng con trên hỏa lò than tàu quạt cháy rực, thoáng chốc đã reo rồi phì phì nước, nổ lách tách xuống lửa. Ông cụ tráng ấm chén kỹ rồi mới dốc chè ở cái lọ sành da tru ra đúng một chén quân cũng bằng sành để pha.
- Bà lão ơi! Nào lên uống chén nước với hai ông.
- Mời hai ông với thầy nó... cho tôi xin vô phép.
- Phép với tắc gì nào! Có lên không hay để tôi bưng xuống mời bà đây này.
- Giời đất, cái ông lão này...
Bà cụ cũng còm cõi, nhưng gọn ghẽ như một gà mái ri, vừa chạy lên nhà vừa phủi phủi tay ra sau lưng áo nâu dài thắt vạt. Bà cụ nhích nhích hai chén nước lại gần nữa ở trước mặt chú Thơm và Ngọ rồi đón chén chồng đưa. Bà cụ cười:
- Mời nước hai ông.
- Kìa, bà uống chén nữa chứ!
- Thôi, thôi, cho tôi xin vô phép.
Mặc dầu nói thế, bà cụ vẫn phải nhận chén nước thứ hai của chồng đưa và phải uống nhanh rồi quay xuống bếp. Hương nhang trầm thoảng lại từ cái thân hình thanh mảnh và tấm áo rách vá rất khéo trông thật nền nã kia, cùng hương chè ướp hoa sói ngát lên ở cái ấm chuyên, làm ông chú Thơm lại phải nghĩ đến bao nhiêu việc, bao nhiêu chuyện. Chú Thơm cứ nhấp giọng mỗi ngụm lại thấy trong dạ rân rân, cồn cồn như uống rượu ấy! Vừa phần ông cũng đang đói. Sáng nay lại sắn luộc. Trưa nay cũng thế. Ông thương thân mình thì ít mà thương cho ông cụ đồ gấp mấy mươi. Ông cụ móm mém không nhai được, gần như phải nuốt chửng những miếng sắn chín nhũn, chiêu với nước chè loãng. Hôm qua, bà cụ đồ lại phải cầm rá đi vay gạo nhưng cả mấy nhà thân nhất ở ấp trong, trại ngoài đều hết. Còn mỗi nhà đã dốc ngược hũ lên, vỗ tưởng đến giập hũ mà chỉ còn lưng bát gạo, chia cho bà cụ hai lẻ để cùng nấu cháo ăn bữa tối với mình. Thế là hôm sau, gà chưa gáy rạng sáng, bà cụ đã quẩy hàng lên Na Lương, xế trưa nay thì về. Được hũ thóc, bà cụ đem xay quáng quàng mấy đấu, không dám giã bằng cối đâm sợ nát gạo, phải nói nhỏ với ông cụ giã cối chày tay. Còn mớ cá rô nấu canh chiều nay là của bà mẹ một thằng học trò đi tát vũng dưới suối đem biếu thầy với ba cây rau cải của luống rau nhà trồng sẽ nhổ đem bán chợ ngày mai...
Ngọ chỉ nghiện chè xanh. Nhưng uống đến chén trà thứ ba, thì Ngọ thấy trong ruột trong gan như nở ra với nước sâm hay một nước thuốc gì thơm mát nhất. Cả hơi nước sôi cũng thơm. Cái siêu đồng chỉ to hơn quả thị lại phùn phụt vòi. Ông cụ lót tay bằng ngay cái khăn chấm mắt của mình, nhấc siêu rót vào cái xuyến. Hương chè càng ngát lên. Qua làn hơi nước sôi và hương chè, Ngọ chợt nhận ra có đôi câu đối mới dán ở thân cột bên trong ban thờ. Tuy không biết chữ, nhưng Ngọ thấy những nét mực lấp lánh sao mà rất lạ, vừa như là hoa bay vừa như là gươm múa, khác hẳn những câu đối bày bán chợ Tết mà Ngọ đã mua về nhà treo cùng nhiều bà con hàng xóm. Chẳng thể giữ gìn được thêm, Ngọ nhổm lên cố trông cho rõ hơn.
- Thưa cụ, câu đối, chữ viết...
Ông cụ đồ cũng nhổm theo, vừa đưa chén nước mới chuyên mời Ngọ uống, vừa cười ha hả:
- Hai ông ạ, chữ viết đã đẹp mà ý mà tứ thì thật là tuyệt thế vô song.
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.
A ha! Thập tải... luân giao... cầu... cầu cổ kiếm đối với: Nhất sinh... đê thủ... bái... bái mai hoa, thì dưới gầm trời này còn ai làm hơn được?!!
Ông cụ đồ Mốc cười sằng sặc, cười mà lại lấy khăn chấm chấm nước mắt:
- Mười năm đã đi các nơi để cầu thanh kiếm quý
Cả một đời chỉ cúi đầu trước nhánh hoa mai.
Ông cử Phú Thị ơi! Quan giáo phủ Quốc ơi! Thế mà Người lại chết đấy! Ô hô! Người chết vì muốn:
Bình dương, Bồ bản vô Nghiêu Thuấn
Mục dã, Minh điều hữu Vũ Thang.
Muốn đời này âu ca thanh bình mà phất cờ đại nghĩa cho bách tính nghèo khổ nổi lên đổi đời thay kiếp, như vậy, dù có bị đạn bắn, giáo đâm và chịu những tai tiếng gì gì đi nữa thì hậu thế cũng vẫn quý trọng Người!... Cái thằng đồ Mốc này được làm người cùng làng cùng tổng với Người càng nghĩ thì lại càng thêm giận cho cái thân ốm yếu, mắt mũi lại gần mù này, không được theo hầu bên ngựa của Người để rửa mối hận đời...".
⚝ ⚝ ⚝
Ngày ấy ở Phú Thị có một cô hàng xén rất nhan sắc tên là cô Tơ. Cô dọn hàng gần chợ, tuy lấy chồng rồi nhưng vẫn ở nhà nuôi bố mẹ già. Viên phó tổng người Phú Thị đã làm lễ cưới cô hẳn hoi xong vì từ bà cả đến bà hai, bà ba của y đều nhất định không cho cô về ăn ở hẳn với y. Cô đã nhan sắc lại có giọng hát rất thanh, rất ngọt. "Cho con này về hẳn nhà để "ông ấy" lại ốm rũ xương và nó thành bà chúa Chè à!!...".
Cũng ngày ấy, bên phủ Từ Sơn, có một gánh tuồng. Nhân nhịp phong đăng hòa cốc, vào buổi xuân sang, Phú Thị vào đám, gánh nọ đến xin hát. Tối đầu diễn vở Tiết Giao, đoạt ngọc.
Tích tuồng như sau:
"Tiết Giao là con cháu dòng họ Tiết Nhân Quý, Tiết Đinh Sơn đều là công hầu danh tướng triều Đường. Tiết Giao cũng nổi tiếng vì ngọn thương với đường hồi mã thương của cha, ông. Nhưng còn nổi tiếng thêm vì đẹp giai hơn cả cha, ông trong bộ bạch bào bạch giáp.
Trong một chuyến đi bình giặc Phiên, Tiết Giao làm tướng tiên phong. Tới một cửa ải nọ, quân Đường không những tưởng chừng không thể nào vượt qua mà lại còn có cơ thua nặng. Vì trấn ải có một nữ tướng nguyên là Hồ Ly tu luyện lâu năm, vừa tinh thông võ nghệ, vừa có một pháp thuật kỳ lạ, khủng khiếp vô cùng. Tất cả những tướng Đường đã xuất trận, cứ hễ đến lúc thấy nữ tướng bối rối đường kiếm, phải quay ngựa chạy, mà thúc ngựa rượt theo đều bị một làn hơn hà ra làm cho choáng ngất và thế là bị nữ tướng hạ thủ.
Giữa lúc ba quân lo âu, bối rối và chính chủ soái định tạm lui binh, thì Tiết Giao lại càng nằn nì xin cho xuất trận. Lâm vào một thế không thể nào không chấp nhận, chủ soái đành phải nghe theo.
Trận đầu khi Tiết Giao vừa giơ thương phi ngựa ra giữa trận tiền, đã làm bàng hoàng nữ tướng. Hồi khi nghe xưng tên họ xong và xông vào giao chiến, thì chỉ lúc sau, đường kiếm của nữ tướng quả nhiên rối loạn, phải quay ngựa. Tiết Giao toan đuổi nhưng trên thành liền nổi trống thu quân.
Sang trận thứ hai, nữ tướng Phiên phóng ngựa ra trước. Lần này nữ tướng phải chờ đợi và chùng chình hồi lâu, vì Tiết Giao cũng thúc ngựa ra đón đánh, nhưng y thấy Tiết Giao người sao mà gương mặt, vẻ mày lại hiền lại đẹp thế kia! Lại những hiệp quyết chiến. Nữ tướng Phiên lại bải hoải đường kiếm, quất ngựa bỏ chạy, Tiết Giao băng theo, nhưng chỉ được một quãng thì trống trên thành của chủ soái lại dồn dập gọi, truyền Tiết Giao phải dừng ngựa lui quân...
Sang trận thứ ba, cả hai tướng đều thúc ngựa ra trước ba quân rất nhanh, nhưng vừa sắp gặp nhau thì cả hai sững lại, đôi mắt cùng liếc rồi ngập ngừng không phải để xưng tên họ mà để đợi nhau nói một điều gì không muốn cho ai nghe thấy. Trên thành quân Đường liền nổi trống, Tiết Giao liền tung thương múa đánh Đường kiếm của nữ tướng Phiên chỉ đón đỡ thôi mà cũng sắp rụng rời. Trống Đường càng như sấm sét. Thì ngựa Tiết Giao bỗng ngoắt đầu bỏ chạy. Nhưng ngựa Tiết Giao không chạy về thành mà bay về khu rừng rậm phía xa. Nữ tướng Phiên sửng sốt, nhnưg nghĩ ra liền mỉm cười, băng theo.
Tới một chân núi sâu hút, cả ngựa Tiết Giao và nữ tướng Phiên dừng lại. Đến bây giờ thì đúng thật là "đôi mắt cùng liếc và cả hai lòng cùng ưa". Tiết Giao và nữ tướng kẻ gác thương, người xếp kiếm, ngồi xuống một gốc cổ thụ, tay cầm tay, má kề má, khôn nói hết lời. Nữ tướng Phiên thì càng say hơn, không còn thấy trời đất, gió mây, khắc giờ gì nữa.
Bỗng Tiết Giao hực lên một tiếng và ôm chặt bụng, quằn quại, lăn lộn trên mặt cỏ.
Giời đất! Cơ sự sao lại thế này?!!
Nữ tướng càng nâng đỡ, xoa bóp, kêu gọi thì Tiết Giao càng mặt mày xanh xám.
- Giời đất! Có thứ thuốc gì hay cách gì chữa cho chàng bây giờ ở giữa một chốn như chốn này?!!
- Không! Chỉ còn xốc chàng về! Phải! Chỉ còn cách xốc chàng về... Nhưng về đâu?!!
Nữ tướng bối rối như điên như dại, lại ôm ngước đầu Tiết Giao lên mà hỏi bệnh trạng. Tiết Giao cho biết, y từ thuở nhỏ vốn có chứng bệnh đau bụng này, thường thường lại lên cơn, và khi lên những cơn đau như vậy thì mẹ y lại phải lấy viên ngọc quý gia bảo ra xoa bụng cho, y mới khỏi! Như vậy, y đến chết ở đây thôi, chứ bây giờ vừa ở giữa rừng, vừa ở giữa trận tiền, làm sao có ngọc quý và tìm ra ngọc quý bây giờ?!!
Nữ tướng choáng váng. Lặng đi hồi lâu, nữ tướng ôm xốc Tiết Giao lên, mắt long lanh như điên như dại như mê nhìn Tiết Giao và nói:
- Thôi thế thì chàng sẽ khỏi ngay! Thiếp sẽ có ngọc chữa cho chàng.
Dứt lời, nữ tướng cũng ôm bụng, quặn người, nhăn rít cả mặt mày, ọe ra bàn tay hòn ngọc kết tinh và cũng là bảo bối của mình tu luyện được. Chưa kịp xoa bóp cho Tiết Giao, Tiết Giao đã chộp lấy, nuốt ực rồi nhỏm phắt dậy, quơ thanh kiếm đâm suốt ngực nữ tướng Hồ Ly!".
... Tích tuồng phải diễn lại đêm thứ năm là đêm cuối cùng ở Phú Thị. Chưa bao giờ thẻ thưởng và tiếng trống tung tung sảng khoải lại treo nhiều đến như thế. Trưa hôm sau, gánh tuồng Phủ Từ với kép Mộc sắm vai Tiết Giao lếch thếch ra đi...
Cô Tơ nàng hầu của phó tổng Phú Thị đã bỏ cửa hàng, bỏ cha bỏ mẹ đi theo gánh tuồng từ sau đêm ấy!.
Cô Tơ thep kéo Mộc. Sau những tháng năm ngày mùa đi cấy đi gặt ở gia đình kép Mộc như mọi nàng dâu về nhà chồng, Tơ lại đi cùng gánh hát sắm những vai phụ. Đôi khi đào chính bị ốm thì Tơ mới được đóng thay, đôi chuyến cô cũng được sắm vai Hồ Ly nữ tướng Phiên trong tích "Tiết Giao đoạn ngọc" cùng kép Mộc. Gặp phải mấy nằm vỡ đê lụt lội, mùa màng liên tiếp bị thất bát, nên gánh hát mỗi dạo xuân sang, càng phải đưa nhau đi những nơi xa lạ có đóng đám, mở hội để xin diễn. Rồi tới một năm, vừa đói kém, vừa giặc giã nổi lên như ong, chỉ vừa hạ cành nêu mà nhà kép Mộc đã hết gạo. Gánh hát của Mộc phải đưa nhau đi sớm lên các vùng Yên Dũng, Lạng Giang, đón đám trước các gánh khác. Thì trên này lại cũng đang đói, chỉ có mấy làng gọi thôi. Ông cụ kép nhất lại ốm. Trước, chỉ có hai đào kép trẻ, vốn là kẻ đang đứng núi nọ trông núi kia, họ thấy cảnh làm ăn khó khăn bèn bỏ gánh của Mộc đi sang gánh khác, diễn mấy buổi và rồi phải về ở hẳn nhà. Đến sau, chỉ còn Mộc, một kép chính nữa và Tơ ở lại với hai người kép đàn nhị đã già. Rồi một phiên chợ, tiền đong gạo, mua rau mắm đã hết từ hai hôm trước, tới giờ vẫn chưa trông mong vào đâu, thì ông cụ kép nhất đành phải gạt nước mắt, đưa cả gánh quần áo bảo người nào muốn lấy bộ nào để trừ nợ, bán lấy tiền ăn đường về nhà thì lấy.
Không ai lấy cả! Vợ chồng kép Mộc, đào Tơ bảo nhau cứ đi và diễn từng đoạn một cùng với cụ kép nhất. Nhưng rồi cụ này quỵ hẳn, phải nằm lại nhà một người cháu họ trên Kép để chờ chết, mà tiền bán gánh đồ nọ sẽ là tiền làm ma. Vợ chồng Mộc đành phải xin từ giã ông cụ trở về quê. Đúng dạo tháng ba. Tin tức giặc giã nổi lên ở các nơi càng ghê khiếp. Ngay bên phủ Từ Sơn và các huyện Gia Lâm, Từ Liêm và các làng sát cạnh Hà Nội cũng không làng nào đêm không nổi trống động, không có cướp phá. Mấy người chạy đói ở Phú Thị lên gặp Tơ đều cho Tơ biết bố mẹ Tơ đang trông đợi Tơ không phải từng ngày mà là từng khắc, từng giờ.
Buổi chiều hôm ấy đã gió bấc lại sương sa, mưa bụi. Gồng gánh của vợ chồng Mộc nhẹ thếch phải đỗ lại ở một quán chợ dọc đường cùng với mấy bọn đi rừng và mấy đám chạy đói. Còn được tấm khăn vuông nhiễu Tam Giang, chiếc áo tứ thân lụa mỡ gà, Tơ phải đem bán từ hôm trước. Nay còn hơn quan tiền, Tơ đem đong đấu gạo, mua một miếng thịt để làm cơm. Tơ còn giấu chồng đưa một nậm rượu về nữa. Bữa cơm chiều nay là bữa cơm ăn để sớm mai đôi ngả chia tay. Tơ phải về Phú Thị, còn Mộc nhất định trở lại với cụ kép già.
Cơm vừa chín tới, rau thịt luộc xong. Mộc quơ mớ lá khô và những gốc rạ sót về trải làm chiếu để dọn bữa. Mấy bếp gần đấy cũng vẫn giữ lửa để sưởi. Trời đêm càng tối mịt mùng. Gió như biển gào, như thác réo. Trống, mỡ, tù và cầm canh xa gần văng vẳng. Làng xóm tre pheo chung quanh lặng tanh, lặng ngắt. Bát rượu vợ chồng uống chung đã gần cạn mà cơm vẫn chưa xới. Chợt Tơ dưng dưng nhìn Mộc rồi cười:
- Thôi từ mai anh và tôi không còn ăn ở với nhau mà cũng không còn được trông thấy nhau, nghe thấy nhau, xắm nắm cho nhau vai nọ vai kia, tích này tích khác, ở các cửa đình, cổng phủ, phố chợ, nay đây mai đó nữa. Vậy thì tôi đã say anh, theo anh, nay vì cảnh gia đình bần bách, bố mẹ già chờ mong, mà tôi tuy là phận gái nhưng cây chỉ có một cành, hoa chỉ có một cuống, nên tôi phải bỏ anh. Nếu như theo thường tình tôi tham tiền phụ ngãi thì nhuốc nhơ khôn rửa! Nhưng tình nghĩa tao khang tuy rất nặng mà phụ mẫu công ơn non Thái lại dày hơn, anh cũng thừa hiểu... Vậy thì còn chút rượu đây, tôi mời anh uống cạn, rồi xin anh chỉ mỗi điều này.
Kép Mộc liền bưng ngay bát rượu uống ực một hơi, cười lớn tiếng hỏi điều đó là điều gì, thì Tơ chỉ xin Mộc diễn lại một khúc trong vở "Tiết Giao đoạt ngọc". Kép Mộc lặng người đi hồi lâu. Còn Tơ thì như sắp rũ ra vì chờ đợi. Chợt kép Mộc thoắt dậy, toàn thân rung rung trong một thế đứng trước khi lâm trận. Rồi sau một tiếng thét vang, kép Mộc vung cánh tay lên, vén phất tà áo rách, nhảy phốc vào khoảng không, một tay vẫy vẫy quất quất...
Nàng Tơ chớp chớp rồi nhắm nghiền lại, hai tay bưng mặt. Tiếng thét thúc ngựa, khoa thương rùng rùng chưa dứt, nàng Tơ nhổm lên, ôm chầm lấy kép Mộc, nức nở:
- Giời ơi!... Nếu như đêm nay anh là Tiết Giao thì tôi là Hồ Ly sẽ quyết sống lại, tìm lưỡi gươm sắc nhất đâm chết lại anh. Nhưng anh Mộc ơi! Anh là kép Mộc, anh không lường phản tôi, anh không phụ cái nghĩa thầy mình, cái nghĩa nghề mình, mà tôi đã làm vợ anh... thì dù lâm vào cảnh nào tôi cũng không thể bỏ anh!...
Đứa con thụ thai đêm ấy là Mạc, là ông đồ Mốc. Cũng đêm ấy kép Mộc bị ngộ gió.
⚝ ⚝ ⚝
Kép Mộc chết, đào Tơ bán nốt bộ cánh độ thân cuối cùng của mình, chôn cất cho chồng rồi về quê chồng báo tang và làm lễ cúng cơm ba ngày xong mới về Phú Thị. Chỉ vừa nghe người nhà nói gặp Tơ ở bờ đê đầu làng và để đại tang, là tên phó tổng tức tốc cho thầy tớ, tay dao, tay gậy đến gọi Tơ, bảo nếu Tơ còn đi đâu nữa thì nó bắt cả bố mẹ giải huyện về tội mình thì lường đảo, con gái thì gian dâm. Chuyến này Tơ phải ăn ở hẳn trên nhà với tên phó tổng. Khi đẻ Mạc, mặc dầu nhiều bạn bè anh em bà con họ hàng của hắn đều bảo hắn, rằng hắn không có công đúc cốt thì cũng có công tráng men, tội gì được hẳn đứa con trai mà lại không nhận! Nhưng hắn nhất định không chịu, bắt Tơ nếu không cho con đi thì hắn sẽ sai người đem nó bỏ chợ.
Ông bố cũng vừa mất, Tơ phải đưa con về cho bà mẹ nuôi để còn được đi đi về về trông con và cũng để nhà bớt lạnh. Mạc rất mau ăn chóng lớn. Lên sáu lên bảy mà bằng con nhà người ta lên chín lên mười. Mạc đi theo người lớn đánh giậm, bắt lươn, bắt ếch, ra bến sông vớt củi rều, xếp nứa, khuân vác tre lá không những chỉ kiếm cho miệng mình ăn mà còn đem được cả tiền gạo về cho bà, không cần mẹ phải trốn về nhà thỉnh thoảng giấu bớt, dấm dúi như trước. Rồi người bà cũng khuất núi, đào Tơ ăn ở với tên phó tổng chỉ được một mụn gái, người đã còi cọc lại như mất trí. Tên phó tổng càng căm vì thấy Mạc không kiếm ăn lang thang mà đi ở chăn trâu cho mọi ông đồ, và ông đồ này lại bảo cho Mạc mà Mạc chỉ học vèn, học ghẹ cũng giỏi... chỉ kém có "thằng Quát" ở thôn trên.
Năm Mạc mười ba, mười bốn thì đào Tơ chết. Cả mấy ông chú bà bác, hộ nội bên phủ Từ đưa nhau đội chè cau sang cụ đồ ở Phú Thị xin phép đón Mạc về. Mười tám tuổi, Mạc đi thi trường Bắc.
Mạc đỗ cùng khoa với Quát. Họ nội cưới vợ cho Mạc, Mạc lại đi thi trường Hà Nội, nhưng nghe nói Mạc phạm trường quy nên khoa ấy không trúng, mặc dầu khắp nơi đều phục vì bài văn nào của Mạc cũng xuất sắc. Sắp đến một khoa thi sau, Mạc bỗng bị bắt giam, hết nhà lao Bắc Ninh lại sang nhà lao Hà Nội rồi bị đóng cũi giải về kinh, xiềng ở ngục các tử tù...
Cơm xong, bà cụ đồ xin phép khách lại xuống nhà bếp để xe hương. Hôm nay bà cụ vào trong Thổ còn mua được một ống dầu sở. Nhưng bà cụ vẫn chỉ thắp đóm trám, nhường đèn cho nhà trên. Chủ, khách lại ngồi uống nước ở cánh phản, trước ban thờ. Cây đèn gỗ tuy đen xỉn, đã nứt đã sờn nhưng lau sạch. Những thanh đóm tre ngâm để trên miệng đã chẻ mỏng như chuốt lại chặt rất đều trông còn đẹp hơn những con bài. Ba ngọn bấc khêu vừa đủ cháy trong đĩa dầu nên ánh sáng soi khá rõ từng nét mặt người.
Chợt ông chú Thơm đận đà mãi mới xoa tay, nói:
- Thưa với cụ đồ bây giờ uống nước cháu mới dám ngỏ với cụ việc này, sáng mai, cháu xin phép cụ cho thầy trò cháu lên Na Lương...
- Kìa! Cho cháu ở chơi với vợ chồng tôi vài ngày chứ! Mai phiên chính chợ tỉnh cơ mà. - Ông cụ đồ vừa nói vừa rót nước mời chú Thơm.
- Dạ thưa cụ, chỗ hai cụ đây đối với ông Ngọ cũng như đối với thầy trò cháu thật là trong nhà. Vậy xin cụ cho chúng cháu được thật tình. Trên ấy nhà chủ lại cho người ta tìm cháu, mà cháu đã trót hẹn phiên đôi mươi này. Nhất kiến vi kiến, cái gì sơ suất còn được chứ chữ "tín" thì...
- Vậy thì, vậy thì ông phải để cháu ở lại với vợ chồng tôi, cháu phải ở lại với vợ chồng tôi - Tiếng ông cụ đồ ha hả - Ừ được. Được! Thằng này được đấy! Cái cặp mắt voi đó là tợn lắm. Vừa gan lì, vừa quả cảm. Nết ăn nói lại rõ ràng chín chắn, còn hơn khối người lớn!
Ông chú Thơm liền phải trấn tĩnh ngay để tìm câu, tìm nhời. Ông sợ quá! Cả ông cụ đồ cũng phải trốn lên đây làm ăn, vậy mà để Thơm ở với ông cụ chỉ ngày hôm trước hôm sau thì tông tích chú cháu lộ hết mất! Mà không nhận nhời thì thế nào ông cụ chả giận. Hơn nữa ông lại nghĩ ngợi xa xôi, càng thêm buồn, thêm tủi.
- Được! Được! Thằng này được đấy!... Cái thằng cặp mắt voi kia... Đúng cái cặp mắt voi ấy là cặp mắt của bố Thơm, người bạn đã cùng chịu cái cảnh tra tấn với ông cụ đồ Mốc ở trong Kinh suốt ba năm ròng và cùng gông xiềng trong ngục tối. Vậy mà bây giờ chú cháu nó tìm được đến ta mà lại không ở với ta thì còn giời đất nào nữa! Nó không là con ta nhưng ta phải coi nó cũng như con ta, hay hơn con ta! Nhất là ta lại được biết chú cháu nó đang trốn tránh, còn bạn ta tuy cũng được tha và lại tha trước ta, nhưng không rõ duyên cớ làm sao mà đến bây giờ bạn ở đâu, còn sống hay chết mà cứ tuyệt vô âm tín!
Chợt có tiếng người ồn ồn ngoài cổng, rồi thì bốn năm người gánh nặng vào sân:
- Cụ đồ lại có khách nào ngủ đỗ đấy?!
- Về được đến nhà cụ đây thì không còn lo đói nữa rồi!
Hai người đỗ phịch cũng nâu, cũng vỏ xuống gốc cây bồ kếp ở gốc sân vào nhà trước, bô bô cười nói. Hai người gánh sau lễ phép chào, còn đang rụt rè chưa biết để nón ở ngoài cửa và mình có nên vào nhà không, thì ông cụ đồ đã vẫy tay:
- Vào cả đây uống nước. Vào cả đây...
- Kính cụ và chư ông... - Một người gãi gãi gáy, nói - chúng con còn hai bọn đi sau.
- Thì cũng cứ vào cả đây.
- Bẩm cụ...
- Bẩm với báo gì! Cứ vào cả đây.
- Thưa cụ, họ còn đang đi sau, lếch nhếch lắm ạ.
Cụ đồ Mốc hề một tiếng:
- Lếch nhếch thế nào? Có vào cửa quan hay đi xin đám đâu mà sợ...
- Thưa cụ, cái bọn con mọn và hai cụ già này.
- A a... Lại chạy đói! Lại chạy đói dưới xuôi lên. Thì ba gian nhà dưới kia, chiếu đấy, cót đấy, rạ đấy có guột khô cắt về đầy sân đấy, cứ ngả lưng, cứ thổi nấu...
Cụ đồ Mốc xốc lại cái áo bông cộc đã xác ra như bao tải, lộp cộp đôi guốc đi xuống trước cửa bếp:
- Bà nó ơi! Lại có khách ngủ đỗ, thu dọn bớt bớt các thứ lại thôi.
Ông cụ chờ hai bà cụ khách lọm khọm vào hẳn sân, hỏi han trước, rồi mời lên nhà uống nước. Nhưng cả hai bà cụ đầu xúi rúi "xin vô phép" và "không dám".
Cụ đồ Mốc lại cười, hỏi:
- Hai cụ ở dưới đâu ta?
Hai người đàn ông đỗ gánh trước vội đáp:
- Thưa cụ, bà con chúng con toàn người dưới Nam.
- Nam nào? Nam Định hay Thái Bình, hay Hà Nam, Phủ Lý?
- Thưa với cụ, cả Nam Định và Hà Nam ạ.
- Hà hà, cơ khổ! Dân Nam hạ vác đất bảo nhau lên đây đã ở thành ấp dưới kia kìa!
Cụ đồ Mốc thay ấm chè mới và thắp ba nén hương cắm trên ban thờ cho thơm nhà. Bốn người đàn ông ngồi ghé chung quanh cánh phản xuýt xoa đón những chén trà uống sao mà thấy ngon, như được ban một thứ lộc gì quý báu chưa từng thấy. Hai người đi rừng vào sau càng ngồi lâu càng vui trong dạ, càng mến càng tin thêm hai người đi rừng bạn đường vừa gặp. Nhất là đối với nhà ông cụ đây, thì họ ngạc nhiên, cảm kích không biết chừng nào.
Những câu chuyện của họ dần dần không những chỉ riêng ông cụ đồ Mốc lắng nghe mà còn làm ông chú Thơm cũng bồi hồi và bồn chồn vô cùng,
Dưới ấy lại nổi loạn. Quân triều phải đem cả voi, chở cả súng đi dẹp. Hàng xâu người bị xiềng, bị trói cọc phơi nắng, mưa cả đêm cả ngày. Và bị chém. Làng mạc càng xác xơ, vắng tanh. Từng đấu tiền chuốc lấy đấu gạo mà không có gạo. Thây ma vùi dập ở các bãi chợ, rệ đường, bến sông, bờ đầm, bụi duối. Dịch tễ hoành hành. Nhiều người chết khiếp, thấy ban đêm ở ngoài đường binh lính của quan Ôn kéo đi bắt người cứ rầm rập cũng như lính triều vậy. Mấy làng vùng biển ăn cá thay cơm bị thổ tả có nhà chết hết.
Còn có cả chuyện trong triều. Triều đình lại cắt thêm ba tỉnh miền Nam để làm đồ lễ xin cầu hòa với quân Pháp, nhưng nào quân Pháp đã ưng. Chúng lại còn kéo binh thuyền ra đánh chiếm cả ngoài Đà Nẵng. Quan đốc học Phạm Quang Nghị Nam Định nghe tin liền đứng ra hô hào các bạn danh nho, nghĩa sĩ, các đinh tráng hào kiệt và tất cả những ai bất bình vì quốc nạn, thì theo Người, bỏ tiền bỏ của ra mộ quân, sắm khí giới, để cùng đi vào kinh xin vua cho đánh Tây dương. Cả mấy tỉnh chung quanh đều nô nức hưởng ứng. Đạo quân của quan đốc học chỉ trong mấy ngày nổi trống, gọi loa mà được hơn bốn trăm người. Khi xuất quân lên đường vào kinh, dân làng và các nhà danh tiếng ở dọc đường bảo nhau thổi cơm gánh gạo đem tiền đi đón cứ như hội. Nhiều cụ già cũng quần chẽn áo ngắn, tay mác tay gậy, quyết bỏ nhà xin đi theo nhưng không được.
- Thế mà triều đình cứ hễ thấy ai bàn đánh Pháp lại không nghe. Còn những quân binh của quan đốc học mộ được lại bắt nộp khí giới, ai về nhà nấy, tất cả phải trở ra Bắc hết... Giời ơi là giời!
Ông cụ đồ Mốc nước mắt giàn giụa, cười lên sằng sặc, Thơm ngồi nép sau lưng chú, rói rói mắt, theo dõi người kể chuyện, nghe cụ đồ kêu lên và nhìn ông cụ sắc mặt nhợt hẳn đi thì bặm môi, xuýt một tiếng trong miệng và càng tím mặt lại.
⚝ ⚝ ⚝
... Buổi sáng hôm ấy, chú cháu Thơm và Ngọ phải ở lại ăn cơm rồi mới ra chợ. Ông cụ, bà cụ đồ Mốc bằng lòng để chú cháu Thơm khất hẹn đến đầu tháng tới. Ông cụ đồ đưa tiễn chú cháu Thơm ra tận ngoài đường cái, lúc trở về, ông cụ lại pha trà uống mộ mình. Đến chiều ông cụ phải cho học trò về sớm. Ông cụ lại gây gấy sốt, mình mẩy càng đau sụn. Bà cụ đã mua sắm mấy thứ cho bọn Ngọ và chú cháu Thơm xong, tất tả về nhà nấu nước lá xông và đi kiếm lá chườm bóp suốt đêm cho ông cụ.
Hai gánh nâu của bọn Thơn lại bán rẻ vì các người đi luồn rừng và người trong Nùng trong Thổ và các vùng ở rất sâu, rất xa cũng đưa ra bán. Họ chỉ cần lấy tiền ăn phở, uống rượu thịt chó thật thích. Mặc kệ Thơm nằng nặc giữ rịt lấy tay, giằng lấy tiền. Ngọ cũng cứ mua cho Thơm cái mũ vải xanh chàm, đôi dép da trâu và bảo Thơm rằng mình vào trong ấy, dù túng đói cũng phải ăn mặc chững chạc. Vừa phải đi đường rừng leo núi, càng vào sâu càng lạnh giá, không có mũ dép không được.
- Kia kìa, mấy xóm bị giặc Tàu tràn qua Cao Bằng, Lạng Sơn về đốt phá, cướp bóc năm xưa đấy!
Thơm cau cau mặt nhìn theo tay Ngọ chỉ.
Mấy xóm ở ngay cổng chợ. Những bụi tre cháy rạc tuy lại đâm măng, cao vót, um tùm nhưng vẫn còn những đám gốc nham nhở, cằn cụt. Nhiều bức tường trình bằng đất đỏ dày hàng thước vẫn còn loang lổ những mảng khói xám và lỗ chỗ những vết kèo cột cây que đổ sập, đổ rụi. Có mấy ngôi nhà cửa liếp mở toang, y nguyên ban thờ mâm bồng, chân nến, bình hương bằng gỗ cháy sém ở giữa những hàng cột đen xám. Ngoài sân, trong vườn, những cây cau, mít, trám, mận bị lửa táp giơ lên trời những cành, những ngọn gầy guộc mốc khô như những cánh tay, những gióng xương thịt da đã róc hết!
⚝ ⚝ ⚝
Qua xóm Phan, Ngọ lại dừng chân cùng mấy người đi rừng về uống nước rửa mặt ở cái giếng quen thuộc. Khỏi đây, bọn Thơm men một đường nhỏ vào một sườn đồi cây cối rậm rạp. Đi thêm quãng nữa lên cao, chợt Thơm sửng sốt vì ngoái trông lại thấy tất cả vùng Nhã Nam, cả mấy vùng ở phía rất xa nữa, đều như thu cả lại ngay dưới chân, cứ rõ mồn một từng xóm, từng ấp, từng trại, từng con đường. Ông chú Thơm đã thở dốc mà Thơm thì lại càng thấy thênh thênh. Tới một rẻo đường gập như khuỷu cánh tay và đi ngược đây lên hơn chục bước, chính Thơm lại muốn nghỉ lâu hơn chú.
Sau lưng Thơm lớp lớp núi non cảnh vật đã lạ lùng, mà phía trước mặt càng vào sâu càng ở xa tít tắp trong kia, rừng núi, xóm trại lại càng hiểm trở.
- Qua đây là làng Dĩnh Thép. Dĩnh Thép vẫn thuộc Yên Thế. - Nhưng chỉ tắt qua mấy quả đồi kia là vào Giếng Mật, vào Suối Lửa sang đất Thái Nguyên rồi. Còn muốn lên Lạng Sơn hay ra Đông Hưng, Móng Cái thì cứ chiếu rặng núi xanh hút kia là hỏi đường. Qua đây toàn rừng lim và rừng già, không quen đất quen người mà lạc lõng lần mò ở đây thì mất mạng ngay! Chả là dân ở đây thường giết người không phải để cướp của mà vì có cái "hèm" không cho người lạ vào đất của mình!
Thơm lại trông theo chăm chắm những núi những rừng Ngọ chỉ dẫn, và nhẩm thuộc kỹ ngay những cái tên sao mà rất lạ nhưng lại cũng như quen quen với mình rồi. Xuống dốc, qua mấy tràn ruộng vỡ sát chân đồi men theo lạch nước chảy róc rách trên lòng sỏi rêu, bọn Thơm lại lên một dốc cao hơn, cây cỏ càng rậm. Nắng đã nhạt. Trời quang hơn. Nhiều cụm rừng đằng xa nổi rõ hẳn trong những đám mây trắng cuồn cuộn, dưới những ngọn núi nhấp nhô xanh thẳm. Có những ngọn núi nửa chừng mây quấn đùn đùn như cùng chuyển với mây với bọn Thơm. Không phải chỉ như thế thôi. Thơm còn thấy những rừng những núi ấy như có cả những quân lính, voi ngựa, giáo mác rùng rùng chảy đi không phải của quan triều mà của các quan như các quan giáo Quốc Oai, của vua Ba Vành ấy...
Phải! Như của vua Ba Vành đã nổi ở quê bọn đi rừng và mấy bà con Nam Hạ chạy đói lên trọ nhà ông đồ Mốc đêm qua chuyện trò rất khuya.
⚝ ⚝ ⚝
Gia Long chết, Minh Mạng lên nối ngôi.
Cũng như vùng Hưng Yên, như tất cả những vùng nghèo đói cùng kiệt bấy giờ, khắp Đông, Đoài, Nam Bắc đều râm ran lời hịch vạch nỗi thống khổ, căm uất không cùng của dân chúng, và cất cao tiếng kể tội cái dòng giống cõng rắn cắn gà nhà của họ Nguyễn nọ:
Bỏ giỏ cua chi chạch, thẳng hết sống cũng
không còn
Bị xéo lắm chi giun, tất phải quằn mà chống lại.
Để đập tan những xiềng xích, để xóa sạch những bất công.
Luật lộng hành như lửa bỏng nước sôi, cái tóc cái tội
Lễ bái vọng suốt đêm ngày chầu chực bỏ cấy bỏ cày
Đặt tịch sĩ ở nha môn, lừa dân ngu nhi bóp nặn
Thả nặc nô về các xã, nhân thuế thiếu nhi vét vơ.
- "Cực nhục thật! Cực nhục hơn cả thân trâu thân ngựa vì cái lũ nặc nô mang hỏa bài về đốc thuế ấy. Thằng què tay, thằng cụt chân dắt díu thằng mù. Thằng mù cõng con lớn, bồng con bé. Thằng lở loét khắp người, chân thì sâu quảng khắm khú. Thằng nào giữ được manh quần tấm áo lành lặn còn đỡ ghê đỡ sợ chứ mà trần truồng hay đóng khố thì trông còn hơn quỷ. Nhất là những thằng có tuổi ốm yếu và say rượu, chúng làm khổ người ta không biết chừng nào. Đã xúc gạo, bắt chó, dỡ bếp, tháo cửa, phá cổng, nhổ rào nhà người ta để thổi nấu ăn uống với nhau, lại còn ỉa cả lên ban thờ, đái vào các bát hương nhà người ta nữa.
Hào lý mặc sức bọn này quấy nhiễu vì chúng toàn là những lính vong mạng ở đàng trong ra, trên không chằng, dưới không rễ, mà có lấy vợ ở ngoài này đều là giống mèo mả gà đồng, tình nghĩa ăn ở với nhau chỉ còn gạo là còn vợ chồng, con cái đẻ ra tam tứ phen không bán cho cửa này, đợ ở cửa kia, thì cũng đem bỏ đường bỏ chợ. Chúng khảo đả người ta hơn cả lính, khảo hành kẻ tù tội. Chỉ thiếu có kìm sống, kìm chín. Nhưng lại ác hơn lính khảo là đem cả con thơ bố già người ta mà cùm, mà trói, mà treo, mà kẹp và cướp cả những bát cơm bát cháo của những kẻ hiền lành vô tội, chia nhau mà ăn ngày ăn đêm.
Ở đình làng, nhà thờ họ và cả trong chùa... người bị giam, người chạy tiền, người khất thuế, khóc lóc van xin cứ như ri... thôn xóm vừa gặt hái xong mà chẳng khác cảnh sau dịch tễ. Trời đất mờ mịt vàng vọt. Diều hâu quạ khoang bay lượn, tụ đổ đầy bãi, đầy đồng, đầy gò... dày đặc hơn cả các thuyền lưới... Thuyền lưới thì trơ trỏng, cũ nát, lặng tanh như thuyền ma, thuyền chết. Suốt dọc bờ biển, làng mạc toàn thấy người ốm, người đói, người già lê lết, hấp hối...
Vua Ba Vành đã ra!
Ngày hôm trước tế cờ, có ngay mấy trăm người đi theo, ngày hôm sau quân kéo đi đã lên hàng nghìn... rồi hàng vạn... Đàn ông trai tráng có; đàn bà con gái khỏe mạnh có; sức lực, gan góc, võ nghệ cao cường có; mưu trí tài ba thao lược có; nghèo hèn cùng đinh có; nhà giàu tiếng tăm một vùng, dòng dõi khoa bảng có; nhà sư vừa văn hay chữ tốt, vừa thông thuộc kinh kệ, vừa tinh tường binh pháp có, và cả người Mường, người Mán từ các núi các động trên rừng núi từ Thanh Hóa, Nghệ An đổ về theo...
Đánh đồn thủy, cướp thuyền cướp phủ, phá kho thóc, kho tiền, rồi vừa xây thành đắp lũy chống lại quân triều đình Minh Mạng, quân của Ba Vành còn kéo đi thông mấy tỉnh, thanh thế ngày càng lẫy lừng, người người đi theo để tìm con đường sống, ngày càng nô nức:
Lá cờ phất quan sang Giao Thủy,
Súng vang tai kề bốn vạn dư.
... Đông, Đoài, Nam Bắc
Có giặc Ba Vành
Đắc thế lộng hành
Mở cờ Tam Giáo
Mở ra ba đạo.
Những câu vè ấy lại theo nhịp một của đôi phách tre vang lên trong gió ngàn ù ù, thăm thẳm. Từ năm Thơm có trí nhớ, những buổi qua sông qua đò, ngủ trọ với chú ở các quán chợ, lò rào, hàng cơm, hay nghỉ chân ở những gốc đa, những cầu thượng lương, những điếm canh dê, nghe dân đã kể bài vè nọ, dù Thơm đã nhập tấm rồi nhưng vẫn cứ phải lắng tai và muốn người ta kể cứ còn tiếp nữa, tiếp mãi cuộc đời và sự nghiệp của người anh hùng phất cờ đại nghĩa, kéo dân cùng khổ đi mở đất tìm đường sống kia, đừng kết thúc như thế! Nhưng tới đêm qua, thật ở bên tai Thơm ngân nga cái giọng nặng nặng cục mịch của bà cụ người vùng Trà Lũ Giao Thủy ru cháu bài vè vua Ba Vành ấy, rồi lại thật nhìn rõ từng vẻ mặt của những người đã chứng sống những buổi tao loạn và các trận của Phan Bá Vành trảy quân, chiếm phủ, làm triều đình phải lao đao ấy, thì Thơm rạo rực cả người không sao chịu nổi.
- Chú ơi! Chú ơi! Như thế có phải là không ông nhà ta thì cũng là bố cháu đã đi; người thì theo Phan Bá Vành, người thì theo quan giáo Quốc Oai Cao Bá Quát phải không?!! Cụ đồ Mốc ốm o như vậy mà vẫn sống thì bố cháu nếu không chết trận hay phiêu bạt, đi đâu mất tích, thì cũng phải còn, phải tìm gặp em mình, gặp con mình chứ?!!