Chương X
Ông ơi! Sao ông không gọi con để con đỡ ông.
Nấm chạy vào, khoác vội cánh tay và ôm lấy lưng ông phó Thêu rồi mà ông vẫn cứ bíu lấy cái cột để đứng hẳn lên. Nghe thấy trong nhà ồn ồn tiếng người, cô cháu ông khán Tích đang chẻ củi ở ngoài sân cũng bỏ đấy, chạy vào. Cả cô này cũng choàng lấy lưng ông phó và xuýt xoa:
- Chết! Chết. Ông con mà về, thấy thế này thì con lại bị mắng chết!
Ông phó Thêu càng luýnh quýnh. Biết làm sao bây giờ? Hay thôi, ông nhịn vậy. Chứ vì ông đi "đại tiện" mà phải đến hai người phục dịch như thế này thì... khổ cho ông quá! Phải, khổ cho ông, khổ cho ông quá. Từ hôm kia, chẳng giở giời giở đất gì cả, mà ông lại đau quá! Ngồi không ngồi được! Dậy không dậy được! Đi không đi được. Mà nằm cũng không nằm được. Phía dưới lưng, ở suốt ngang hông ông, hễ cứ hơi nhúc nhích thì buốt thon thót. Rồi nếu ông có định ngồi dậy hay chỉ thử cất mình lên, thì như có xiên có dùi đâm vào ống tủy. Bởi vậy ông cứ phải nằm nghiêng và có muốn trở mình hay duỗi chân duỗi tay thì chỉ có thể men men rất lâu vừa nghe xem có động đến "cái xiên cái dùi ấy" thây lẩy ở cột sống mình không!!. Ông khán Tích đã đánh cho ông một tấm gianh dày lót dưới chiếu lại trải thêm hai bao tải cho ông nằm, nhưng ông vẫn cứ thấy như dưới lưng ông, chung quanh người ông, lởm chởm các thứ chông thứ gai mà nếu ông chỉ chạm nhẹ phải nó thôi thì cái xiên cái dùi ấy không phải chỉ thúc mạnh vào ống tủy mà chuyển lên cắm ngang ở cột sống ông.
- Hai cháu mặc tôi!
- Khổ quá! Ông ơi, khổ quá! Ông để cháu đỡ ông ra ngoài hay chúng cháu đem giành tro vào nhà cho ông thôi.
- Không! Không! - Ông phó Thêu lắc đầu, nhăn nhúm cười. - Tôi... tôi đi được mà!
Nhưng rồi ông phó Thêu cũng phải chịu cho Nấm và cái cháu ông khán Tích đưa mình ra ngoài. Ông lết lết từng bước vừa giữ cho hơi thở không đứt. Đứt vì mệt, mà để đứt vì mệt thì ông sẽ ngồi rục xuống đất không biết sẽ gượng dậy ra sao. Ra đến cây khế sau nhà, ngồi bíu lấy một cành thấp trông lên đám lá xanh thăm thẳm và lao xao những chùm hoa, lăn tăn, hồng hồng, biêng biếc, ông phó Thêu bỗng thấy đất trời, cảnh vật sao mà khác lạ!
Heo may đã rải đồng. Những chân ruộng gần nhà đã cày ải hết. Hơi đất bốc lên nồng nồng trong nắng. Càng trông xa, nắng càng chang chang nhưng không ngột ngạt, ỏi ả mà ấm mà đẹp. Những quả đồi, những cánh rừng, những xóm những trại ở xung quanh càng thấy thân cận hơn. "Cháu Thơm à, đến chuyến này chú khó qua đấy!... Có sao cũng là mệnh giời đã định. Nhưng là mệnh giời thì ông nhà, thì cha cháu đã chịu hết rồi và cả chú nữa. Vậy chả lẽ đến cháu cũng bị đoản nữa ru?!!"
Bộ mày rậm, đôi mắt một mí quăng quắc, nét mặt gan lì, cặp môi bĩu và cái vóc người vậm vạp của thằng cháu ấy lại càng nổi lên hình nét rõ hơn cả trong tranh, hơn cả trước gương.
- Nó mà gặp thời gặp thế thì...
Những vầng mây trắng như đàn voi, như đỉnh núi dồn dồn qua chòm cây. Ông phó Thêu đang run rẩy cả người vì cố sức lâu quá cố giữ cái cành khế là là trước mặt và đứng lên cho khỏi loạng choạng thì Nấm đã chạy đến:
- Ông! Ông!
Vừa nói, Nấm vừa choàng cánh tay ôm lấy cả người ông phó Thêu vừa để ông phó Thêu ngả hẳn vào người mình, mà dìu đi. Lần này chỉ có mình Nấm đỡ nhưng Nấm vẫn thấy gọn nhẹ, còn ông phó Thêu thì thấy thoải mái nên cả hai người bước nhanh hơn. Nhìn vẻ mặt ông chú của Thơm tươi tỉnh, lộ rõ sự cảm động quý mến mình, Nấm sượng sùng cúi cúi mặt:
- Không! Không! Ông ơi! Con coi anh Thơm cũng như anh con mà ông cũng như bố... như chú con ấy... Ông đau ốm, anh Thơm lại vào trong kia, thì là con cháu, con phải chăm nom ông. Vả lại...
Không hiểu có đứa bạn thân hay thằng con trai nghịch ngợm nào để ý, mà Nấm bỗng nóng bừng bừng cả người. Ông chú Thơm cũng thế. Trong vòng cánh tay nần nẫn của Nấm và ngả hẳn vào vai vào ngực Nấm, ông chú Thơm nhiều lúc thấy như Nấm sắp bồng hẳn ông lên. Phải, như thế lại càng nhẹ cho Nấm, càng đỡ vất vả cho ông. Nấm bồng ông đi vào nhà rồi đặt ông nằm xuống giường cũng chỉ như ôm một chăn bông cuộn hay một trành cỏ thanh hao đa phơi khô thôi mà!
- Ông khán Tích à! Cứ như tôi với ông thì lo liệu cho hai đứa nọ ngay bây giờ càng hay. Chứ cứ chờ, cứ hỏi, cứ để cái thằng Thơm nhà tôi nó ưng, nó thuận thì đến đời tôi sang tiểu mất!
Trong người ông chú Thơm cũng hừng nóng. Và đúng là có một người đang nhìn Nấm dìu dắt mà tủm tỉm cười: bác Ngọ gái. Trước mắt bác, cái con Nấm đẫy đà, váy chật căng, áo chật căng, tóc vấn khăn chẳng cần độn, gương mặt bầu bầu, nhân trung như nhân trung tượng Phật bà kia, gánh gánh lúa nào cũng không ai nhấc nổi và xay cối thóc chỉ ù một lúc là xong, vậy giờ đây sao mà ý tứ ý nhị, rón rén quá như thị tì cung nữ phò bà vua bà chúa. Ối à! Nó xấu hổ đấy!
Ôi chao! Ôi chao! Chưa phải là dâu con mà lại dám nâng giấc cho ông chú người ta cả khi ốm đau đi ỉa đi đái à?!! Ghê gớm ghê gớm! Bác Ngọ gái cười khúc khích với mình! Con cái Nấm này mà không nhanh chân thì khối đứa khác nó lăn vào nhà tao, làm giúp cho nhà tao, mua cả quả cho cả thằng cu nhà tao nữa.
Nhưng rồi cả bác Ngọ gái cũng chạy đến ôm lấy lưng ông chú Thơm, đưa ông vào giường nằm. Trong cánh tay Nấm, người ông run run và cứ chực khuỵu xuống. Tuy vẻ mặt vẫn tỉnh táo, nhưng lại càng thấy sự cố sức, sự gắng gượng.
- Nấm mày xuống bếp xem siêu thuốc có dào không? Nếu còn sâm sấp thì là được nước rồi đấy, chắt lấy miệng bát, và lại đổ thêm hai bát nước mới và canh lấy nước thứ ba. Để ông nằm đây, tao lại chườm lá náng cho ông...
Nói thế nhưng nghĩ đến dù sao Nấm vẫn không cẩn thận và quen việc như mình, bác Ngọ gái lại xuống bếp để xem xét nước thuốc cân toàn vị quý nọ và phải tự tay mình chắt, mình ao và giữ lửa. Đưa lên cho Nấm cuộn lá náng nóng bọc trong vuông khăn, bác Ngọ gái dặn thêm:
- Phải vuốt từ cổ xuống hết xương sống, thật nhẹ, thật đều tay cho "nó" tan cái "phong". Bác phó mà đau đớn như thế chỉ vì cái "phong" nó rúc, nó cắn suốt cả trong xương cả sống lưng ấy...
Ông phó Thêu lại nằm nghiêng nghiêng, mắt trông ra sân, để Nấm chườm lưng cho. Cái bọc tròn tròn, ấm rực, thơm hăng hắc mùi lá tươi nướng hơi cháy nọ, miết miết trên xương trên thịt ông. Tuy vẫn nhức nhói, nhưng ông phó Thêu nằm yên được.
"Ồ, đúng nó thật là dâu con của ta rồi. Chưa được lễ ăn hỏi, nộp cheo và làm lễ cưới mà cũng là dâu đấy! Thơm à, như thế chú con nếu phải nhắm mắt thì cũng yên tâm nhắm mắt. Chú giữ con cho cha con, chú giữ con cho anh chú, chú giữ cháu cho ông, như thế là được đến ngày nay vẹn toàn. Phận chú có thiệt cũng được, nhưng phận chung và phận chính mà họ Trương đặt trên hai vai cho chú gánh, không bỏ dở đường và trao lại đủ cho cháu đấy. Chú có xuống suối vàng, chú không hổ thẹn với anh, với bố, với các ông, các cụ. Làm con người là có sống, có chết. Nhưng sống sao cho đến lúc chết không để lại cho người thân phải một điều gì ân hận về mình!...".
- Ông! Ông! Cứ để con chườm kĩ. Lá vẫn còn ấm. Ấm ấm thế này mới tốt. Chắc nước thuốc thứ ba sắp được rồi, bá Ngọ canh lại xong là ông uống... Đến thang thuốc của cụ lang này, con thấy ông tỉnh táo hơn. Gặp được cụ lang mát tay, uống thêm mấy chén nữa thì chả mấy chốc mà ông lại khỏe.
Trong ý Nấm còn muốn nói thêm: "Chuyến này anh Thơm và ông khán đi lên trên kia về mua được cao tốt, nhưng tốt cho ông uống chắc ông còn chóng lại người nữa!". Nấm ngượng ngượng tự nhủ: "Hay chính cái nhà bà khán của mày còn mong thằng anh Thơm về hơn cả chú người ta nữa đấy!".
Mắt ông phó Thêu bắt chợt đôi mắt long lanh của Nấm cúi nhìn ông. Cùng lúc cặp mắt một mí quăng quắc của Thơm lại loáng qua. Ông phó Thêu nghẹn nghẹn trong trí tưởng:
- Thơm à! Bấy lâu hai chú cháu phải lẩn trốn đi hết tỉnh này sang tỉnh khác, hết ở nơi đây lại chuyển nơi kia, cháu tuy không nghe và cũng không hề hỏi các nông nỗi oan khiên của ông cha, nhưng cháu cũng đoán ra được nhiều nguồn cơn, ông làm gì, ông chết như thế nào, cha cháu làm gì, và cha cháu cũng chết rồi. Cha cháu chết hồi kỳ hai chú cháu sang Sơn Tây và suýt nữa, không nhờ phúc ấm tổ tiên và tình nghĩa của người đồng hương đồng hội hiệp khách kia, thì hai chú cháu cũng làm ma không đầu rồi!
Ông phó Thêu sáng mắt trông lên Nấm và trông ra ngoài trời nắng rực.
- Phải! Phải cái thằng Thám của họ Trương này mà gặp thời gặp thế! Cái thằng Thám của họ Trương này mà gặp thời gặp thế!...
*
* *
Để sư ông ngồi tiếp hai cụ trong làng đưa gạo nếp, mật và cam bên Bố Hạ sang cho nhà chùa làm lễ thắp hương cơm mới tuần tới, ông khán Tích xin phép ra vườn xem mấy cây thuốc nam. Con vện thiến to như con bê của bà cụ hộ chùa nuôi dữ nổi tiếng, thế mà đã quen người khách thân của sư ông, nhông nhổng cái bộ mông đuôi cộc chạy theo. Ông khán vỗ vỗ đập đập cành lá lên đầu vện, thủng thẳng ra đứng trước cổng tam quan. Ông lại trông cả xuống đường và mấy lối đi lót cỏ vào trong làng, tuy biết chắc tối nay và đến cả trưa mai nữa, Thơm cũng chưa thể về được. Đời nào bọn trai tráng ở trong ấy lại chịu rời Thơm, nhất là để Thơm vào ở với họ chỉ có một ngày.
Chùa trên đỉnh đồi, khuất giữa một rừng dẻ, trám và sau sau. Sau chùa, mé vào trong làng, có ba gốc lim nghe nói đã được hơn hai trăm năm, cao vút, xanh rờn. Chùa tuy nhỏ, nhưng xây một cổng tam quan to, đẹp nền nã, nên từ dưới chân đồi hay từ ngoài đường xa trông lên, vẫn thấy bề thế trang nghiêm. Có lẽ vì làng nghèo, ruộng tư không được một mẫu, nên tường nóc nhà chùa đã mấy chỗ sụt lở chỉ chữa vá víu, mà không tu bổ hẳn hoi. Phương trượng là ba gian nhà gỗ, mái tranh, sân đất và bể nước mưa dưới gốc cau chỉ đủ nước pha trà thắp hương và nấu cơm. Những khóm hồng bạch, hồng thóc, cúc mốc, mộc, sói, đinh lăng, thiên tuế và cây đại trồng ở trước cửa chùa và nhà phương trượng chẳng vào hàng vào lối gì cả, tỏ rằng cả bà cụ hộ, sư ông và chú tiểu ở đây toềnh toàng nên mới để vườn hoa cây cảnh hầu như hoang dã.
Ông khán Tích đến cây đinh lăng ở bên bể nước. Lâu không mưa, chỗ đất lại bị một cây vải thiều um tùm che rợp, nên mấy lớp lá đinh lăng đã khô quắt, chỉ đụng nhẹ là rơi lả tả. Ông khán bứt bứt mấy cành lá tươi ngửi và nắm nắm lay lay gốc dưới. "Ít nhất cây này trồng cũng phải trên bảy tám năm. Nếu ta hỏi cây đã được mười năm thì ta nói với sư ông đánh lấy rễ về sao cho ông phó nhà thằng Thơm uống thì bổ bằng uống sâm ấy!". Múc nước với cái gáo dừa to không bằng chiếc bát đơm chè, ông khán Tích tưới xong thì đi hẳn ra sườn đồi phía ngoài đường.
- Chà! Chà! Cây dã hương này mới quý sao chớ! Lá nó này mà cất lấy dầu, vỏ cây nó này mà nấu nước xông, thì cảm cúm ho hen, đi ngoài đi rửa nào cũng trị được hết.
Ông khán vừa ngước lên trông những cành cây sần sần xanh mốc vươn ra quá sườn đồi và những tầng lá phấp phới trong như ngọc làm rung rung cả nền trời mây biêng biếc, vừa hít hít hương cây cay cay man mát làm nhẹ cả người.
- Thằng Thơm giỏi thật! Tinh thật! Nó biết cả làm thuốc đấy! Mà không hiểu ai mách nó, dẫn nó mà nó đã vào chùa đây mấy lần, xin lá dã hương về cho mấy bà cụ và mấy mụ con mọn trong làng....
Ở cánh rừng dẻ bên đồi làng Nứa gần Hố Chuối, bọn trai làng và Thơm cùng những người đi luồn rừng về chuyện trò bàn tán càng sôi nổi và thật là vui. Họ đã đi những bài quyền, múa những đường kiếm, đánh những ngọn gậy, cho xem những miếng vật rất lạ, rất tài, rất hay, rất hiểm. Có những bài, những đường, những miếng trước đây chỉ nghe đồn của vùng này, của họ nọ, của lò, của sới kia, đã hạ những thầy Tàu dạy võ, những tướng cướp nổi tiếng lừng danh là khỏe là ác... nay cùng nhau trổ ra mà đến mấy người gan góc, dày dạn và có tuổi hơn cả trong đám cũng phải trầm trồ, lắc đầu khen ngợi. Không chỉ riêng những trai làng bạn Thơm mà cả mấy người đi rừng cũng khoe tài, khoe sức và bàn tán rất hăng. Nghe họ nói, nhìn thần thái nét mặt họ và cái khí thế bừng bừng, không thể không nghĩ đến nếu như lúc này mà xảy ra một cuộc giao chiến hay lâm vào cảnh trận mạc, thì tất cả đám người này có thể một chọi với trăm, với mười, quật ngã, đánh tan bất kỳ địch đối đông mạnh chừng nào chăng nữa.
Thơm chỉ lặng lẽ ngồi xem và nghe, nhưng mọi người đều chú ý đến Thơm. Họ chỉ biết đây là một trai vùng dưới đã đánh tan bọn giặc Khách rất đông, rất ác, đã nhiều giáo mác lại có cả súng Tây mà tướng của chúng đã kéo quân qua nhiều nơi trên kia cướp phá, không ai dám chống cự. Bọn trai Yên Thế càng lộ vẻ tự hào về đất mình bao nhiêu thì Thơm càng như không lưu tâm đến điều này, càng điềm nhiên lạnh lùng, dường như mình không dự gì trong trận ấy. Và càng nhận xét, càng theo dõi mọi người ở trước mặt, ở chung quanh, Thơm lại càng không thể dừng được sự suy nghĩ về vùng núi rừng và đường lối mấy hôm nay Thơm cùng bọn con trai bạn làng trong đi săn, và giờ đây Thơm càng hiểu rõ thêm. Xế trưa. Mặt trời rừng rực. Trên các ngọn núi và cánh rừng gần cũng như xa đều ngun ngút bốc khói. Dưới những vầng khói mờ mờ thăm thẳm ấy, là suối là khe, là thác, là những độc đạo, những lối đi chỉ có dấu vết hổ báo cùng người đi rừng, và con đường mòn dễ theo nhất, nếu không ngập trong cỏ tranh, cỏ ràng ràng, lưỡi rắn, thì cũng lót đầu, và nhiều quãng mất hút vì những cây cối đổ gãy, mục nát, hay những khe, những vực nhiều đất đá vừa sụt lở.
Rừng già phía trong và phía trên đã hiểm, nhưng cả nhiều rừng lim, rừng nứa, rồi đến rừng dẻ ở ngoài này hay ở dưới kia có nhiều người qua lại, cũng vẫn như thế, không rõ địa thế các vùng ở trong Nam mà cụ Trương Công Định chống giữ quân Tây như thế nào, chứ đồi núi, suối rừng Yên Thế, rậm rạp, mịt mùng, dằng dịt thăm thẳm này, thật là hiểm, thật là ác. Đám quân triều hay cả đám quân Tây chăng nữa, binh dù nhiều, súng ống dù mạnh, mà kéo vào đây thì đánh dẹp được thế nào chẳng biết, không khéo sẽ sa xuống vực xuống khe, lạc nhau không còn thể tìm ra đường ra và bị phục binh thôi!
Nghe các cụ truyền lại từ ngày xưa vua Lê Thái Tổ cho phục binh đánh quân nhà Minh, rồi cả vua Quang Trung cũng phục binh đánh quân nhà Thanh ở đây. Còn người vùng đây chế tạo được thứ nỏ và tên thuốc độc lợi hại lắm!
Thơm nghĩ và tự nhủ.
- Phải! Sa vào trong đất này, chỗ nào chả không nguy hiểm, biết dùng thì ở đây chỗ nào chẳng là tử địa!
Bỗng ở bên kia đồi có tiếng hò hét, tiếng chó sủa rất lạ. Cả cánh rừng dài náo động hẳn lên chưa bao giờ như thế. Mấy trai tráng và người đi than, đi măng về vội đứng lên. Hai trai tráng bỏ vội cái điếu cày chưa kịp rít hết mồi thuốc, chạy ngay xuống chân đồi đón lõng. Lát sau họ lên cho biết dân trên vùng Thuông đang đuổi bắt trâu điên.
- Trâu Thuông! Trâu Thuông!
Nhiều người reo lên.
- Lại con trâu nhà cụ quyền Kiêu rồi!
- Con trâu này mà lên cơn thì có giời đuổi, giời bắt!
- Mấy con trâu của người trại vừa khỏe vừa dữ hơn cả trâu Đồ Sơn, bọn lái dưới Đông Tam tứ phen nằn nì mua về để lấy giống trâu chọi mà không được. Trâu nào cũng chỉ gặp trâu Thuông húc một cái là chết tươi...
- Chuyến này không khéo họ đến thịt nó thôi.
- Ai chứ với cụ quyền Kiêu nhất là với dân Thuông không để thịt trâu ăn đâu!
- Trong ấy không bắn thì ta bắn, ta đền, ta đụng thịt.
Mọi người đều nhao nhao khen phải. Thơm vẫn quăng quắc mắt trông sang rừng bên, dẽ dàng bảo hai trai tráng lớn tuổi trong bọn:
- Không nên! Không nên! Con của cũng như con người. Là trâu quý, trâu cưng của dân trong ấy thì cũng là trâu quý, trâu cưng của cả ta. Có gì ta hợp sức đuổi bắt hộ.
Tiếng hò hét và tiếng chó sủa đã ùa ra ngoài bãi. Cả bãi sim sườn đồi đều rùng rùng không biết bao nhiêu đàn chó và bao nhiêu tay sào, tay gậy, tay thừng, tay chão. Rồi như từ một luồng bão lốc, trâu Thuông chồm chồm từ trong rừng vụt ra, cây cối rào rào, răng rắc. Như chợt nhận ra mình không ở trong rừng nữa, và ngẩng nhìn thấy trời mây sáng ngời, sáng rực, trâu Thuông sững lại, mắt ngầu ngầu như hai cục sắt đỏ và đôi sừng nhọn vát như cánh đao, nghếch lên mặt trời, bọt dãi phì phì, gân thịt giần giật và rền lên một tiếng gầm, giữa những tiếng hò hét và tiếng chó sủa càng râm ran.
- Hay lắm! Hay lắm! Ta lùa trâu Thuông xuống đồi và dồn nó chạy vào Hố Chuối rồi đón lõng bắt thôi.
Thơm bảo mấy trai bạn thả cả hai đàn chó nhà xùa vây thêm quanh bãi và gọi mọi người hò thúc cho trâu Thuông không kịp định hướng mà phải chạy vào thế trận của mình.
Cùng với những mũi giáo đầu gậy xông đến, cả mấy đàn chó đều tới sủa tới tấp đằng sau trâu Thuông. Đang sững sờ trước một quang cảnh trống trếnh, trâu Thuông như sực nhận ra mình sắp bị vây liền vằng sừng, hộc lên một tiếng rồi chạy, và cứ quãng dốc đồi lồng xuống dưới khe, đúng vào lõng sang đồi Hố Chuối.
Bọn trai làng òa òa gọi dân trên Thuông:
- Vào lõng rồi! Vào lõng rồi bà con ơi! Chịt lấy đầu này mà đón chặn đầu khe bên kia, mau, mau!!!
Mọi người cùng các đàn chó chạy tóa ra. Ở trên một mỏm đá, Thơm lại nheo nheo mắt và cười một nụ cười ngạo mạn. Thơm tung cây giáo cho một trai bạn, gạt gạt mấy người định xùy chó chạy trước mình, rồi nhảy qua khe nước, băng sang mé đồi bên kia. Trong khi trâu Thuông chồm chồm bộ mông đen mòng và như mặc một thứ giáp bằng kim lửa dưới nắng xế trưa gay gắt, ngùn ngụt giội xuống lòng khe nước vừa sâu vừa hẹp, thì Thơm đầu trần, lưng trần, quần chẽn, cả người lấp lóa cũng băng băng qua đồi. Thoáng cái Thơm đã đến gốc cây vả cành lá xòa xuống rợp cả cửa khe. Một tiếng đổ rầm chuyển cả rừng núi. Cây gỗ mục đổ ở sườn đồi đã bị Thơm vần đẩy xuống chắn ngang giữa những tảng đá lởm chởm.
Tiếng reo, tiếng thét, tiếng gọi, tiếng chó cắn càng rầm rập đến gần. Hộc... hộc... hộc. Tiếng trâu Thuông thở như làm bật theo cả đất đá cùng với tiếng chân chạy kình kịch nếu ai nhát gan chỉ nghe thấy thôi cũng rùng rợn, thấy như có thể "nó" bổ vào ngực mình, đạp lên người mình.
Không để trâu Thuông kịp trông, kịp thở, khi sững lại trước cái hào gỗ đá quái gở bỗng chắn lấy trước mặt nó, Thơm từ gốc cây vả bay xuống, hai cánh tay nắm ghì đôi sừng ấn đầu trâu Thuông chúc xuống làm trâu Thuông tối tăm cả mặt.
- Được rồi. Được rồi, được rồi bà con ơi!
Không phải tiếng Thơm mà là tiếng của cả mọi người reo lên bàng hoàng vô cùng, lạ lùng ghê khiếp vô cùng vì sự hiển hiện ở trước mặt. Trâu Thuông đang hết sức vằng vằng, quằn quằn, đạp đạp, cày cày cả bốn vó trên lòng sỏi đá xào xạc mà ai kia đang cản giữ nếu chỉ chùn tay hay chệch chân đứng tấn thì sẽ bị húc tung đi, không toang mặt, toang đầu, nát ngực thì cũng xổ ruột, bung gan.
Ông quyền Kiêu râu xồm, đầu trọc tay cầm cái sẹo trâu, và thừng chão, tay huơ huơ vẫy vẫy, chạy đến với bọn người nhà và trai tráng làng Thuông, quơ cả cánh tay Thơm và sừng trâu, ông òa lên, nước mắt, nước mũi giàn giụa:
- Mày lại làm khổ tao! Mày cứ lại làm khổ tao! Sao mày cứ lại làm khổ tao thế này?
Nhìn Thơm mắt sáng ngời, ông quyền Kiêu líu ríu:
- Anh ơi! Người... người ở dưới Nứa hay người ở đâu mà tợn thế này?
*
* *
Trên Thuông đã giữ cả bọn Thơm lại ăn cơm buổi chiều hôm ấy, đến khuya lại còn thịt mấy con gà để uống rượu. Nếu không có các bạn trai làng Nứa nói giúp cho rằng thật Thơm có người chú đang mệt nặng ở nhà chờ Thơm vào chùa Lèo lấy thuốc về, thì Thơm còn phải giữ ở lại ngày mai... ngày kia để chơi với các trai tráng làng Thuông.
Gà gáy thứ nhất, mấy trai tráng Thuông cũng dậy tiễn khách Thơm qua mấy quả đồi. Còn bọn bạn Thơm thì định cùng Thơm đi về tận nhà. Đến cổng chùa rồi, thấy Thơm quả quyết không để họ theo nữa, bọn bạn mới chịu, nhưng vẫn có người tần ngần nắm tay Thơm mà hỏi đi hẹn lại chuyến lên chơi tới đây. Cuối tháng mảnh trăng luôn luôn chìm, hiện qua những lớp mây xám mờ trắng đục. Những ngọn cây ở con đường lên chùa bị vầng lá của đại thụ dã hương trùm lên, càng tối thẫm. Con vện của nhà chùa không để Thơm thò tay lách mở then cổng, đã xồ ra mà không sủa gì cả. Nhưng chỉ vừa nghe tiếng Thơm chíp chíp miệng và đánh thấy có hơi người, con vện liền rin rít khẽ khẽ như có vẻ cuống quýt đón mừng.
Thơm chỉ lên đây hai bận, một bữa thổi nhờ cơm ở dưới bếp bà cụ hộ chùa, gọi cho con vện ăn một vầng cháy độn sắn chín vàng mà nó cũng đã quen Thơm, thân thuộc cả những tiếng gọi "chíp chíp" của Thơm. Vện theo Thơm lên từng bậc, hít hít bên chân. Thơm đi nhưng không đụng đến đất để vào chỗ ông khán Tích chắc còn đang ngủ. Chợt mùi nhang ngan ngát thoáng qua, mùi nhang từ trên chùa bay ra với hương hoa. Một ánh đèn không sáng lắm, nhưng lung linh chiếu qua khe cửa, bắt ngay lấy cặp mắt chau chau của Thơm.
- Sư ông đã dậy! Sư ông đã dậy tụng kinh mà sao lại không nghe tiếng mõ?
Thơm đến gần bên cửa, càng thấy mùi nhang và hương hoa qua sương khuya càng thấm lộng. Rồi khi đứng nghiêm, ghé mắt trông vào trong kia, Thơm không thể không ngạc nhiên. Trước tam bảo thắp một ngọn đèn dầu đĩa bấc khêu to, đúng là sư ông đang ngồi nhưng không tụng kinh mà cũng không hẳn là nhập thiền. Tụng kinh gì mà không mặc cà sa, không có giá sách, không có mõ ở trước mặt thế kia? Nhập thiền gì mà lồng ngực đang căng phồng, còn bụng thì hóp lại, các thăn thịt như bị nén chặt không còn thể hơn được nữa, nên làm cả phần thân thể căng phồng có một sức vừa chứa đựng vô cùng mà bật vỡ cũng vô cùng...
Cái đầu cạo trọc ấy, cái khổ mặt sắt xương ấy, cái thân người gầy guộc ấy, bấy lâu nhiều người tưởng như là ốm yếu lắm giờ đây còn vững còn mạnh hơn cả bất cứ người thường nào, mà lại không phải ở trong một thế tấn! Phải! Phải! Không phải là sư ngoa truyền đâu? Cứ như những thăn thịt, những lằn xương trong cái khí thở khí nén kia, thì đao kiếm có chém có xả cũng không hề suy chuyển gì. Vả lại chắc gì đao kiếm đụng được đến cái người khổ luyện mà nó định xả định chém?!!
Thơm lại nhớ tới có lần ông chú Thơm chuyện với bác Ngọ giai và mấy người khách thân về việc khí công mà Thơm nghe rất không lấy làm lạ, và thấy nếu như được ai truyền, ai bảo cho cách thức, thì Thơm cũng có thể tập được. Thơm tập được không phải để người mình thành đến mức gươm giáo có đụng đến cũng không hề gì, mà chỉ cốt cho mình khỏe thêm, đanh thêm, rồi truyền cho chúng bạn anh em cũng tập được như thế.
- Nhưng như với những ai kia, chứ với sư ông đây thì luyện khí công như thế để làm gì?
Mắt Thơm trông càng như muốn bóc ra bằng được một điều gì đó từ cái thân hình và xương thịt của nhà sư mới quen biết nọ mà ngay từ buổi đầu bác Ngọ giai đưa Thơm vào đây xin nước uống thổi nhờ cơm, Thơm đã rất chú ý về sự ăn ở và chuyện trò của nhà sư. Có tiếng rèo rèo bấc tắt lụn trong đĩa dầu. Lại tiếng răng rắc kèo cột gỗ nứt mọt. Nhưng không phải chỉ có Thơm trông, Thơm nghe, mà tất cả những tượng Bồ Tát, La Hán, Kim Cương im lìm trong bóng tối ở các bệ thờ chung quanh tam bảo, cũng trông, cũng nghe và suy nghĩ với Thơm.
Hai bàn tay sư ông xòe đặt trên hai bắp đùi xếp bằng và hai cánh tay khô khẳng đóng khung trước lồng ngực, trước mảng bụng càng ở lâu trong cái thế bất động, thì nét mặt, cùng toàn thân sư ông càng như sắp rùng rùng bần bật vì sức căng chịu, chứa đựng. Đang khi Thơm thấy trong người mình bỗng nghẹn nghẹn, tiếng gà gáy lại ran ran. Dưới nhà bếp, lửa củi thông củi trám bừng bừng, thơm sực. Tiếng bà cụ hộ chùa đi guốc lọ mọ tìm cối trầu của mình, cẩn thận cất ở cái túi treo ngay trên cột bếp, thế mà khi bà cụ lấy xuống lại bỏ quên ngay! Rồi rửa sẵn, sắn bóc vỏ rồi, củi đóm sắp xếp từ chiều hôm qua, sáng nay cũng như mọi sáng, bà cụ chỉ có việc ngồi canh lửa và chờ sư ông dậy tụng kinh xong thì bưng đồ nước lên nhà...
Chợt hai vòng cánh tay của sư ông đưa vuốt từ bụng lên ngực rồi mở ra, dang rộng, hạ xuống từ từ. Một nhịp thở ra rất nhẹ, nhưng nghe như là của cơn thủy triều trào lên rất cao rồi rút xuống cũng rất sâu, khiến cảnh vật âm âm rung rung cũng rất lâu. Tiếng gà gáy vừa bặt, Thơm quay ra. Đúng là cái dáng khom khom của ông khán Tích. Thơm vừa bước đến trước ông, ông đã ngẩng lên:
- Thơm đã về đấy à? Ta mời sư ông xuống nhà ngang uống nước xong rồi đi thôi!
Sư ông xuống giếng dưới chân đồi tắm. Lúc lên còn quảy hai nồi hông nước đổ vào vại cho bà hộ chùa. Chú tiểu đi vay thóc chưa về. Ở phương trượng chỉ có sư ông và thầy trò Thơm. Bà cụ hộ chùa vẫn chưa bưng đồ nước sáng lên. Lại vẫn sắn luộc nhưng phải chờ sư ông uống xong tuần trà với khách, mà thường thường buổi trà sớm chỉ sư ông độc ẩm cũng phải đến lúc mặt trời mọc rõ. Nước sôi sư ông đun lấy với cái siêu đồng trên bếp lò đất sư ông tự đắp và kiếm các cành khô, các tre rào chẻ, xếp từng bó nhỏ ở góc nhà.
Cũng như cái giường bình khung của sư ông nằm, cái sập ngồi uống nước cũng là của thợ nhà đóng bằng gỗ dẻ hạ ở vườn chùa xẻ ra để mộc đã nhẵn bóng. Chiếu cói trắng nhưng cạp vải hẳn hoi. Nghe nói bà hộ chùa lựa ở chiếc khăn bịt đầu bằng vải nhuộm màu Tam Giang đã rung rúc của sư ông những miếng chưa rạn để cạp chiếu. Sau sập cũng có bàn thờ, mâm bồng bình hoa, chân nến, nhưng không bày tượng nào cả mà chỉ treo bức tranh của sư ông đưa từ dưới Đông lên của một ông phó họa hình đức thánh Trần. Y môn là tấm vải điều viết một dòng chữ Nho Nam Thiên đệ nhất đẳng thần của ông chú Thơm thêu không lấy công và tiền chỉ, tiền vải, để cúng nhà chùa. Từ đòn tay nóc nhà, treo ở chính giữa, trên y môn còn có lá cờ nhỏ đuôi nheo, màu sắc như cờ ngũ hành viết một chữ Thắng đen nhánh và sắc lạnh như một cánh đao.
- Kìa! Ông khán bảo anh nó vào mời nước chứ!
Sư ông đón lấy khay sắn của bà cụ hộ chùa bưng lên hơi nóng nghi ngút. Ông khán Tích đứng hẳn dậy, ra cửa gọi Thơm:
- Thơm à! Sư ông cho phép, con lên đi.
Thơm phải kéo ghế đẩu ngồi sau lưng ông khán Tích. Ông khán Tích đã cầm ống mật ong định rót ra đĩa, sư ông liền ngăn:
- Đừng, đừng, ông khán nhà cứ cho tự nhiên, tôi vốn không mặn với các của ngọt này.
Sư ông quay ra gọi bà cụ hộ chùa khoanh tay đứng ở ngoài cửa:
- Bà hộ lấy đĩa vừng lạc đây nào! Ấy, ăn với muối vừng nhất là với muối vừng lạc, thì tôi có thể ăn thay cơm bữa...
Chọn củ sắn bở nhất đưa mời khách, sư ông dẽ dàng chuyện tiếp:
- Tôi đã bảo bà cụ hộ và thằng tiểu nó dỡ hết bãi sắn tôi vỡ đồi trồng từ tháng giêng năm ngoái đem phơi. Nếu như ông nhà có dịp về thăm bà con quê ngoại ở Hưng Yên mà cho tôi gửi được một cạp sắn biếu mấy sư cụ và ông bác tôi ở huyện trên thì hay quá! Không thì thôi, chứ cứ nghĩ đến bà con Phủ Cừ, Phủ Khoái dưới ta càng ngày đến rau má củ chuối cũng không bới móc đâu ra lấy cái mà ăn, thì lại càng thắt cả ruột...
Ngước trông lên ban thờ, nhang thắp sắp tàn, sư ông lấy ba nén mới châm vào ngọn đèn lưu ly cắm tiếp vào bát hương sành men rạn. Nhìn thấy hai đĩa hoa bà cụ hộ mới thay lấy ở những cụm sói, cụm mộc ngoài vườn, sư ông sực nhớ:
- Và cũng nhờ ông khán cho gửi mấy chén hoa sói phơi khô để sư cụ chùa Trên pha nước thắp hương...
- À mà thôi! - Sư ông nhấc thêm một gói nữa trên ban thờ xuống. - Ông khán cứ đưa cả gói hoa sói và gói sâm nam này về biếu ông phó Thêu cho tôi.
- Sâm nam! Bạch sư ông...
Ông khán Tích ngỡ ngàng. Sư ông gật đầu cười:
- Thì củ mài của ta sao tẩm tốt thì không gọi là sâm được à? Mà các nhà nghèo ốm nặng được thứ này pha uống, lại không quý hơn sâm sao? Như ông phó nhà ta chân hỏa vượng, chân khí hư, người lại bị nhiều thương tích nặng lâu năm rồi, mà cứ uống mãi cao hổ cốt, mật gấu, không lợi đâu! Ngày kìa là mồng hai, tôi lễ Phật xong, tôi xuống nhà ta ngay, rồi tôi đi hỏi sư cụ ở Hồng Kiều xem có thứ lá gì hợp bệnh, tôi sẽ đi kiếm về để ông phó uống...
Thơm càng chăm chú ngắm nhìn nhà sư, tuy mắt Thơm, mặt Thơm vẫn cúi trông ra bên ngoài đang bừng nắng. Thơm nghĩ đến nếu ông chú Thơm cũng học được phép luyện khí như nhà sư đây, và chú Thơm được trú ngụ ở yên tại một cảnh chùa, có thể chú Thơm không chữa tuyệt được cái bệnh hiểm bệnh ác nọ, thì chú Thơm cũng thọ thêm được ba bốn năm hay hơn nữa cũng nên, để chứng kiến cái thời thế mà Thơm sẽ tung hoành đền ơn người dưỡng dục mình từ khi mình chỉ là một hột máu rơi!...
*
* *
Chõ xôi hoa cau vẫn bốc hơi trên bếp lửa liu riu. Tuy đã đơm và bày đủ các món ở mâm cơm thắp hương và hai mâm dưới nhà, Nấm vẫn không chịu ra ngoài. Con chó khoang của bác Ngọ và một con chó của nhà, bên kia đồi cứ cuống lên hết theo cô này đi lên đi xuống, lại theo bà khác đi xuống đi lên. Đàn gà mẹ con hoa mơ và mấy chú gà giò cứ xùa khỏi bếp một loáng lại lẻn vào, nhảy cả lên chõ mổ xôi và bới, nhặt các vụn vặt ở rổ rá thức ăn. Một bạn gái tức quá, lại chạy xuống, hai tay nắm chặt và như muốn cấu muốn véo thịt Nấm ra.
- Mày mà không lên ngồi với bọn "ông" thì "ông"...
Cô vừa nghiến răng vừa giằng, giật, kéo Nấm ra khỏi cái ghế gộc tre mà không được. Nấm đã đẫy người, lại cố co lại, nên làm cô bạn tóa cả mồ hôi.
- Chúng mày ơi! Chúng mày xuống cả đây với tao chứ!
Một cô loắt choắt ngồi thụp xuống, nói nhi nhí vào tai Nấm rất chi khẽ khàng: "Lớn gái lắm rồi, em chị ơi! Lên nhà đi thôi"!
- Cả "u" cũng sang rồi, "u" đang hỏi nó đâu đấy?
Miệng nói tay khoằm khoằm xoáy xoáy vào mạng mỡ. Nấm, cô bạn bé choắt nọ bậm miệng lại để cố nhịn cười.
- Thôi! Thôi phải lấy ngay chão trâu và đòn ống, trói nó lại khiêng đi mà... "giết". Đã cưới xin gì đâu mà nó làm duyên làm dáng thế này! Mày mà không chịu lên ngay với bọn "ông" để mấy thằng trong làng và trong kia chúng nó xuống mời thì thật ê mặt chúng "ông" đấy!
Quả nhiên một trai làng Nứa, một trai làng Thuông và một bà già đi ở dưới quê chuyên đưa bọn Nấm đi cấy, đi gặt đã kéo nhau xuống bếp. Bà già có con trai làm thợ mạ rất khỏe nọ, cánh tay trái khuỳnh khuỳnh chống nạnh, tay phải ve vẩy cái chổi lông gà, bước chân núng na núng nính, váy mốc cũn cỡn, vừa đi vừa gọi như chèo với gọi một giọng còn chua hơn chanh.
- Ớ này cô ả Nấm kia ơi!...
Không dám để bà nọ thêm tiếng, Nấm quớ lấy cái mê nón đậy rổ dao thớt vừa chặt thịt gà, chạy như một con ngựa lồng ra giếng. Nhưng lần này thì Nấm không quẫy cựa, vì cả bọn gái bạn đã túm lấy áo, lấy tay, lấy người Nấm mà đun đi. Bác Ngọ gái cười rúc lên bảo bà khán Tích.
- Ra Giêng chọn được ngày lành tháng tốt, nhất là ông phó Thêu qua được cái hạn này, thì phải đón ngay cái nái này về thôi không thì nhỡ ra gái trên Thuông và trong Nứa chúng nó là ghê lắm, bằng mấy gái Nội Duệ, Cầu Lim dưới tỉnh ta đấy. Chúng nó chỉ dử cho vào trong ấy chơi chuyện nữa là cướp nghiến cái thằng Thơm của làng Trũng này thôi!
Đôi gà thiến làm cơm hôm nay là của trong Thuông cho một trai tráng con lớn ông vệ Kiêu đưa đi chơi thăm ông phó Thêu. Mấy trai tráng ở Nứa thì mang cho thằng cu bác Ngọ đôi gà chọi mã lĩnh. Để ông phó Thêu, ông khán Tích, bác Ngọ giai và ông cụ Gia Lương mới lên đây, ngồi trên giường ăn mâm cơm hạ trên ban thờ xuống, còn mọi người đóng làm hai mâm ngồi dưới đất. Từ nãy đến giờ thằng cu nhà bác Ngọ gậm gạp cái còng gà trong vòng tay của mẹ ôm không thể rời lúc nào cả ấy, nay mới được ngồi hẳn xuống chiếu bên cạnh mẹ và Nấm.
- Mẹ dái nó này, đem nốt cái chăn sui cuộn lại để bác phó tựa - Bác Ngọ giai lại hai tay đỡ nách ông phó Thêu - Bác! Bác cứ ngả hẳn vào bức vách này. Trưa nay bác tỉnh táo, trời lại nắng ấm, có các anh ấy trong Thuông, trong Nứa ra và có cả ông bà khán Tích và cụ dưới Gia Lương, thì bác phải uống rượu cho vui.
Ông phó Thêu run run, cố giữ cho dáng ngồi ngay ngắn!
- Xin cụ và các ông, các bác cho tôi vô phép.
- Không, không, chẳng phép chẳng phung gì hết, cứ phải uống rượu, uống một chén thôi cũng được. Hôm nay ngày tuần mà ăn được uống được, sang tháng sau, một tháng nữa là Tết. Ha... ha... bác thêm một tuổi, đúng năm mươi mốt, năm mươi mốt. Bác năm mươi mốt, tôi năm mươi, mẹ kiếp, thế là cái năm tuổi bốn mươi chín đã qua rồi!... Chúng ta phải uống rượu chứ!
Bác Ngọ gái ở dưới này đưa mắt lườm ngay chồng, nói với bà khán Tích:
- Lão ta chỉ được làm ra cái bộ!... Chúa thần là ba hoa chích chòe. Chỉ nửa chén móng là đỏ bừng đỏ tía cả mặt rồi vậy mà cứ làm ra như ta đây biết uống, uống được nhiều lắm! Có thì chỉ ăn vã thức ăn của các cụ!...
Cả mâm cười rầm. Bà già dái đấm ngay bác ta một cái:
- Thế ông với mày phải uống hết bát này chứ! Này ông bảo mày có dám uống thi với ông không nào?
Ông phó Thêu càng thấy vui trong dạ. Tuy thở rất mệt và muốn ho nhưng ông cũng cứ cười nụ. Trong người ông bỗng nghẹn nghẹn. Ông bất chợt thấy bà khán Tích lại đưa mắt kèm nhèm nhìn lên ông và nhìn sang Thơm, còn Nấm thì cúi cúi đầu bón mãi thức ăn cho thằng cu bác Ngọ gái. Trong khi ấy mấy anh trai tráng cứ luôn luôn bá vai bá cổ Thơm, ép uống bát rượu của mình mời. Thơm vẫn ngồi xếp bằng, dáng vững như một thế tấn, và chỉ nhấp nhấp chiếu lệ bát rượu mời, không để các bạn ép buộc.
- Ông khán Tích à! Thế là thằng Thơm nó về làm con cái nhà ông bà. Ông bà lại được thêm cả dâu nữa. Chuyến này tôi có về quê mới yên tâm, và chuyến này tôi phải ở lại dưới quê lâu đấy! Ông bà ở hiền đúng là gặp lành.
Ông phó Thêu nhón nhén nhai miếng thịt gà nạc của bác Ngọ giai gắp mời ông khán Tích và gắp cho ông. Rượu cất lấy nước thật trong, nên ông phó Thêu chỉ hớp có một tí mà nóng sực cả người. Ông thấy vừa đắng vừa xóc chưa bao giờ như thế. Ông lại phải đón chén của ông khán Tích mặt mày phừng phừng mời ông, vừa lừ đừ nhìn xuống mâm Thơm, mắt cứ loang loáng như có cánh hoa trong con người ấy!
- Thế này!... Bà khán có ư như thế này không? Sang Giêng con lợn bên nhà bà có hết cám thì để bên tôi đưa cám sang. Rồi bà chỉ phải lo lấy hai thúng gạo nếp. Còn gạo tẻ thì để tôi sang Hồng Kiều, Vân Kiều hay bên làng Châu, làng Ngô nói với mấy nhà trên ấy mỗi nhà giúp cho bà một nồi thóc. Chỉ sang tháng hai là đón cả con giai và con dâu về cho ông bà nhá.
Tiếng bác Ngọ gái càng to, bên kia đồi cũng nghe rõ. Bà già dái và bác Ngọ gái đã quơ cả hũ rượu bên mâm Thơm mà rót vào bát mình...