Chương V
Bóng lá càng rợp lạnh trên đầu bọn Thơm. Quãng đường lại qua hai bên toàn là vách đá, dây leo cỏ rối chằng chịt các gốc cây.
Thấy ông chú Thơm đã thở hổn hển, bác Ngọ lùi lại bảo:
- Ra kia là có đường to vào trại. Nghỉ ở quanh đây ẩm ướt, bác bị cảm lạnh mất, bác à!
- Đây người Thổ, hay người Mường? - Chú Thơm hỏi nhỏ.
- Người Trại, họ ở trên này hàng mười đời rồi. Lúc về ta sẽ vào nhà họ trọ.
- Ruộng của họ ở đây tốt thật!
- Vào sâu trong kia, ruộng còn tốt nữa. Đàn trâu nhà nào ít ra cũng mười con. Lợn, muốn ăn lúc nào thịt lúc ấy, mà phải là lợn khổ mỡ thái ngập dao. Mình có bạc nén đem vào đây đổi để họ lên các vùng Tuyên Quang, Hà Giang mua thuốc phiện hay đi ra Móng Cái, sang Đông Hưng mua gấm, mua dạ thì trọ ở nhà họ ăn hàng tháng cũng được.
Đường đã hết vách núi, băng xuống một bãi ngô sáng quang. Chợt Thơm thấy bác Ngọ chậm chậm bước, mắt quăng quắc đảo trông vào những mô đá trong bãi ngô. Rồi bác khịt khịt mũi để cả ngửi lẫn nghe như kiểu một con thú bắt chợp một sự gì khác lạ nguy hiểm. Rồi thoáng chớp, bạc Ngọ một tay đẩy gạt ông chú Thơm lùi lại, một tay giật Thơm đi. Cái gì thế kia?!! Cái gì ghê khiếp đến thế kia?!! Một con trăn to, dài hơn một đòn ống hạng đại, đen như lĩnh, đang ngóc đầu lên, phì phì và quăng quật với một thân người bị quấn chặt. Người bị quấn chặt là một thằng bé cũng ngóc đầu lên, kêu u ú, cố giữ riết lấy cái nỏ xọc ngáng lấy miệng trăn. Trên mặt cỏ gấu vàng sạm, một con chim chết rũ, máu rong rong cùng những lông cánh vàng óng.
- Ông Ngọ ơi! Phải đi tìm mau lấy mấy khúc sắn dây để trị nó thôi! - Ông chú Thơm chạy theo gọi.
Ngọ như không nghe thấy, bổ đến vồ lấy con trăn, hai tay ghì chặt lấy cái đầu vằn vèo đen trắng và hét lên:
- Trăn mắt võng đấy! Đúng là trăn mắt võng ác nhất đây! Chớ có lấy đòn gánh phang hay lấy dao chém, Thơm ạ! Bẻ khúc đuôi nó ra, cố bẻ rời khúc đuôi nó ra không thì thằng bé có sống cũng om hết xương sống xương sườn mất.
Thằng bé và con trăn văng lộn đi một vòng nữa nhưng sau đó thì cả nó và con trăn đều sấp đầu xuống đất. Đầu còn trăn thì vừa bị ghì vừa dằn dưới sức mạnh của cả người bác Ngọ mà hai bàn tay thì như hai cái kim, còn hai đầu gối thì như hai cối nén.
Hơi thở của trăn phùn phụt lên mặt Ngọ. Nó càng quằn quằn khúc đuôi để ghì giữ đến cùng con mồi người mà nó đã đón bắt được, chỉ lát nữa om nhũn ra là bị nuốt ngon từ hai chân đến hết thân thể. Chưa bao giờ Thơm chói nhức như thế. Cả hai bắp tay Thơm chỉ chực rụng rời mà Thơm vẫn chưa gỡ được cái khúc đuôi trăn ra. Mặc dầu hai hổ khẩu bàn tay Thơm gang ra đã gần rách toạc, tứa máu, Thơm vẫn nghiến răng bẻ quặt đuôi trăn, dằn không cho nó quặp lấy được người đứa bé như trước. Trong khi ấy, càng thấy nửa người thằng bé cứ thót lại ở những vòng quấn của những khúc trăn cứng và thít lại dữ dội hơn cả xích sắt, thì người Thơm càng quặn, càng nóng sôi thêm.
Nhưng rồi mắt võng cũng phải bỏ rời cái mồi người là thằng bé ra, mà vằng ngay khúc đuôi khỏi tay Thơm để quấn lấy bác Ngọ đã trở thành kẻ thù của nó.
- A! Mày chịu thua chúng ông một keo rồi! Ông Thơm ơi! Ông Thơm! Ông ôm lấy thằng bé nọ xoa xoa bóp bóp nó và mút mũi nó, thở vào mũi nó một lúc cho tôi. Này trăn mắt võng! Này mày định quấn định om nuốt cả ông! Này thì... này thì...
Cứ một tiếng "này thì" lại theo liền một tiếng hự. Hai bàn tay bác Ngọ vẫn bóp chặt đầu trăn, còn hai đầu gối bác đè xuống quá khúc giữa. Thơm chỉ kịp vẫy vẫy hai bàn tay, vừa rung rung hai cánh tay tưởng đến tê cứng, chết dại mất rồi, khi buông khúc trăn ra. Nhưng nghe tiếng bác Ngọ cười ha hả và mặt mày bác thì nhợt tái, giữ không cho trăn quấn được thêm khúc nữa để quyết trả cái hập đã tới miệng rồi mà phải chịu giằng bật đi kia, Thơm lại túm lấy khúc đuôi trăn ấn chặt xuống đất.
Lần này, dưới bốn cánh tay nổi hằn hết mọi đường mọi thớ gân thịt, mắt võng vừa trườn, vừa quẫy, đầu, mắt, miệng như sắp phụt lửa lên mặt bác Ngọ.
- Ối à! Ối à!...
- Người ta bắt được con trăn mắt võng kia kìa!
- Ối à! Ối à! Làm sao mà có những người khỏe như thế kia?!
- Ối à! Ối! Ối! Nó vằng được lên đấy! Nó mà vằng được lên thì chết với nó thôi.
- Ối à! Ối à! Cái ông này giỏi quá! Giỏi quá! Nó chịu mình rồi! Nó chịu ông rồi!
- Ối giời! Giời đất! Thằng bé nhà vợ chồng Chìu à?
- Thằng bé nhà vợ chồng nhà ông Chìu bị trăn quấn à? Đúng rồi! Giời đất ơi!
- Vào ngay nhà gọi vợ chồng nó mau lên thôi!...
- Thằng Chíu đi bắn chim bị trăn quấn sắp chết à?
Tiếng hú, tiếng gọi râm ran:
- Đúng thằng con nhà Chìu đây mà!
- Chìu ơi! Chìu ơi! Thằng Chìu nhà vợ chồng mày đây rồi!
- Chìu ơi! Ơi ơi ời...
- Chìu ơi! Ơi ơi ời...
- Thằng bé nhà Chìu mà chết! Thì thằng chồng nọ không đâm chết con vợ, thì cũng đến phát điên phát rồ thôi!!!...
Một bọn đi rừng đỗ ngay gánh xuống xem. Thấy một người nhà, bác Ngọ bèn vẫy vẫy tay:
- Cho xin bó lạt nào! Cho xin cả bó lạt kia nào!
Mọi người xúm lại xem ông Ngọ và Thơm thít con trăn vào một khúc cây với hơn hai chục chiếc lạt cật, nhưng chỉ vừa nâng khúc cây lên, thì con trăn cựa cựa, quằn quằn, rồi roạt một cái, tất cả những vòng lạt bung đi hết.
Đúng lúc ấy, có những tiếng khóc, tiếng gào, tiếng hờ, tiếng reo ở xóm nhà trong kia đổ ra với không biết bao nhiêu dao, gậy, giáo mác và cả súng hỏa mai nữa...
Ở gần những đống củi to và ở cả những đống củi nhỏ của nhà vợ chồng Chìu đều bắc bếp. Lửa gộc cây, lửa cỏ ràng ràng, lửa các thứ tre, nứa cây que ngoài bãi ngoài vườn và lửa đèn trong bếp, trên nhà... cứ ngụt lên. Từ các núi, các đồi, các trại, các ấp, các làng, các xóm đằng xa đều trông thấy, người nào cũng ngạc nhiên, hỏi nhau ở Quỳnh Lâu có việc gì mà lửa sáng như thế?
Một con lợn rồi một con lợn nữa. Chưa đủ lại còn gà. Toàn những gà trống thiến để dành đến Tết. Nếu không có bọn đi rừng về gánh năm giành măng cật sức, thì rau ăn của bữa này vẫn là thịt. Vì vội làm bữa cho bà con chung quanh đến ăn, nên phải để ngày mai mới mổ trâu, không thì vợ Chìu đã bắt thịt trâu rồi. Thịt trâu nhà Chìu hay trâu bên nhà vợ Chìu cũng được. Nhưng ông bố và bà mẹ vợ Chìu cùng mấy ông cụ bên ấy chỉ nói mấy câu tỏ ý không bằng lòng thì họ nhà Chìu xin theo ngay, là chỉ mổ lợn. Mổ hết lợn nhà vợ chồng Chìu thì bắt thêm lợn bên bố mẹ nhà vợ Chìu. Vẫn chưa đủ: Bắt thêm lợn nhà ông chú, ông bác của nhà Chìu và lợn nhà ông chú ông bác của nhà vợ Chìu. Cứ bắt thêm mà thịt mà đãi các khách đến thăm hỏi.
- Cái thằng Chíu đích tôn của cả hai họ nó mà sống thì đúng là của bắt được đấy! Cái của nào còn có giá, chứ cái của ấy thì vô giá! Bà con đến hỏi thăm, để xem lại cái mặt nó, để mừng cho bố mẹ nó, cho cả họ Mã nhà nó, thì mười con lợn chứ đến trăm con lợn và hàng kho thóc nữa cũng không đủ tiếp bà con đâu!
Hai cái vạc người lớn có thể ngồi tắm đặt lên bếp phía trái vườn lối cổng sau. Đây chỉ luộc thịt, rang thịt xào thịt. Bọn người dưới xuôi đi rừng về đã xin vợ Chìu để họ đánh tiết canh và làm lòng lợn, nhưng bà con nhà Chìu bảo trên này không quen ăn các món ấy, vả lại phải mau mau làm rau cho khách ăn cơm, vậy chỉ nên luộc và xào thôi. Còn bao nhiêu xương thì ninh hết với măng... Hai cái nồi ba mươi nấu cơm và hai cái nồi to bắc chõ thổi xôi cũng liền ngay đấy. Trong trại có bao nhiêu nhà thì nhà nào có bao nhiêu rượu, bao nhiêu cơm rượu đều gánh cả đến cho vợ chồng Chìu. Bếp nấu rượu ở gần giếng. Mấy bà con mọn trông coi việc này. Tuy vậy mấy bà cụ già ở bếp cơm cũng cứ đến bếp rượu để thêm chân thêm tay và cũng để vừa làm vừa uống lấy sức thức đêm cùng mọi người.
Từ lúc ôm thằng Chíu về, Chìu không rời con lúc nào cả. Chìu không đặt nó xuống giường, cứ bế trong lòng như nó còn lên ba, lên bốn. Chìu đã ủ cho nó cái chăn bông bọc thứ vải đẹp như nhiễu, lại còn lấy thêm một tấm thổ cẩm đắp trùm hai chân nó, làm nó bị gò gập chồn cẳng, cứ luôn luôn đạp đạp để duỗi thẳng người và đòi được nằm hẳn xuống chiếu.
Nhà Chìu làm năm gian. Tường trình dày hơn một gang tay. Chỉ gian giữa là mở cửa. Bốn gian bên trừ hai gian trổ cửa như lỗ châu mai, còn đều bưng kín để làm buồng ngủ cho đàn bà con gái, làm bục thóc chứa đồ đồng và các đồ quý giá khác.
Ban thờ của nhà Chìu cũng chỉ có một bàn gỗ, một bát hương, một bài vị và đôi lọ hoa, chân nến như mọi nhà trong trại. Nhưng nay, tất cả những thứ gì quý nhất, đẹp nhất của hàng xóm đều mượn về trang hoàng; y môn lụa thêu; khăn bàn vải thêu; rèm thêu treo rủ như hai cánh phướn ở hai bên ban thờ; một bình hương sành, men da lươn, to như cái đỉnh của một nhà đem từ Quảng Tây sang. Nhà lại thắp toàn nến đỏ trong những đèn lồng phất giấy hồng trang kim, tua chỉ ngũ sắc
Chìu không cho bác Ngọ và chú cháu Thơm mó tay vào việc gì cả. Bác Ngọ và chú Thơm ngồi cùng giường với Chìu. Phía trước mặt, kê một bàn tròn vẫn để làm thồi bày cỗ với hàng chục ghế đẩu cũng mặt tròn. Thơm ngồi ghế sát mép giường gần chỗ Chìu ôm thằng bé. Chốc chốc, Chìu lại đưa tay vỗ vỗ lưng Thơm, lắc lắc đầu cười, gật gù:
- Ở đây với tôi làm anh thằng Chíu à!
- Phải ở đây với tôi à!
- Giỏi quá! Giỏi quá!
- Phải ở đây với vợ chồng tôi à!
- Phải ở đây làm anh thằng Chíu à!
Mấy ông già và mấy người trai tráng xúm lại bó con trăn như một giò thủ, giò xào kẹp giữa bốn thanh tre to và dài hơn cả đòn gánh. Họ treo dốc đầu nó xuống một chậu đồng thau đầy rượu, đặt trên một ghế phủ lụa hồng ở trước ban thờ. Vừa thịt lợn xong người nhà liền đem cái thủ to nhất dâng lên cúng ma với hai mâm xôi bày đầy thịt. Thế là cả mọi người trong nhà và khách đến thăm hỏi từ đêm này trở đi, chỉ có việc chuyện trò ăn uống với máu con trăn sẽ nhỏ từng giọt xuống chậu thau kia.
Hai nắm hương đen to hơn bó đũa đã đốt lên, cắm vào bình, khói bốc nghi ngút. Một ai kia có thể ngất đi khi bước vào nhà mà bị mùi hương lộc xóc vào mặt mũi. Ông cụ chú Chìu trải đôi chiếu cạp vải điều và một nệm bọc dạ đỏ ra trước ban thờ. Khi ba người đàn ông lực lưỡng bưng lên ba mâm thủ lợn, xôi thịt thì Chìu ôm xốc thằng con, như bưng mâm đồ lễ, đặt nó nằm ngang trên nệm, rồi quỳ xuống bên cạnh nó. Quần áo cũ thằng Chíu mặc đã thay hết. Nó đội mũ che thóp bằng gấm như trẻ con sơ sinh, đeo yếm dãi lụa và mặc quần cộc láng thâm, đi đôi giày vải khâu tay bằng dạ đỏ. Bỏ Chíu mặc áo xuyến màu Tam Giang cúc tết, quần xuyến đen, quấn khăn nhiễu thâm, cổ vắt một khăn bông dệt xanh đỏ vằn vèo. Tất cả đàn bà con gái trong nhà quỳ dưới đất ở xa xa đằng sau.
Khi ông cụ chú Chíu rút ba thẻ hương trong bó hương hai tay nâng lên khấn vái hồi lâu xong, thì Chìu vái theo ba vái rồi phủ phục xuống chiếu nhận lấy cái roi sơn son đặt trước bài vị mà ông chú cầm đặt ngang trên lưng Chìu. Mọi người cùng lạy, phủ phục theo ông chú già.
Chợt một tiếng thét lên như tướng Phiên ra trận. Ông chú Chìu cầm một lưỡi dao nhỏ nhọn rạch nhẹ vào một mắt võng ở đầu trăn. Một tia máu vọt ra. Ông chú múc lưng một bát rượu hứng đầy máu sẻ vào ba chén con, đặt lên hai mâm đồ cúng, véo một miếng xôi cặp với một miếng thịt nhúng vào chậu máu, bảo Chìu ngẩng đầu lên cho ông đổ cả bát rượu máu vào miệng rồi nuốt gọn cả hai miếng xôi thịt tẩm máu nọ.
Kèn, trống thanh la, não bạt, sênh tiền, đờn, nhị... liền cất lên. Thợ bát âm còn nhảy múa, kêu thét như điên như loạn. Trong ánh lửa, khói hương, bụi khăn áo dồn dập mù mịt.
Gà đã gáy ran lần thứ nhất rồi lần thứ hai. Thồi rượu chỉ càng đầy thêm thức ăn. Bác Ngọ và chú Thơm ngồi cạnh Chìu luôn luôn phải đón bát rượu hòa máu trăn của các ông chú bác nội ngoại của Chíu và phải uống từng hơi thật cạn...
Đã sang ngày thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, rồi đúng một tuần.
Người ta phải thay hai lượt lạt mới để buộc những đón tre kẹp trăn. Sang ngày thứ bảy, đến buổi trưa người ta mới thôi uống rượu hòa máu trăn và hạ nó xuống. Da trăn, mỗi nhà xin một miếng để lấy khước lót vào mũ vào yếm dãi, đặc biệt cho những đứa trẻ nhà đã hiếm lại khó nuôi. Thịt trăn thì giã hết đem rán trong vạc mỡ nước từ hôm bắc bếp cho tới bây giờ lúc nào cũng sôi.
Mặc dầu giã rất nhuyễn, nhưng các miếng thịt rán vàng ngậy, khi vớt ở vạc mỡ ra xắn ăn thì lại thấy như vẫn nguyên thớ. Cũng đúng hết ngày tuần đầu, các khách quanh vùng đây còn đang ăn uống thì lại tiếp đến những bà con họ hàng và khách ở các nơi xa từ Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cái, Hải Ninh lục tục kéo về. Bọn chú cháu Thơm và bác Ngọ lại cứ phải ngày đêm tiếp rượu.
Vẫn cứ phải mổ lợn làm rau ăn chứ không thịt trâu hay ninh nấu với thứ gì khác!
⚝ ⚝ ⚝
Sang tuần nữa thì cả những khách ở Cao Bằng, Lạng Sơn, ở Quảng Yên, Hà Cối, Móng Cái, Đông Hưng lần lượt về Quỳnh Lâu đủ mặt.
Có những bà con họ hàng. Có những người quen thân. Có những người chỉ vài ba lần vào chơi nhà nhau. Có những người chỉ là bạn bè của những người thân thích của Chìu. Có cả những người nghe thấy tiếng đồn về chuyện nọ cũng hỏi đường, hỏi nhà lặn lội tìm đến. Bọn chú cháu Thơm và bác Ngọ càng bị giữ lại.
Lúc ấy đã xế chiều. Cả nhà vẫn đang ăn uống thì mấy người nọ vào sân, lên tiếng chào. Bọn họ cũng kẻ gánh măng, gánh củ nâu nhưng Thơm thấy lạ lạ, không như là những người chuyên luồn rừng sinh nhai. Trông họ còn ốm yếu hơn cả những người lam lũ làm ăn bị ngã nước sốt rét nặng. Đầu mum múp, mọng mọng. Tóc xờ xạc, lởm chởm. Da thịt thì bủng beo, cổ tay, ống chân to nghều, kiểu người trước đây trai tráng sức lực hẳn hoi nay suy kiệt.
- Ta vào trong này. Ta cứ vào trong này rồi có nước uống nước, có rượu uống rượu, có cơm rau ăn cơm rau để mừng cái nhà ông chủ.
Một ông cụ đang cặp vò rượu dốc ộc ra bát, thấy bọn khách lạ qua đường nọ vào nhà đỗ gánh thập thò trước sân, liền khật khường vừa vẫy tay gọi, vừa cầm cả bát lên uống. Người nhà Chìu kẻ vội đỡ bát, kẻ đỡ bên lưng ông cụ, kẻ cười nói bảo ông cụ cứ mặc họ tiếp. Nghĩa là lại từng bát chậu thịt luộc, thịt rang, sườn ninh bày thêm vào mâm. Còn bọn khách mới thì ngồi xuống những tấm ván trải chiếu ở hàng hiên đã sắp xếp ngay một mâm rượu thịt.
Người bủng beo và có tuổi nhất trong bọn đi đường chắp tay đến trước bàn các cụ già nhất vái chào rồi xưng tên tuổi, quê quán của cả bọn bác, xin vào chúc mừng và rất lấy làm hân hạnh được đến gia đình trong lúc vui vẻ như thế này, đoạn đưa cả bọn đến lễ ban thờ, sau đó mới ra ngồi đóng mâm.
"Thực hay mộng? Hay từ các địa ngục của triều đình Huế ở Nam Định, Hà Đông, Hà Nội, Lạng Sơn nay vượt ra được lên đến cõi tiên? Hay đã chết rồi sống lại". Bác cả ơi! Kìa! Bác phải ăn đi chứ. Phải, bác phải ăn thật lực, ăn để lấy lại sức cũng có, mà để anh em hả cái dạ cũng có. Nếu không được giời xui đất khiến cho anh em tôi gặp bác cùng cảnh ngộ tìm cách cứu vớt thì anh em tôi thoát sao được chốn lao lung, thoát sao được cảnh treo ngành, thắt cổ, nhất là thoát sao được đến đây, cùng bác bưng bát rượu ở cái mâm cơm từ thuở lọt lòng mẹ đến nay mới được ngồi ăn này?!!!...
Hai người còm cõi thấp bé trong bọn đi rừng cứ chờ người bạn nhiều tuổi bị phù thũng đụng đũa vào các bát thịt, nhưng bác ta vẫn chỉ uống rượu. Mãi sau một người phải xin phép cả mâm gắp đặt vào bát bác ta miếng gan và miếng thịt lợn nạc.
- Nào bác Cả nhắm đi chứ! Trên là các cụ, là ông chủ bà chủ, sau đến chư ông chư bà ở trại đã dọn cơm cho anh em ta, thì ta phải ăn, uống thật tình... thật tình... Nào bác Cả...
Một người khách lạ nữa cũng thuộc cánh đi rừng đến đây đỗ gánh cũng được mời vào ngồi cùng mâm, cũng lễ phép gắp cho bác Cả nọ một miếng thịt trước, rồi mới và ăn luôn ba miếng cả gan, thịt nạc, thịt mỡ, sau khi tợp một tợp gần hết nửa bát rượu:
- Hừ! Ông này có ốm đau phải kiêng khem thế nào, nhưng được một bữa như thế này, thì cứ ăn rồi muốn ra sao thì ra. Mẹ kiếp! Đánh chén say rồi chết thì cũng như đi ngủ ấy chứ gì. Mà ăn no uống say rồi chết thì giấc ngủ nào bằng?!!
Người khách không phải cùng bọn nọ lại tự tay bưng vò rượu rót cho mình đầy bát uống và lại nhắm với một gắp cặp nhíp hai miếng thịt mỡ to nhất, thái dày nhất, lại còn kèm một miếng gan cũng to nhất mà mọi người vì giữ ý chưa ai đụng đến:
"Mẹ chúng nó chứ, tiếng tăm cứ như cồn như sóng ấy, nào chánh tổng phó tổng, nào tiên chỉ thứ chỉ, nào cửu phẩm nào bá hộ, nào giàu có nứt đố đổ vách, nào con ông ấm nọ, cháu cụ lớn kia mà tham lam càm cắp quá giống chó mõ! Chỉ toàn đi ăn của người. Mà nếu có để người ăn, thì ăn một bữa của nhà chúng nó phải biện đồ lễ đắt quá đi vay lãi! Ăn ở như những người Mán, người Nùng này vạn đại chúng nó cũng không bằng! Hà... Hà... Chú cháu cái nhà ông đánh ngã con trăn kia rồi đến phải ở hẳn đây với họ thôi! Họ không chia cho nửa cơ nghiệp thì cũng bắt phải nhận muốn trâu thì trâu, muốn lợn thì lợn, muốn tiền thì tiền, tha hồ mà lấy dấn vốn làm ăn...
Bác nhiều tuổi trong bọn "đi rừng" lại phải nhận bát rượu của người khách lạ ngồi cùng mâm rót mời. Trong người đã phừng phừng, rân ran, đầu óc tỉnh táo thêm, bác ta lại càng chú ý đến bọn chú cháu Thơm, tuy bác chỉ thỉnh thoảng nhìn thoáng vào trong nhà nhưng vẫn giữ vẻ mặt ý tứ trân trọng của kẻ biết phận, biết mình. Không phải chỉ có ông chú Thơm mà cả Thơm cũng thấy cái người đi rừng có tuổi nọ lạ lạ, khác thường.
Không phải vì cách ăn uống giữ gìn của bác ta mà vì từ vẻ mặt, cặp mắt của bác ta đều khác người. Nhất là cặp mắt! Ít ai có đôi con mắt sáng và sắc như thế. Đã sáng, đã sắc mà khi nhìn vào ai, nhìn vào đâu, nhìn đến đâu... đều lộ vẻ của một người bôn ba từng trải, của một người chí khí hào hiệp, của một người ngang tàng khảng khái. Nhưng làm sao mà quần áo lại rách rưới thế kia? Sao mà lại ốm yếu thế kia? Sao lại lang thang lếch thếch thế kia? Và sao lại chẳng thật là dáng dấp của kẻ đói khổ bình thường phải đi rừng kiếm ăn thế kia?!!
Riêng Thơm, Thơm còn phải để ý đến cả cái đòn gánh của bác ta nữa. Nó bằng gỗ nghiến đen quánh như sừng, dựng ở xó cửa đằng sau lưng. Một tay thước hay khúc côn của những người mang theo để giữ mình khi đi đường cũng không chắc bằng. Nó còn dài quá khổ, to quá khổ, mà nếu dùng nó làm khí giới, người sử dụng nó lại là tay võ giỏi, thì lợi hại vô cùng... Chẳng cần gì binh khí giáo mác! Đã thế, cái nón mây của bác ta vừa dày vừa to, khi lâm sự làm khiên làm mộc, bác ta có thể xung sát tung hoành giữa hàng chục hàng trăm đao thương vây bọc mình!
Tên người khách bủng beo, có tuổi, ngồi ăn uống rất ý tứ và như không thiết gì đến thịt thà ấy, là tên khác. Nhưng thôi, ta cũng cứ theo như hai người anh em cùng đi với bác gọi bác là bác Cả.
Bác Cả vẫn chỉ mới động đũa đến miếng thịt mỡ và miếng gan đầu tiên gắp mời bác. Vừa phần bác đau răng, cả hai hàm răng của bác đều nhũn hết chân lợi, chừng như chỉ bị đầu đũa va nhẹ hay bác nhai mạnh một tí là có thể bật răng ra. Hai năm ròng ở trong ngục ban ngày cũng như đêm tối, mỗi trưa được hai nắm cơm chim chim, họa hoằn mới có vài hột muối, và mấy ngọn rau khoai lang dùng làm thắt lưng được, hay mấy miếng bí ngô chua nhoét, nên mắt bác thì mờ, đầu gối bủn nhủn, răng lợi thì như thế. Đã vậy cổ lại còn đeo gông, chân tay xiềng xích và tuy không bị tra tấn dồn dập, hồi lùng như người chú Thơm, nhưng cứ hễ có bọn tù mới nào gọi lên nhận diện hay họ tiêu xưng cho mà bác không nghe, không chịu phản cung, thì bác vẫn lại bị khảo đả. Rồi gần đây, dân đói và cả các lính đồn thú nhiều nơi nổi lên như ong, trong triều sức cấm không cho những loại tù như bác được ra khỏi cửa ngục, thì bác càng yếu.
Bác Cả là lính thú, người Nam Hạ. Bác phải đi lính vì bố mắc nợ một nhà giàu trong làng. Nhà cùng quẫn quá không còn phương kế sinh sống làm ăn dành dụm được tiền trả nợ, ông bố bác đã theo người ta đi ăn cướp. Bị phát giác, ông bố trốn biệt bỏ mẹ bác lại với hai đứa con trai và một con gái đã lớn. Không nỡ trông thấy cảnh nhà tan cửa nát, mẹ và các em mỗi người xiêu bạt một phương, nhân khi huyện bắt lính, có một nhà buôn nọ gặp dịp nổi dấn vốn to đã rút tiền cho quan, thuê bác đi lính thay cho con trai mình, tuy bác vừa mãn hạn về nhà với bố mẹ.
Thế là hơn ba mươi tuổi vẫn chưa vợ chưa con và lại thêm ba năm trấn thủ lưu đồn nữa! Gặp phải một năm dịch tễ, có người lang qua chỗ bác đóng cho biết tin cả bà mẹ và hai em bác đều chết đói, chết dịch. Còn đứa em gái thì đi theo một người buôn bè ở tỉnh xa mua y làm nàng hầu, giờ không chắc còn sống. Bác Cả đã bỏ đồn trốn về làng nhập vào một đám quân người tướng cũ của vua Ba Vành, rồi bị bắt, giải trả lên tỉnh Lạng, chịu án tù ở đây.
⚝ ⚝ ⚝
... Gà lên chuồng, yên ắng một lúc lâu thì thấy động hiệu. Pháo lệnh nổ vút ở cửa Đông. Rồi lửa bốc cháy như định liệu ở kho thóc trong thành. Lửa cũng ngùn ngụt ở dinh Bố chánh. Tiếng reo hò kêu thét rùng rùng và tiếng đập phá, tiếng bước chân kéo đi rầm rầm. Nhiều tiếng tre bương nổ to như tiếng súng thần công. Thanh la, cồng, tù và lọng cả giời đất.
Lính trấn ở ba cửa thành chính, linh đóng ở trại Lãnh binh, lính gác ở dinh Bố chánh, dinh Án sát đều bỏ chạy hết. Nhiều vợ con lính và cả lính nữa cũng theo các toán quân đi phá kho thóc và cướp các kho trong các dinh quan lớn tỉnh.
- Đến phá các hiệu Vinh Phát Tường, Quảng Xương Long, Phú Thịnh mau lên thôi!
- Nhà Vạn Bảo của vợ chồng thằng Cắm Voòng, có kho gạo to hơn cả kho gạo của tỉnh đấy!
- Họ giết quan lớn Án ở ngay cửa tư thất, giời ạ!
- Cả nhà vợ chồng thằng Lục Tỉnh bị giết hết rồi!
Những bó đuốc cứ khoa lên, tàn lửa bay vù vù lại bén vào các mái tranh. Lại cháy. Lại reo hò kêu thét! Tiếng lợn kêu xé óc. Tiếng bò rống như lên cơn điên. Mà có người điên mới lên cơn thật. Đó là con mẹ điên ở chợ Kỳ Lừa, trời rét chết cá, vẫn cởi truồng, khoác mỗi manh bao tải, da thịt đen như than, tóc kết lại, chấy trứng đóng từng mảng trắng như vôi vữa. Mẹ ta chạy, mẹ ta nhảy, mẹ ta múa, mẹ ta chửi những đứa phá nhà, cướp của của mẹ. Nhà mẹ là cái bồ đại ghếch vào chân tường, lót một ổ rác và có những bị cói những gói lá không biết là những thứ gì. Còn của là mấy cái bát mẻ, mấy mảnh nồi đất và cái lọ sứt cổ đựng nước...
Bác Cả như không còn đau ốm gì nữa, vùng ngay dậy khi tù ở trại lo loảng xoảng phá cùm, bẻ gông, đập xiềng ùa ra sân. Bác còn đang vịn tường, cố đứng cho khỏi run khỏi khụy thì tấm cửa lim bật toang làm bác sa sẩm mặt mày, suýt ngã ềnh xuống đất.
- Bác Quyền Cảnh. Bác Quyền Cảnh ơi! Bác để chúng con cõng mà ra nhập với cánh quân đánh dinh Lãnh binh (thế là ta biết tên bác Cả là Quyền Cảnh rồi).
Chỉ một loáng, tất cả gông, xiềng xích đều bật toang khỏi người Quyền Cảnh. Hai người tù quét dọn ở chuồng voi trong thành mà trước đây Quyền Cảnh thường giấu cơm, cho thuốc lào và cả thuốc chữa bệnh nữa, kẻ xốc bác lên lưng, kẻ ôm bên vai bác dìu đi.
Sực nghĩ đến ông cụ đạo cũng bị giam một mình ở gian ngục đằng kia. Quyền Cảnh giật giật áo người tù cõng y:
- Hãy gượm, hãy gượm. Còn ông cụ đạo nữa, ta đến phá ngục cho ông ta ra với.
- Có người phá rồi bảo ông ta ra, nhưng ông ta không nghe!
- Sao vậy? Sao vậy? Để ta đến gọi ông ta vậy.
Chỗ giam người tù nọ gần với khu đằng sau nhà các vợ lính lửa đang bốc cháy. Người tù chuồng voi cõng Quyền Cảnh đi nhôm nhổm chạy. Quyền Cảnh đến cửa ngục bảo đặt mình xuống, lên tiếng gọi:
- Cụ Trần Lục ơi! Cụ Trần Lục ơi! Trong thành ngoài tỉnh bị phá rồi, sao cụ không ra với chúng tôi.
Một người dong dỏng, gầy xương, nhô ra cái đầu trọc và cặp mắt sắc như dao:
- Quyền Cảnh gọi min đấy à? Min đã bảo min không ra mà!
- Giời đất! Cụ Trần Lục ơi! Lúc này cụ không ra thì còn ra lúc nào?
- Ra lúc nào... min muốn ra lúc nào, khắc có người đón min lúc ấy.
- Nhưng bây giờ cụ nên đi theo anh em.
- Min chỉ đi theo Chúa, đi với Chúa chứ không thể đi với giặc, đi theo giặc.
Cái đầu trọc cúi xuống với chiếc gậy. Đôi mắt sắc hơi nhắm lại, lim dim. Bàn tay khẳng khiu đưa lên trán, lên mặt làm dấu thánh giá. Những tiếng lầm thầm chỉ để mình y nghe.
- Chúa sẽ mở cửa cho con. Con chỉ ra bằng cửa Chúa mở! Những quân giặc cỏ này chỉ sớm tối lại bị dẹp tan thôi! Còn như cái triều đình bây giờ như trứng ung trứng ọp ấy, thế tất quân Phú Lãng ýa ở trong kia lại ra đánh thì lại cắt đất cầu hòa thôi. Như vậy cố tình giam giữ min mãi được ru?!!
Quyền Cảnh và cả hai người tù chuồng voi lặng đi. Quyền Cảnh mim mím môi, đầu óc như bị choáng, không sao hiểu được sự thể này với ông cụ đạo bị đưa lên đây tù đầy. Nghe theo những tiếng huỳnh huỵch cõng Quyền Cảnh đi và những tiếng rùng rùng inh ỏi đốt phá, kêu thét ở bốn phía, Trần Lục quắc mắt lên. Như một con thú đang rắp định một cuộc vồ xé gì rất ghê gớm mà phần thắng sẽ ở trong móng vuốt của nó, không thể nào để lọt, để chệch vào con nào khác...(1)
⚝ ⚝ ⚝
Quyền Cảnh đã uống đến bát rượu thứ ba mà mấy miếng thịt gắp thêm vẫn cứ còn nguyên trong bát.
... Ngay trưa hôm sau quân triều ở các nơi đã kéo về Lạng Sơn. Các quan Bố chánh, Án sát, Lãnh binh bỏ chạy hôm trước, liền hợp quân mình cùng quân các nơi bít chặt hết các đường đi lối lại và đóng trạm gác xét hỏi đến con chim sẻ cũng không bay lọt. Người bị bắt giữ, trói lại cứ từng dây từng xóc như cua như ếch ngồi phơi nắng phơi mưa cả ngày cả đêm ở các điếm các chợ. Ngay cổng đề lao và mấy cổng vào tỉnh mấy cổng châu huyện gần đấy, đều có bãi này bêu hai ba cái đầu, gốc cây kia hai ba cái đầu chém đóng cọc, đề biển tên tuổi, quê quán cùng tội trạng. Trẻ con lên ba lên bốn mà bố mẹ bị bắt bị chém và bỏ chạy trốn, cứ nằm, ngồi lê la, lổm ngổm, đói khóc, không đầu đường nào không có. Nhiều ông già bà lão ốm yếu, trong lòng vẫn còn ôm bị thóc, bị gạo, nhưng đã chết rục ở các cầu chợ, các rệ đường. Lòng lợn, lòng trâu và các thứ lông lá gà chó, máu đọng đen bầm, ngập ngụa ra cả các làng các bản ngoài thành.
Bọn Cảnh thoát ra ngay trưa hôm phá tỉnh. Cảnh đưa hai người bạn tù đi toàn đường tắt. Nói được cả mấy thứ tiếng dân cư trên đây và tìm vào trọ toàn những nhà quen thuộc cũ, ở các bản hẻo lánh nên bọn Cảnh được ăn uống nghỉ ngơi cũng chóng lấy lại sức. Khi sắp về Bắc Giang, Cảnh còn tìm đến mấy nhà cùng huyện hỏi han thêm tình hình dưới xuôi và mua được mấy bộ quần áo nâu cho cả bọn thay đổi. Chiều nay, ngủ đỗ lại ở trại này, ngày mai đi về Bắc Ninh, nghe ngóng thêm rồi ai nấy sẽ lần lần tìm đường về quê quán.
Khi mấy chú cháu Thơm ra hỏi thăm, bọn Quyền Cảnh tưởng như chính bà con họ hàng anh em cùng huyện cùng tổng mình bắt gặp mình vậy. Chả nhẽ lại để nhà chủ dọn kế thêm mâm cơm rượu nữa, ông chú Thơm phải nói với mấy người cứ ăn cơm cứ uống rượu rồi lúc ra uống nước sẽ chuyện nhiều. Nhìn vẻ mặt ông chú mình, Thơm càng thấy bọn Quyền Cảnh khác hẳn những người đi rừng thường gặp, và càng thấy họ có những ý tình đặc biệt mà người đoán biết được vẫn chỉ là ông chú Thơm. Hơn thế nữa, có thể, ông chú Thơm và bọn họ đã phần nào biết nhau, đang phải tính toán, nghĩ ngợi xem ăn nói chuyện trò với nhau như thế nào ở giữa một đồng đất xa lạ và có nhiều người chú ý đến mình này.
⚝ ⚝ ⚝
- Ba chú cháu nhà người thật là quá giống ngố. Ừ, không ở trên ấy với người ta cho sung sướng cái đời, cái thân mình, không chịu lấy tiền bạc của người ta đền ơn giả nghĩa, thì cũng nhận lấy con trâu về mà vỡ cái đồi cái bãi và làm cố ba bốn mẫu ruộng chứ!
Bác Ngọ gái lại ngừng tay cuốc, dau dảu nói. Có lúc bác còn xỉa xói ngón tay vào mặt Thơm mà chửi, mà văng tục. Thơm chỉ cười, cuối cùng bác Ngọ gái cũng cười:
- Người phải nói thật nhé. Thế người ta có hỏi kỹ nhà cửa quê quán ba chú cháu ở đâu, làm ăn thế nào không? Rồi thế nào người ta chả báo ngày một ngày hai sẽ tìm đến cho biết nơi biết chốn, để luôn luôn đi lại thăm nom, cả các ngày giỗ ngày tết nữa. Đã kết làm anh em với nhau cơ mà! Ai chứ, các người trong ấy họ trọng cái điều này lắm.
- Thím cứ vấn kỹ chú Ngọ con ấy. Lúc con ra về, thằng bé nhà trong ấy cứ túm lấy con, còn mẹ thằng bé thì cứ chằng chằng buộc hai lồng gà vào đòn gánh, nên con không biết hai chú con chuyện trò thêm những gì với trong ấy.
Bác Ngọ gái lại văng tục, lại chửi yêu cả Thơm và chồng mình:
- Giời đất! Chú cháu nhà người phải đem bỏ rọ trôi sông tất cả. Thôi, để đến Tết này, ngày mồng bốn trong ấy mời ăn Tết, ta đưa thằng cu nhà này vào, rồi thì phải dắt một con trâu về. Tình nghĩa! Tình nghĩa với nhau phải thật thà như thế. Mình có thật thà như thế, trong này mới quý mới tin rằng mình ăn ở với họ thật bụng thật dạ.
Thơm bậm miệng lại để nhịn cười, suýt phát ho. Hai người lại cuốc. Hôm nay trở gió, tuy đã tạnh mưa nhưng vẫn rét già. Bác Ngọ gái phải mặc thêm cái áo cánh và đội khăn vuông. Mặt mày bác đỏ bừng. Bác cứ kêu bức, kêu vướng, rồi cởi cái áp đụp, cuộn lại vứt lên đống sim mua trên bờ. Miếng đất này cũng khá nục nạc mặc dầu thỉnh thoảng lại có những tảng đá và những gốc cây đanh quánh. Hai thím cháu bảo nhau nhất định không mượn trâu của lão trương tuần người nhà chánh tổng trong làng. Nếu hỏi thì cũng được ngay đấy, nhưng được vài buổi trâu mà mang ơn, rồi cứ ngày giỗ, Tết nào nhà mình cũng phải mời hắn, hay nhà hắn có công việc thì mình phải đến làm giúp - phiền lụy như thế thì "đấm đếch vào". Được Thơm cũng như bụng mình, nên hai thím cháu càng làm hăng. Từ sáng hôm qua tới giờ đã vỡ sắp xong cái bãi gần con ngòi rộng đến sào rưỡi, hai sào ấy. Bác Ngọ gái còn làm hăng vì bác đã chán cái cảnh luồn rừng, kiếm được đồng nào tiêu hết đồng ấy. Rồi đây vỡ bãi, cấy được năm sào lúa, chung quanh nhà chỗ giáp bờ suối, tra thêm được đấu ngô giống, ngoảnh đi ngoảnh lại, chả mấy chốc đến tháng ba đã có ngô ăn chống đói, rồi sang tháng năm là có thóc, không được mười thì cũng phải năm sau thúng. Nhiều nhà cấy chay bừa chùi mà còn được sào ba thúng nữa là nhà mình chăm bón tốt. Bác sẽ đi nhặt phân trâu ở cả cánh đồng và trong xóm. Bác sẽ bán bớt mấy con gà sống thiến của nhà ông Chìu cho, mua một con lợn dãu. Nếu như cái lão chồng ương bướng kia bớt tiêu, đừng cứ phiên chợ nào bán được nâu, được giang, được mây, được rùng, lại xách từng xâu lòng trâu, lòng bò hay con cá mè hàng một cân về cho con vợ ăn, thì bác sẽ làm chuồng, bỏ thêm một con lợn nái lang đông nuôi để lấy phân.
A, thằng cu cũng có lớn có khôn rồi. Nó cũng theo được con bê chứ. Sang bên Thái Nguyên hay lên Lạng Sơn mà tậu bê, tậu bò, rẻ được nửa tiền ấy. Giời chỉ cho trúng hai vụ lúa và một lứa lợn nái... là thằng cu có bê chăn đấy!
Bác Ngọ gái lại đưa vạt áo lên thấm thấm mồ hôi trán chảy xuống mắt. Bác ngẩng nhìn Thơm, nao nao tâm trí. Giá đứa con gái đầu lòng của vợ chồng bác không chê bố mẹ nghèo bỏ đi, thì năm nay cũng mười ba tuổi rồi mà Thơm thì mười lăm! Ông chú Thơm có ý định gửi Thơm ở trên này để về quê nghe ngóng thêm tin tức rồi thu xếp lên ở hẳn đây. Thôi, không được Thơm làm rể thì làm con nuôi vậy. Lão chồng ta cùng thằng con này mà bảo nhau làm ăn, và nhà cấy được ba, bốn mẫu ruộng, trồng được mấy sào sắn, sào ngô, dù chưa được mát mặt cũng đỡ đói lòng. Nhất là không phải đi ở cho người ta, vợ chồng ăn nằm với nhau cũng phải xúi xó, nhiều khi lại còn lén lút, quá đồ ăn trộm ăn cắp! Phải chịu cái cảnh nhục đến như vậy mà nào có khỏi vất vả, túng thiếu?!!
Thơm cũng chỉ mặc mỗi áo cánh nâu rách vá. Những nhát cuốc của Thơm cũng phầm phập xắn lên từng tảng đất to có cả những khúc rễ cây. Trông những lớp đất mỗi giờ một ùn ùn mở rộng lấn xuống bờ suối. Thơm càng thấy vui trong dạ. Hơn hai tuần ở trong Quỳnh Lâu, Thơm còn đi chơi nhiều trại, nhiều nhà ở mấy vùng rất sâu giáp giới Thái Nguyên và Lạng Sơn, nghe thêm bao nhiêu chuyện, biết thêm bao nhiêu sự việc, bao nhiêu dân tình cùng người xa, kẻ lạ.
Phập!
Quyền Cảnh là tù vượt ngục.
Phập!
Quyền Cảnh đã làm lính mà còn dám bỏ đi theo giặc.
Phập! Dân đói, tù và cả lính ở thành Lạng Sơn cũng nổi loạn phá tỉnh, phá đề lao, cướp kho, cướp thóc, đánh lại quan triều.
Phập! Hai người tù quét dọn chuồng voi cũng là người ở Hưng Yên, nên nghe giọng nói của chú cháu Thơm đã gạn hỏi rằng; "Ông và anh quê Nam Định nhưng chắc có đi Hưng Yên làm ăn quen biết nhiều người Hưng Yên?".
Dân Hưng Yên, dân Nam Định, Thái Bình mà được vỡ vạc đất đai bờ bãi như ở trong các trại các lán trên kia thì nhất định cũng không đói, không khổ.
Chú ơi! Chú không chịu về quê hương bản quán nữa mà định làm ăn ở trên này, thì đồi kia, núi rừng kia, bà con kia thật là địa lợi, nhân hòa!
Phập! Chú ơi! Nếu cha cháu chết rồi, hay vì duyên cớ gì mà cha cháu phải biệt tăm tin tức, chú cũng đừng nên lo nghĩ buồn phiền lang thang và trốn tránh nữa.
Phập! Chú ơi! Như chú thường nói "Phàm làm công việc thì cần phải dựa vào thế thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Nay địa lợi có, nhân hòa có, còn thiên thời?
Không! Cha ta không chết đâu! Cha ta vẫn còn sống, hoặc giả cha ta bị giải lên Lạng Sơn và không biết chừng cũng ở trong cái đám phá thành, cướp tỉnh kia đấy!
Choang... oang...
Mùi đá khét nồng xộc lên tiếp theo tiếng cuốc bổ và tia lửa bật choáng.
- Mẻ mất cuốc rồi, ông Thạch Sanh ơi! - Bác Ngọ gái tru lên - Ông cuốc thế thì búa tầm sét của thiên lôi nào cũng chịu và lò rèn nào cũng không kịp đánh búa cho ông đâu!