Chương XI
Nhiều người vẫn cứ ngoái lại nhìn. Tuy tiếng súng lại ran râm với những vầng khói lửa ùn ùn cuồn cuộn, có lúc lại phụt lên rất cao. Quân Pháp đã hạ được thành rồi, vậy sao mà vẫn còn tiếng súng và nhiều đám cháy như thế? Hay ta đánh quật lại nên Tây vẫn phải bắn, lại làm cháy nhà cửa, kho tàng? Mà ta đánh quật lại như thế thì có quân cứu viện ở Sơn Tây xuống hay ở đâu đến? Oàng... oàng... oàng... ầm... ầm... Tiếng súng nổ lên từ xa như cố ý cho mọi người nghe thấy sức mạnh khủng khiếp của nó.
- Hay quân ta vẫn giữ được thành?
- Hay quan tổng đốc vẫn sống, vẫn giữ được thành?
- Quân ta vẫn giữ được thành thì không còn quan tổng đốc sao được?
- Tây bắt được quan tổng đốc hay quan tổng đốc chết rồi mà sao vẫn còn phải bắn!
- Trong triều đã mật sức cho ngoài này phải chống lại cơ mà!
- Mật sức chống lại mà vẫn cứ để Tây kéo quân lên đánh!!
- Ai mà biết được với trong triều?!!
Cái đoàn tàu xé nước, ngược sông với những quân lính súng ống dàn ra kín cả khoang trên khoang dưới, lại như vụt lên từ những tiếng súng nổ và băng băng lừ lừ qua những đám khói lửa đuổi theo bọn ông đồ Mốc. Phải! Ông đồ Mốc và nhiều người đang chạy đây đã trông thấy, đã biết rõ, biết chắc rằng "nó" thế nào cũng đánh ta mà cứ phải chịu cái cảnh đứng trên bờ mà trông theo tàu "nó" chạy, quân lính súng ống "nó" dàn ra. "Nó" đọc các điều khoản bắt mình phải nhận, nào để "nó" đóng quân, nào để "nó" tự do truyền giáo, nào để "nó" toàn quyền thông thương buôn bán đánh thuế ở các nơi các chốn, các sông, các bến, rồi thì là đến cảnh như thế này đây!
- Thành Hà Nội mất rồi!
- Quan tổng đốc Hoàng Diệu không chịu phó mình cho quân Tây, tự tử chết rồi!
Ông đồ Mốc trứng trừng nhìn những đám khói lửa vẫn ngùn ngụt, nghi ngút.
- Giời ơi! Quan tổng đốc Hoàng Diệu tự tử chứ không để cho quân Tây bắt! Còn thành Hà Nội tuy Tây đã hạ được nhưng vẫn còn như là tiếng súng nổ và nhiều đám bốc cháy thế kia? Phải chăng vẫn có quân ta cứu viện, đánh chặn?! Hay là tin quan Hoàng Diệu chết chỉ là tin đồn? Quan vẫn sống, ra thoát, vẫn cầm quân chống cự! Phải, phải, còn hơi còn sức, còn quân còn lính, mất thành rồi cũng cứ chống cự chứ! Giời ạ! Nếu như có còn ông giáo Quốc Oai, lại còn cả quân tướng và vua Quang Trung nữa!!!
Như thật có hàng hàng tàu chiến, thuyền chiến, và không phải chỉ hàng trăm, chỉ hàng nghìn, mà hàng vạn binh tướng giặc bị đánh tung lên trên sông nước. Còn ông đồ Mốc không phải đi, tay bíu vai người vợ già gầy yếu, tay chống gậy lần từng bước, mà là cùng đồng ngũ chèo con thuyền như cá kình chồm chồm sóng đuổi các thuyền giặc chạy trốn, bị bắn phá tan tành.
- Ông ơi là ông ơi! - Bà đồ Mốc hốt hoảng kéo giật gậy của ông chồng lại.
- Tôi cứ về, cứ ở lại Phú Thị thôi!
Cây gậy của ông đồ Mốc rung rung như ở trong tay một người lên cơn sốt hay cơn điên. Bà vợ vừa thương ông chồng bị ngã vì mình giằng kéo, vừa sợ có thể đầu gậy bật vào mặt, thúc vào ngực mình, nên không dám kéo nữa. Bà chuyển sang ôm lấy cánh tay cầm gậy của chồng:
- Ông ơi! Ông mà về Phú Thị thì mấy thằng ấy nhân dịp này nó bắt ngay ông nộp cho Tây như Lý Thông nộp Thạch Sanh cho Mãng Xà Vương....
Tiếng cười sằng sặc:
- Thế thì thằng Thạch Sanh Mốc này sẽ một sống một chết với Mãng Xà Vương. Mà nếu không chặt đứt được Mãng Xà Vương thì đánh nhau một trận rồi muốn ra sao thì ra.
- Tôi van ông! Ông Mốc ơi! Tôi van ông!...
Ở mấy bến đò phía bắc Hà Nội qua sông Cái, vẫn dồn dồn những người chạy Tây. Trẻ con dìu díu; đàn bà, ông già, bà lão lôi thôi lếch thếch; gồng gánh toàn những quần áo chăn chiếu nồi niêu bát đĩa nhếch nhác... Những bọn này cũng chỉ kéo nhau về quê quán nương nhờ họ hàng ít ngày để nghe ngóng binh tình rồi lại sang, chứ đã nghèo túng mà lại làm lụng lần hồi ăn đong trong cái buổi hỗn quân hỗn quan này, thì chỉ đổ của vào cho những nhà giàu, còn mình thì không chết đói cũng ốm rã người ra thôi.
Những câu nói của họ càng như gai như đanh đâm vào ruột gan ông đồ Mốc.
- Những đám khói ấy lại chỉ là những chỗ lính trong thành ra cướp phá đấy thôi!
- Quân trên Sơn Tây hay ở đâu về không biết, chứ quân của các quan ấy mà thua chạy về làng nào thì chỉ khổ làng ấy thôi.
- Bà ơi! Bà ơi! Gạo ở chợ trên ấy một tiền được những bảy thưng ư?
- Chính mắt người nhà tôi thấy cả lính của quan lớn và dân phu sụp lạy khi cởi dây, hạ quan lớn xuống, và cùng khóc rưng rức, khóc hơn cả cha mẹ mình!
- Cái thằng huyện gì ấy cho tìm ngay mấy con thanh lâu, để hát xướng và chuốc rượu cho Tây đánh chén ở điện Kinh Thiên rồi mà.
Ông đồ Mốc đã vằng bật tay bà vợ đi, ông nghiến răng thở rít vào và thấy như nuốt cả gai, cả kim lẫn mật đắng, giấm chua...
*
* *
Thành Nam Định ở địa phận của Phanxicô bị hạ tiếp ngay sau khi thành Hà Nội thất thủ. Quân Tây kéo đến đây có một chiếc tàu đông và mấy chục tên lính đi thong dong từ ngoài sông Đào vào trong sông Vị, đỗ trấn ở cửa Đông. Chúng chia hẳn một toán để lên gác chuông nhà thờ chính xứ, có mấy thằng quan đeo toàn ngù, lon và mũ chào mào thêu kim tuyến. Thằng nào không chề chễ bên hông thanh kiếm vỏ bạc, thì có súng buộc dây đã tết chỉ ngũ sắc lại còn quấn cả kim tuyến nữa. Hai thằng hai cái ống nhòm dài luôn luôn giương lên chiếu nhìn bốn phía nhưng đích chính vẫn là chỗ cột cờ có ba quan lớn tỉnh đốc thúc binh sĩ cầm cự. Bọn lính Tây tùy tùng cũng lên cả đỉnh gác chuông, thỉnh thoảng lại nổ đạn oàng oàng veo véo vào đám tàn lọng trong thành.
Khi quân dưới tàu đổ lên bờ, dàn ra làm hai hàng men mén dọc đường phố Cửa Đông vào đánh thành, thì đại bác từ tàu bắn lên như sấm sét. Súng thần công trong thành cũng bắn ra, nhiều phát đạn nổ còn to hơn tiếng nổ của đại bác Tây, nhưng không hiểu vì súng ít, đạn ít hay đạn thối, mồi thuốc ẩm sịt hay vì cai đội không thiện nghệ, nên mọi người đều thấy súng ta bắn lại thưa thớt quá!
Dân nghèo các phố cũng dắt díu nhau bồng bế con cái gồng gánh lếch thếch bỏ nhà chạy, ngay khi có tin loan báo tàu Tây đang vượt sông Đào và cho quân tiến vào cổng tỉnh, và tiếng loa, tiếng chiêng, tiếng trống đốc quân trong thành vang lộng cả góc trời.
Trùm Xoan và con cháu nhà lang Hảo đã đưa toán quân Tây đến nhà thờ. Trùm Xoan đội nón lông chóp bạc, mặc áo đoạn, thắt lưng chẽn bằng lụa màu Tam Giang, quần nâu quấn xà cạp xanh, đi giày vải đen. Còn bọn nhà lang Hảo đều chít khăn Tam Giang, áo thụng bưng sẵn các quả son, khay khảm đựng các thứ hoa quả, kẹo mứt. Tất cả xếp hàng, đứng khom khom ở sau cánh cổng giữa cửa nhà thờ mở rộng như ngày lễ trọng. Có mấy nhà mới theo đạo ở gần đấy định kéo nhau cùng đón quan Tây, nhưng trùm Xoan được lệnh bề trên đuổi họ đi.
- Tao mà có được một khẩu súng và mấy anh em tay giáo tay dao thì tao phải cho ngay cái thằng chột kia ăn một viên đạn xuyên qua hai thái dương và phạt cụt hết đầu cả bọn mũi lõ kia ở giữa cửa nhà thờ!
Cai Cừ tay vịn vai vợ, tay chống gậy, bước chân cứ chực khuỵu vì đầu gối mỏi rời và lưng đau sụn. Nhưng ở trước mắt y, phải đôi mắt quăng quắc như nảy lửa ấy, vẫn cứ treo vẫn cứ nổi không chút lay chuyển cái bộ mặt nhòn nhọn, râu chuột, trán dơi và lòng con ngươi thây lẩy như một đầu ốc vặn khêu của thằng trùm Xoan đang xun xoe ở cửa nhà thờ kia, ăn mặc sang quá cả quan lãnh binh, quan đề đốc.
Vợ cai Cừ tay cắp thằng con, tay cắp cái chiếu lại còn khoác một tay nải nặng đựng một hũ rượu thuốc và gói tôm khô quơ vội được với mấy cái quần áo của vợ chồng. Thấy chồng lệch thệch khổ quá, nhất là thương chồng vì cả nghe mình xin đổi về đây để được gần cận một người chị em con bá con dì nên phải chịu cơn cớ này giữa khi đau yếu; nên chị chỉ muốn tìm được cái xe bò không thì cái xe cút kít cũng tốt, để chị đẩy cả chồng con như người ta vẫn chở thóc, chở củi, chở lợn ấy cho vừa nhanh, vừa đỡ cực.
Thương hơn nữa là chị thấy chồng đã bảo chị hay là để: "Tôi vào thành với thầy đội và anh em cơ ngũ, còn nhà nó và thằng cu cứ yên trí sang sông ở với bà con mà nghe ngóng!". Vì thế, cứ mỗi lần nghe súng thần công của ta bắn ra oàng một tiếng, thì cai Cừ lại "hà" một tiếng và lại gọi "mẹ nó à", "mẹ nó kìa" rồi khi súng đại bác của Tây nổ liên hồi thì cai Cừ nhăn rít mặt lại, nghiến răng trào trạo, chân tay rùng rùng...
Chợt cai Cừ bíu giật vai vợ lại. Chân tay y càng run rẩy vì y nghển nghển cổ trông ra đường nhà thờ. Bọn quan Tây đã xuống cả dưới sân đá. Nhưng không hiểu duyên cớ sao mà cái lũ trùm Xoan và người nhà lang Hảo lại dạt cả về đằng sau, cuống quýt, lưng cúi, mặt gằm, vừa đi giật lùi, vừa chắp tay như định van xin kêu nài việc gì. Hai thằng quan thì mặt mày thất sắc, hằm hằm, có vẻ vừa bực tức vừa kinh ngạc. Mười một tên tùy tùng xách súng đi dàn hai bên, không còn vẻ hống hách ngang ngược nữa, mà len lét như chỉ sợ quát mắng hay sắp phải thừa một lệnh gì cấp bách, hiểm nghèo.
Đại bác Tây bắn vào trong thành càng dồn dập. Còn nghe thấy cả những tiếng súng tay ríu ríu, ran ran.
- Tây tiến vào được sát cổng thành rồi?!!
- Tây sắp hạ được thành rồi?!!
- Ta lại mất cả thành Nam Định?!!
- Tây lại chiếm nốt thêm cả Nam Định?!!
Trong đầu óc cai Cừ, không biết bao nhiêu hình ảnh hiển hiện với cùng không biết bao nhiêu ý nghĩ.
Vợ cai Cừ xốc xốc thằng con bé, lại còn cố quài lên vai nắm lấy bàn tay chồng bíu vai mình để kéo đi. Những đám chạy loạn đổ về bến đò càng tới tấp. Vẫn chỉ là những người líu ríu con cái và gồng gánh lếch thếch. Tiếng súng của ta vẫn nổ. Trong thành bỗng như có động đất rồi phùn phụt lên mấy đám khói lửa rừng rực.
- Tây lên hết Cửa Đông rồi!
- Ở trước Cửa Đông, người ta thấy đang cưa chân một quan Tây bị trúng đạn của ta máu ra bê bết, mấy chăn bông cũng không thấm hết, chắc đến chết mất thôi.
- Tây đứng bắn trên gác chuông nhà thờ phải rút xuống rồi.
- Thế thì chưa hạ được thành đâu.
- Chẳng biết trong thành kho đạn có trữ được nhiều không?
- Chẳng hay đêm nay hay ngày mai ta mà vẫn giữ được thành thì có quân cứu viện không?
- Thành Hà Nội còn mất nữa là!...
Đúng là ruột gan cai Cừ như bị dao cắt. Nhưng tâm trí cai Cừ lại như có dầu sôi:
- Thằng quan Tây bị trúng đạn là quan mấy vậy?!!
- Nó bị làm sao mà đến nỗi không bó không rịt thuốc được phải cưa chân?
- Chỉ có thần công trong thành bắn ra thì làm sao mà chống lại được.
- Thành Hà Nội đã bị hạ, thì làm gì còn quân cứu viện cho thành Nam Định!
- Cái thằng quan bị trúng đạn của ta rất nặng kia là thằng quan mấy? Nó ở bên Tây mới sang hay đã đi đánh dẹp trong Nam ra? Nó mà đã đi đánh dẹp trong Nam thì ở những vùng nào? Có ở Gia Định hay vùng đám lá tối trời không?!!
- Lần này triều đình Huế lại điều đình với quân Tây thế nào đây?
Cai Cừ lại phải nhớ, phải nghĩ đến bao nhiêu sự việc, bao nhiêu cảnh tượng, bao nhiêu câu chuyện.
Con thuyền chở trùm Xoan đã xuôi dòng lại có hai người chèo nên càng vùn vụt như tên bắn. Tuy vậy, hắn vẫn chưa bằng lòng mà luôn luôn gườm cặp mắt trông hai tên người nhà lang Hảo:
- Hai đứa mày còn khỏe, còn sức, còn nhanh được hơn nữa không? Chúng mày có muốn ông mổ lợn mổ bò hay xin bạc xin vàng gì ông cũng ư hết mà!
Sau khi đám quan quân Tây tức tốc trở về ngay bến tàu đỗ để xem người mình bị thương sống chết, chạy chữa thế nào, và không thèm hất hàm truyền bảo một câu nào với bọn chức sắc con chiên bổn đạo, thì trùm Xoan cùng đồng bọn như bước hẫng từ trên mây xuống một mặt nước băng tan, lũn cũn bưng các đồ lễ về một nhà ở kín đáo trong ngõ hẻm, bàn bạc với nhau rồi ngày hôm sau liền chia nhau mỗi đứa đi ngay mỗi ngả. Chỉ mình trùm Xoan được về tâu trình tin tức, công việc với cha bề trên Phanxicô.
Qua nhiều làng, nhiều bến rồi nhưng trùm Xoan vẫn không rõ các thuyền bè đã chạy đi các vạn các bến các làng xa nào, mà dọc sông cứ ngắt. Tuy vậy, ở các làng trong và cả mấy làng to lặng ven sông đều cổng đóng, ngõ rấp, lối rào, chẳng thấy bóng người nào ở các quán, các hàng, các bến, nhưng bên trong lũy tre thì lại ồn ồn rào rào, đôi lúc lại có tiếng loa tiếng tù và đốc thúc canh gác. Ghê gớm hơn nữa, mấy nơi lại bùng bùng lửa khói, đúng là đương thịt lợn, mổ trâu, thui bò tụ ba ăn uống rất đông. Toàn mấy nơi vốn nổi tiếng đất nghịch, đất dữ bấy lâu...
Phanxicô đang nằm võng, xem sách.
Cụ chánh Côi đang lần tràng hạt ở nhà trên. Thấy tiếng trùm Xoan e hèm từ ngoài ngõ, cụ chánh choàng người toan ra đón. Nghĩ lại, cụ chỉ để một anh con ra đánh chó, mà vẫn ngồi im trước tượng thánh giá. Trùm Xoan hơi bực vì thái độ này. "Con mẹ cái thằng già lù rù này! Bố nó thì phải lặn ngòi ngoi nước và làm cái thân đầu chày đít thớt; còn nó thì chỉ việc ở nhà nguyện ngắm. Rồi đây thế nào nó cũng được ăn trên, ngồi chốc, không những chỉ ở vùng này mà ở cả mấy xứ họ khác nữa, khi Tây hạ xong thành Nam cũng đóng quân như trên Hà Nội, cha bề trên đứng trên tòa giảng đàng hoàng ban phép lành cho các con chiên mà từ các quan huyện đến án sát, tổng đốc đều phải nhờ cậy những lúc có việc hệ trọng!". Nhưng vẫn cứ phải tươi cười nhuần nhã, trùm Xoan nói với cụ chánh Côi xin phép cho mình được đến hầu cha.
Phanxicô bước xuống võng, đứng làm phép ban ơn cho trùm Xoan quỳ lạy ở dưới đất, với cỗ tràng hạt và quyển sách vẫn cầm tay. Khi trùm Xoan ngẩng mặt, hít hít xong mẩu ảnh thánh giá nhỏ xíu bằng đồng, thì Phanxicô lờ ngờ cặp mắt như nhìn qua sương khói:
- Hạ xong thành Nam rồi chớ!
Trùm Xoan luống cuống:
- Trình lạy cha, thế nào Phú Lãng chả hạ xong!
- Có phải một quan tư bị đạn nặng ở Cửa Đông?
Trùm Xoan choáng người, mặt tái mét:
- Trình lạy cha... trình lạy cha...
Phanxicô gật gật cái cằm nhọn râu dê:
- Min biết! Min biết cả!
Nét mặt Phanxicô càng như đá mài, như thép dao:
- Xứ họ nhà thờ không ai đi đâu chớ?
- Trình lạy cha, đã thế mấy giáp của xứ họ trên làng và trong làng gần tỉnh lại kéo nhau đến ở cả xung quanh nhà thờ để nếu như có xảy ra cơ sự gì thì họ đóng gióng cổng, thổi nấu ăn ngay góc thang cầu chuông để giữ lấy nhà thờ...
Chợt trùm Xoan nói như reo lên và giận mình suýt nữa bỏ quên, chậm hầu cha cái tin nọ.
- Trình lạy cha có hai người Tàu không rõ có phải là bổn đạo hay không, cũng đưa con cái đến nhà thờ. Còn trên phố Khách trên thì không nhà nào, cửa hiệu lớn hiệu nhỏ nào chạy cả! Có mấy cửa hiệu lại chỉ hé hé cửa, vẫn có người mua bán. Nghe đâu mua cứ từng gánh thịt lạp xường, trứng mặn, thịt vịt, thịt chim phơi khô, miến, nấm hương và các thứ gấm vóc nữa. Rồi lại còn rục rịch mộ phu, mộ người không biết để làm gì, mà ở mấy làng trên, nhiều nhà nghèo đói đã cho con cháu xuống hiệu tạp hóa ở đầu đường Cổng hậu lĩnh tiền, lĩnh gạo ở cả hiệu Khách bào chế đò Quan nữa!
Cặp mắt lờ ngờ của Phanxicô không thể không loáng lên như của một con thú bắt chợt được hơi hướng một con mồi đang đón đợi. Còn trùm Xoan thì thấy nở nang cả ruột gan như kẻ dâng tiến những thức ăn vật lạ kiếm được từ phương xa về mà ơn trên nhắm nhía:
- Trình lạy cha, lúc quân "ta" đổ lên Cửa Đông thì ở phố Khách dưới có lão Phùng Phác kéo một toán người Tàu đi ra Cửa Đông, lão Phùng Phác vẫn đi bán cá mặn và chuyên nghề mổ lợn, quay lợn ở bến đò Chè ấy! Lão, người đã cao lớn, đầu cạo trọc bụng béo xệ, vác một lá cờ đen to như cánh buồm, viền những móc câu, vừa đi vừa khoa cờ vừa hét "tả lớ, tả lớ" thì lính Tây trèo lên nóc nhà ở đầu đường, chỉ nổ cho hai phát liền trúng cả hai. Lão nằm vật ra, bụng xổ hết ruột gan nằm chết giữa đường, cả cờ và quân biến đi ngay hết... Những chủ hiệu Khách ở hàng phố đã mặc kệ cho chết trương chết thối, lại còn vừa khạc nhổ vừa "tỉu hà má" cho nữa!
Tuy vẫn gằm mặt, nhưng đến mấy việc này tâu trình lên cha, trùm Xoan không thể nén được sự sung sướng, mãn nguyện, nên cố ý xem cha tỏ vẻ gì bằng lòng và ban khen mình không. Nhưng nét mặt Phanxicô càng lì, càng mạnh, không những thế, trong cặp mắt sắc rợn của y lại càng thăm thẳm một sự suy tính mà không thể một ai đoán biết hay lường trước được.
"Một viên quan ta bị trúng đạn nặng trong thành bắn trái phá ra thế nào mà làm người của ta bị thương như thế? Ngay đến thành Hà Nội, ta cũng không vấp phải sức chống cự như thế! Thương tích của viên quan ta có trầm trọng không? Thế nào ta cũng lấy được thành, nhưng đâu phải là xong xuôi mọi việc. Mấy thằng quan An Nam chó chết đầu tỉnh ấy có bỏ chạy để giữ lấy cái mạng của nó nhưng còn những vùng chung quanh chịu ảnh hưởng của những sĩ phu và những tên bất trị, ngoại giáo, thù địch sống mái với ta? Nhất là mấy địa phận ở Tây Nam kia! Cái bọn văn thân và hào trưởng từ trước đến nay vẫn chủ trương "đánh" mà triều đình trong Huế thì cố xuê xoa bảo sẽ điều đình ổn thỏa, để chờ thời cơ... cái bọn nguy hiểm ấy, chính trong lúc mấy thằng quan triều bất lực để mất thành, sẽ giương ngọn cờ của chúng và tụ tập dân chúng đây!
Phải, lần này thế nào triều đình Huế cũng lại ký... ký một hàng ước nữa và sẽ là hàng ước vĩnh viễn. Như vậy thế nào cũng có những sự phản ứng mạnh. Như vậy, ta không thể nào để quyền binh triều đình thao túng trong tay một bọn mưu đồ chống lại ta, dù chỉ là chống lại ta một cách tuyệt vọng!...".
Đúng là cặp mắt Phanxicô như hai mũi gươm xuyên vào khoảng không ở trước mắt. Trùm Xoan run rẩy, càng móp người lại, trùm Xoan thấy gần như nóng bỏng cả cổ họng và nghẹn khi thốt ra được những lời nói này:
- Trình lạy cha, Phú Lãng Sa mà hạ nốt thành Nam Định rồi đóng hẳn ở đấy thì xin cha cho... cho... địa phận ta phải khởi công xây ngay nhà thờ cũng như nhà thờ chính xứ Nam Định... ạ ạ ạ...
Phanxicô chỉ mỉm cười.
Sắp tới giờ cha ăn cơm tối. Mùi cá thu kho với nước mắm và lót riềng ở dưới bếp sực nức. Con dâu trưởng cụ chánh Côi đi mua rau cải cũng đã về, bảo mẹ chỉ cắt những ngồng để luộc và nhớ cho mấy nhát gừng vào nước rau. Không như mọi chiều, Phanxicô gọi cụ chánh già vào đọc kinh với mình rồi mới cho dọn cơm. Chiều nay, Phanxicô bảo mở cánh rào để mình ra vườn đi tản bộ, làm cả nhà hồi hộp. Chỉ khi nào cha thấy mỏi trong người thì mới ra vườn đi như vậy; không thế thì sắp sửa đi vắng đâu, phải suy nghĩ công việc gì. Nhưng hôm nay, bữa trưa cha vẫn ăn đúng ba lưng bát cơm thổi bằng niêu đất và lại còn cạy ăn thêm mấy miếng cháy. Đĩa dưa chua, cha cũng ăn hết với nửa đĩa tôm he rim. Còn cha đi đâu, thì cụ chánh không thấy cha bảo gì cả, và cũng không thấy ai ở trên kia hay trong kia đến đón!
*
* *
- Tây hạ được thành thì hạ, ta đánh vẫn cứ đánh.
- Quan tổng đốc Võ Trọng Bình chịu mất thành nhưng đã có quan đốc học Phạm Văn Nghị cầm quân đánh lại, không chịu để yên đâu!
- Mẹ cha chúng nó, gà lợn, gạo đỗ, bánh mứt ở đâu mà chúng nó gánh cả xuống tàu, rồi đem vào trong thành nhiều thế?
- Tây mở tiệc ở Hành cung gần Cột Cờ đấy!
- Ăn xong rồi ỉa ngay dưới mấy gốc cây đại vườn sau nhà, rồi xé y môn, lọng tía chùi đít.
- Năm Dậu trước thì còn điều đình được, chứ năm này thì đừng hòng!
- Vợ chồng nhà Mới này, còn xáo đấy, múc thêm cho mâm các cụ đây hai bát nào.
- À! Còn mâm nào để phần trong kia?!! Thôi, các cụ đến giờ mà chưa về thì cứ cho anh em ngả nốt thôi!
Ở sân nghè thôn Nhân Lý, không những chỉ ồn ồn tiếng các giai tráng và các quan viên, mà còn có cả tiếng đàn bà, trẻ con chuyện trò bàn tán chung quanh những bếp đầu rau và những mâm cơm. Có mấy cụ chức sắc cao tuổi và mấy hào lý, thì kẻ lên tỉnh thăm thú, kẻ lên huyện hầu quan, nên chỉ còn mấy bô lão và bọn đinh tráng ở nhà, nhân khi đông người tụ tập, cao hứng nhiều chuyện, họ bèn bảo nhau mua lại con chó thiến của vợ chồng mõ làng và bắt con chó nữa của nhà mình đem thịt, đánh chén.
Chiều, ngoài đường cái càng im vắng. Chuông thu không ở chùa làng trên và làng bên vẫn gióng từng tiếng lạnh tanh. Mây đen từ đâu dồn về xám xịt cả một góc trời. Nhiều ông già bà già ốm yếu, nghễnh ngãng, cũng bảo cháu dắt ra sân để nghe thêm tin tức trên tỉnh và nghe mọi người chuyện trò bàn tán. Cai Cừ đã cất được cơn sốt, nhưng sống lưng và một bên bả vai vẫn nhói buốt. Tuy vậy, bác ta vẫn ra ngồi uống rượu ở chiếu các ông trung niên. Những câu chuyện chống Pháp ở trong Nam, nhất là những trận đánh của quân cụ Trương Công Định, cứ mỗi lúc một thêm lôi cuốn bọn giai tráng đến nghe. Rồi ở cả chỗ vợ cai Cừ ngồi chuyện với các cụ bà và các người con mọn, cũng đông như thế. Chị chàng này cứ y như thật đã theo quân, theo bà con ở trong ấy mà chạy Tây, đánh Tây. Bọn trẻ nô nghịch là thế cũng bỏ cả khăng, cả đinh đáo, xúm lại ôm lấy thằng cu con chị, để chị rảnh rang vừa kể chuyện, vừa làm các điệu bộ y như đàn ông hay tợn hơn cả đàn ông nữa!
Chợt có mấy tiếng tru tréo ở phía sau nhà:
- Bên ấp đạo làm gì mà đốt lửa như đình liệu thế kia?
- A, nó thịt trâu, không, nó thịt bò, nó thui bò.
- Đúng! Đang thui bò!
Mấy bà trong này nghển nghển lên, lúng búng đầy miệng trầu cau:
- Nó mổ bò ăn mừng Tây hạ thành Nam Định đấy!
Trong tiếng lửa khói phùn phụt và củi đóm nổ, tiếng người râm ran ra mãi đồng ngoài nghe như của đám sá, hội hè. Bọn đàn ông giai tráng cũng đứng cả dậy. Mọi người còn đang xôn xao thì từ trên đê rầm rập không biết bao nhiêu gậy tày, tay thước và giáo mác đổ xuống với toàn những giai tráng và một cụ trùm vật cởi trần, chít khăn đỏ, xăm xăm thanh phạng sắc rợn:
- Không lên tỉnh vội! Không lên tỉnh vội, anh em ơi!
- Ấp đạo đang ăn mừng Tây đánh thành, cướp thành của ta đấy!
- Phải phá cái ấp của thằng trùm chột ấy đi thôi!
- Xem xem còn thằng cố Râu dê ở đấy thì bắt trói lại đem đi mà bắt Tây chuộc. Truyền đạo truyền nghĩa gì, toàn đi do thám mở đất!
- Chính bọn chúng nó đưa Tây đến nhận diện bắt chém ông xuất đội phó người làng ta bắn súng thần công trúng thằng quan binh ở thành Cửa Đông Nam Định đấy!
- A, a a.. này chúng mày ăn mừng, khao Tây hạ thành này!
- Này rồi chúng mày đón Tây về xây nhà thờ này.
Tiếng la hét rầm rầm tràn xuống ấp đạo.
Đúng trùm Xoan đang thét lác ở giữa đám thui bò.
Phanxicô vừa ăn cơm xong thì một thuyền đinh to đến mười người chân sào lực lưỡng giương buồm ở phía trên băng xuống, áp vào mạn bờ ngoài xa. Nhận ra hiệu lệnh của hai hồi tù và, gã con thứ cụ Côi cùng một người lực điền liền võng ngay Phanxicô đi với một bọc to những đồ lề lúc nào cũng sẵn sàng ở chỗ Phanxicô nằm. Không đợi Phanxicô dặn bảo, trùm Xoan mừng tưởng có thể ngất đi được! Rồi chỉ được đứng sau cụ chánh Côi vái vái chào vọng Phanxicô lúc xuống thuyền, trùm Xoan cũng thấy nở nang hết ruột gan, về tới nhà liền thét ngay cho bọn giai đinh:
- Đóng cổng lại, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ngả ngay con bò của ta kia. Ta khao hàng ấp một nửa con đấy! Còn một nửa con, mai mời ấp trên xuống ăn. Mẹ Xoa đâu, mẻ rượu này mẹ mày đặt được bao nhiêu phải để cả cho ta! Một nậm thôi cũng không được bán cho bên Nhân Lý, Nhân Nghĩa và mấy thôn trên.
Trùm Xoan bảo trải chiếu ngay bực thềm để uống rượu vừa trông coi việc thịt bò. Từng súc thịt bên ngoài thì chín vàng, bên trong thì tươi máu, thái liền liền ở một dãy thớt, đơm từng bát chậu, dọn ra cả mâm gỗ, mẹt. Lòng gan rửa ở ngay cạnh giếng và cũng nấu ngay cạnh giếng, trong hai cái vạc với từng vốc gừng băm nhốn nháo. Tất cả giai tráng và các đàn ông đứng tuổi cùng đàn bà con mọn đều ngồi vào ăn. Cơm thì nấu bằng một nồi ba mươi và một vạc lớn, mâm nào đến xới cho mâm nấy ra những rá to, nhiều rá cơm hãy còn sậm sựt, nhưng chẳng ai kêu sống sít gì cả! Riêng cái sỏ, bốn vó bò và xương bò thì mẹ con nhà Xoa cháu họ trùm Xoan vợ chồng con cái nhà một lão cũng chuyên đi xin trẻ con hấp hối về để cứu linh hồn, rồi chôn cất cho, xí phần. Tất cả đống xương đem bổ, chặt, pha bằng một lưỡi rìu to như búa nguyệt của thợ sơn tràng, rồi ninh trong một cái xanh đồng to hơn cả cái nia. Củi đun ở bếp này là những gộc cây đánh phơi để dành nấu bánh chưng Tết. Mẹ Xoan còn có một công việc nữa là đong rượu cho các mâm. Trước cái bếp ninh, lửa cứ rừng rực, phì phì, và luôn luôn có các mẹ con mọn và cả những "ông" cứ đến múc nước sít nếm náp dù đang sôi sục, hay lấy dao cạy cạy xẻo xẻo lần bì bò đã chín sừn sựt, ngầy ngậy, sắp mềm như thạch.
- Ừ thì ấp tao làm cỗ ăn mừng Tây hạ được thành đấy!
- Thằng tổ chúng mày, từ giờ trở đi mà cả quan tỉnh, quan huyện chúng mày chỉ động đến lông chân bổn đạo các ông thôi, cũng biết nhau ngay.
- Mùa chay tới này, mấy ấp ở địa phận đây làm lễ rước thánh giá đi khắp mấy tổng, và lên cả huyện cho chúng mày xem, rồi ăn chạ, xây nhà thờ, chứ chả ăn như thế này đâu!
- A!... Thằng tổ chúng phá cổng à?!!
- Giêsuma! Giêsuma lạy Chúa tôi! Cụ chánh ơi! Ông trùm ơi chúng nó ném bùi nhùi lửa, định đốt ấp đạo ta kia kìa!
Cụ chánh Côi vốn đã không ăn được thịt trâu thịt bò, nay lại sang ngồi chịu cái tội các mùi nồng nặc gây hôi, xương xẩu ngập ngụa, mặc dầu trùm Xoan đã để riêng ra góc mâm đĩa cá rán và tôm rim với be rượu thuốc, nhưng giờ ông cụ lại thấy sắp xảy ra cơ sự ghê gớm, nên càng bấn bíu, sợ hãi. Ông cụ ho sặc lên, vuốt vuốt ngực hồi lâu rồi cầm quạt xua xua:
- Nghe min này! Nghe min này! Mặc kệ họ! Mặc kệ bọ! Mặc kệ họ! Ta cứ làm như không nghe, không biết gì hết!
"Cái nhà Xoan chột này thật không ra sao cả. Lúc nào ăn uống chả được. Có gì thì hãy đợi ngày ra mùa hay lễ Chúa Giáng sinh hay ngày nào đó có hơn không?! Nó lại làm ta bị Người quở đây!".
- Giêsuma! Giêsuma! Chúng cố phá cổng kìa...
- Giêsuma! Lạy chúa tôi! Cụ chánh ơi! Cụ trùm ơi! Chúng cứ ném bùi nhùi to lửa như thế kia thì cháy hết ấp mất thôi.
Cụ Côi đứng hẳn lên:
- Giêsuma lạy Chúa tôi!
- Bà con à! Nếu như họ cố phá cổng thì ta cứ giữ cho bằng được. Chỉ có ném bùi nhùi hay có bắn hỏa hổ chăng nữa, ta cũng dập được. Chữ nhẫn là chữ tượng vàng. Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu. Cửa miệng bao đời đã dạy con cháu như thế. Huống chi Chúa cũng đã chịu mọi sự thương nhớ cũng vì thế... nhất là trong lúc cha bề trên không còn ở đây!...
Trùm Xoan cũng đứng lên, è è giọng:
- Đến bây giờ còn phải e dè giữ gìn gì nữa? Nhẫn... đến bây giờ mà còn cứ phải nhẫn à?! Cụ chánh cứ để chúng tôi... Chỉ đoàng cho mấy phát thì ông tổ chúng nó cũng không dám vào.
Cánh cổng lung lay sắp bị bẩy tung.
Tất cả vùng chạy, ai nấy đều đi lấy giáo mác, rùng rùng dàn ra hai bên ngõ rấp gai bồ kếp.
- Nào đánh thì đánh! Cứ thử vào đây mà đánh mà phá, mà đốt...
Trong những người kéo đi theo dân Nhân Nghĩa có cả vợ chồng cai Cừ. Cai Cừ quên cả đang đau đang bệnh, tập tễnh chạy theo ngay vì thấy thế này thì nguy quá! Nếu ngăn giữ dân không được thì sẽ xảy ra không biết bao nhiêu sự đau xót, bao nhiêu cảnh đau xót, bao nhiêu điều bất hạnh sau này!...
Vợ cai Cừ choàng dậy, đuổi theo gọi:
- Thầy nó ơi! Kìa thầy nó ơi!
Cai Cừ chỉ vẫy vẫy tay cho vợ về, khiến chị phải cố chạy theo bám sát cạnh chồng. Tới khi nghe cái giọng nanh ác của mụ cháu trùm Xoan ở trong kia thách thức và tiếng trùm Xoan đốc thúc giai đạo cứ để cho "chúng nó vào" thì máu trong người chị cũng sôi lên.
Cánh cổng vừa bật ra, tiếng òa reo vừa cất lên, thì năm ngọn giáo tua tủa xô ra cùng mụ Xoa. Mụ cởi trần, mặc mỗi cái yếm và cái váy mốc ngắn cỡn, đầu cạo trọc chẳng bịt khăn gì cả, bế thằng con mụ đẻ hoang quấn trong cái quần nâu, nhảy như choi choi với thằng con đưa lên đưa xuống.
- Này vào đây! Cứ vào đây, vào đây!
Quả nhiên bên ngoài đứng sững cả lại. Nhưng rồi có tiếng người nói như rít:
- Dúi mẹ nó đi! Cút! Cút! Cút ngay! Không thì dúi mẹ nó đi.
- Hí hí hí! Thì thằng nào dám vào dúi mẹ mày đi thì cứ giỏi mà vào. Trong lúc nhiễu nhương, bên chúng mày có hết thóc hết tiền, túng đói thì phải nói năng cho ra nhời ra nhẽ, bên tao sẽ cấp gạo, cấp tiền cho. Chứ đừng có giở giói cái lối đi ăn cướp... ăn cướp... Đi ăn cướp là không được với bên tao đâu!
Đến lượt cai Cừ nắm lấy cánh tay vợ. Vợ cai Cừ rít rít hàm răng, chân giậm thình thịch:
- Quân nặc nô! Cái mồm lỗ trồ lỗ hỗn.
Mụ cháu trùm Xoan cũng sấn lên:
- Phải! Có hết tiền hết thóc, túng đói thì phải nói năng cho ra nhời ra nhẽ... đi ăn cướp là không được với bên tao đâu!
Hai màng tai ù hẳn đi, vợ cai Cừ không còn nghe thấy mụ Xoa nói thêm những gì nữa, giãy ngửa chống, giật cánh tay ra, nhảy bổ vào mụ Xoa:
- Này mở mãi cái mồm lỗ trồ lỗ hỗn! Này mở cái mồm...
Luôn hai cái tát trái vả vào mặt mụ Xoa. Cả máu mũi, máu miệng tứa ra. Mụ Xoa hét lên bưng mặt. Thằng bé con tụt xuống đất, khóc thét. Mụ Xoan chồm lên, ồm lấy vợ cai Cừ, hực hực miệng vào mặt cai Cừ mà cắn. Hai bàn tay mụ còn bết những máu bò và vụn vặn thức nấu, túm lấy đầu vợ cai Cừ mà xoắn mà giựt tưởng chừng bật ra từng mảng tóc. Vừa cao lớn, vừa uống hàng bát rượu, da thịt càng đỏ rừng, trong phút chốc lên cơn, mụ Xoa làm vợ cai Cừ suýt choáng ngã. Tuy thấp bé, nhưng thuở nhỏ được xem ông và những đô của cha của chú truyền cho nhau những miếng vật, những đường quyền hiểm, vợ cai Cừ nghiêng mình, thích mạnh khuỷu tay vào mạng mỡ mụ Xoa. Mụ Xoa rú lên, rời rụng cả chân tay, chúi xuống, ngã vật.
- Giêsuma! Giêsuma lạy Chúa tôi!
Cả năm mũi giáo của giai đạo phầm phập lao đến xỉa vào đầu vào mặt vợ cai Cừ. Lại một loạt tiếng thét: Ối giời! Anh em bà con ơi!...
Tất cả những hàng gậy, tay thước, giáo, mác ở phía ngoài tràn vào.
- Giêsuma lạy Chúa tôi! Giêsuma lạy Chúa tôi! Thằng cu Xoa chết bẹp rồi! Cánh cổng đổ đè rập lên nó rồi!... Giêsuma! Giêsuma! Lại giẫm, lại còn giẫm nhau trên cánh cổng nữa kia kìa!
Tất cả những hình ảnh và tiếng kêu tiếng thét nọ rầm rầm sầm sập vào mặt vào tai ông cụ Côi. Ông cụ giơ bàn tay cầm tràng hạt lên che mặt, lắc đầu:
- Giêsuma lạy Chúa tôi lòng lành vô cùng, xin tha tội cho mọi người! Xin tha tội cho mọi người!
Quả trống treo ở đầu hồi nhà trùm Xoan rùng rùng từng tiếng dồn dập, gọi những ấp cả trên Đông, dưới Đoài cứu viện.
- Cụ ơi! Cụ ơi! Thu quán về thôi... Cho bà con anh em về thôi! Ơn trả, oán đền! Cứ như thế mãi thì ta chỉ nồi da nấu thịt, khốn khổ khốn nạn đau xót vô cùng...
Ở một quán nước dọc đường, nhận ra đúng tiếng cai Cừ, rồi bàn tay càng siết chặt giữa hai bàn tay nóng như lửa của y, thì ông đồ Mốc run bắn cả người còn cai Cừ thì òa lên nói như sắp khóc khi ông đồ cất nhời hỏi thăm vợ con y. Cai Cừ chỉ nói rằng y gửi con cho người chị họ vợ, chứ không nói chuyện vợ đã bị đâm chết, và y nghe tin trên đây sắp có quân các nơi về hội tụ, mở trận đánh lớn lấy lại Hà Nội, nên vội lên đây để gia nhập vào bất cứ đội quân hay đạo quân nào của quan tổng đốc Tam Tuyên hay của văn thân người Bắc Ninh hay Hà Đông, Sơn Tây cũng được.
- Cụ nghe phong thanh thì quân của quan tổng đốc Tam Tuyên đã về đến đâu rồi mà mấy hôm nay ở trên Vòng, trên Vẽ tấp nập thế.
Ông đồ Mốc lại càng bồn chồn, vì chính ông cũng đang mong ngóng, nhưng nghe cai Cừ nôn nóng quá, ông phải đắn đo:
- Lòng người ai mà không trông đợi?! Nhưng chắc quân các nơi còn là phải hội sư, bàn định với nhau...
- Thì cũng phải sơm sớm lên chứ, cụ đồ à!!! Đánh phủ đầu, đánh bất thình lình, đánh úp, đánh chụp, đánh không cho Tây ấm chỗ ăn ngon, ngủ yên mới được!
- Thế thì sang bên bãi với chúng tôi! Giỏi! Giỏi! Giỏi! Khá! Khá!... Tay này giỏi đấy! Khá đấy! Cụ đồ à!...
Miệng nói, tay kéo, một người cao lớn, mặt rỗ như tổ ong bầu nọ, đứng vụt lên túm lấy vai cả ông đồ Mốc và cai Cừ, làm cai Cừ luống cuống. Nhưng khi định thần, trông, nhận ra chính là người quen thì cai Cừ mừng rỡ khôn xiết:
- Bác Ngọ! Bác không ở trên ấy mà về đây? Bác về đây có việc gì?
- Việc gì! Lại còn việc gì bây giờ?!!
Ông đồ Mốc thở phào:
- Đấy bác Ngọ quen thung thổ thì đến bác cai lên trên Vẽ, trên Vòng hay sang bên Thanh Oai để đón quân các quan về đánh Tây...
Bác Ngọ liền cười rủm rỉm:
- Việc gì phải đi làm quân những đâu đâu!!! Sang ngay bên bãi mà cùng chúng tôi đánh ngay Tây có được không? Thôi, hãy cứ vào đây uống nước, hút thuốc cái đã, cụ đồ và bác cai à!
Sau đó ba người không vào trong làng và cũng không ăn cơm ở nhà bà em ông cụ đồ, mặc dầu khi ông cụ đi qua đây, bà cụ nọ chỉ thoáng thấy bóng liền chạy ngay ra mời cả bọn nghỉ lại chỉ chốc nhát là có cơm ăn.
Rẻo con đường bên bãi ngô, hai người xuôi dọc sông. Cụ đồ Mốc khoa gậy đi cùng hoạt bát hẳn lên, còn cai Cừ thì như cất được tảng đá hay súc gỗ đè trong tâm trí và lại càng bồn chồn hơn vì muốn đến cái nơi cái chốn ấy ngay.
Cũng như ông đồ Mốc, bác Ngọ nghe được tin Tây ở Hà Nội lại nhộn nhạo, bèn bảo vợ để mình về quê xem binh tình ra sao. Vừa phần lâu nay bác chẳng chịu đoái hoài gì đến làng xóm, mặc dầu đến ngày giỗ tổ hay trong họ có công việc, bác vẫn gạo tiền đóng góp đầy đủ; vừa phần bác còn một ông cậu ruột già yếu quá nên phải về thăm hỏi kẻo nữa mang tiếng với bên ngoại. Ở làng hôm trước hôm sau, rồi về Gia Lâm, bác được chứng kiến cả cảnh thành Hà Nội thất thủ và quan tỉnh Bắc Ninh bỏ thành chạy. Trong khi ấy ở bên Quế Dương, trai làng và nhiều bạn cũ của bác bàn nhau phải đi tìm ngay nơi cụ thủ khoa Nguyễn Cao đóng mà đầu quân vì nghe nói cụ đang mộ quân để chờ quân của quan tổng đốc Tam Tuyên kéo về thì khởi sự đánh lấy lại thành Hà Nội. Đang khi tất tưởi vừa qua sông lại sang đò, vừa xuôi xong lại ngược, chưa ở trọn ngày huyện này lại quay sang huyện khác mà vẫn chưa dò được đích xác bản doanh cụ Tán Cao người Thi Xá đã dấy binh thì bác Ngọ gặp ông đồ Mốc và cùng gia nhập vào đám nghĩa dũng có mấy người cháu và người làng của cụ đồ.
Thì ra mấy đám cháy khuya, bốc khói lửa rừng rực ở ngay trong thành Hà Nội và tiếng súng nổ ran tuần trước đây là của đám quân nghĩa dũng đốt phá và quân Tây bắn đuổi. Hôm qua, cúng tuần "tư cửu" quan tổng đốc Hoàng Diệu xong, anh em nghĩa dũng cử cụ đồ Mốc và bác Ngọ về Gia Lâm lấy thêm khí giới để còn mưu những trận đánh lớn, liền có nhiều người gia nhập thêm...
Ba người xuyên hai bãi ngô và một bãi dâu đến một bờ lạch thì dừng lại. Chỉ vừa dứt tiếng hú của ông đồ Mốc, một thuyền thúng đã từ đám lau um tùm phía trong lao ra. Người chống sào khoác bên vai thanh mã tấu, chít khăn đầu rìu, hớn hở:
- Anh em đến đông đủ cả rồi! Chỉ chờ cụ và bác Ngọ về là chiều nay sang sông.
Thuyền qua bãi lau, bọn Ngọ lên bờ, vào một gian nhà rộng mái lợp cỏ tranh, liếp ken lá mía, đang lố nhố ồn ồn hai đám người sẵn sàng giáo mác, thanh phạng và cả khiên, mộc. Ông đồ Mốc ngồi xuống cạnh chỗ một ông cụ cũng vào trạc tuổi mình nhưng người gầy sắt, da thịt nhiều chỗ như bị bỏng lột, đầu trọc và trán ngắn cũng đầy những vết sẹo. Khí giới của ông cụ là cây thiết lĩnh một mẹ bảy con. Cả bọn chỉ vừa nghe ông đồ Mốc và bác Ngọ kể qua lai lịch của cai Cừ đều sửng sốt, vẻ vui mừng, mến phục cứ rạng mãi lên trên nét mặt và mắt nhìn. Còn cai Cừ được biết ông cụ nọ nguyên là quân của ông giáo Quốc Oai bị bắt đày vào hầu hạ cho đám lính ở chuồng voi, và chính mắt đã chứng kiến quan tổng đốc Hoàng Diệu cỡi voi về Hành cung rồi tự vẫn ở đấy, thì cai Cừ càng bồi hồi, y như được gặp lại những thầy đội, thầy quản trước đây của mình đã đi theo cụ Trương Công Định vậy. Các câu chuyện càng thêm đậm đà, sôi nổi. Mặc dầu ruột gan tâm trí vẫn nhức nhối và nhiều lúc lại cồn cồn cai Cừ vẫn cứ phải đón cái điếu cày nạp những mồi thuốc to của bác Ngọ đưa cho hút rồi cùng uống những chén vại chè xanh, mà rành rẽ kể những trận đánh Tây, những sự việc ở trong Nam, đặc biệt là những ngày đầu, Tây đã lấy được thành Gia Định nhưng các nơi nghĩa quân nổi lên càng đánh mạnh có cơ thắng thế...
Bóng chiều đã ngả. Ngoài sông, nhiều quãng khói sóng lan dài. Phía Hà Nội, trên vùng Hồ Tây, chân trời từ đỏ rực chuyển vàng úa rồi tím bầm. Hai con thuyền trên kia đã xuống đón. Ông đồ Mốc khoác bao kiếm lên vai, chống gậy đứng lên cùng với ông cụ cắp cây thiết lĩnh:
- Thôi anh em ra đi... Bên bãi chắc đương mong lắm.
Bác Ngọ cười ha hả:
- Trận này mà ta đốt được nhà đạn và cả tàu ngựa thì Tây phải mất ăn mất ngủ, mà quân của cụ Nguyễn Cao hay của quan tổng đốc Tam Tuyên lại kéo về gần Hà Nội thì sướng quá.
- Rồi phải tìm cách mà cướp lấy súng nữa! Không sợ Tây đông, canh gác nghiêm ngặt. Tìm được lõng, lừa được khi sơ hở, thì ta làm ăn được đấy!
Cai Cừ nói với cả ông cụ bạn ông đồ Mốc và bác Ngọ. Ông đồ Mốc càng thấy nở nang cả ruột gan. Lúc này mà ông không ở lại làng, ở lại Hà Nội mà về Yên Thế lại ru rú với mấy đứa học trò qua ngày đoạn tháng bên rìa đường đi chợ ấy, thì còn cái nhục, cái tiếc nào hơn?!! Mà cái tiếc, dù sao vẫn có cơ gỡ được, chứ đã chịu nhục là mang hận suốt đời. Vào cái tuổi đã gần đất xa giời, một ngày một ốm yếu, gặp lúc quốc gia hữu sự này, còn chút hơi thở nào mà không đem thân ra gánh để trước là trả nợ nước, sau là thỏa chí bình sinh, thì làm giống người sao được?!!
Trận trước đây anh em đốt cháy nhà củi nhà gạo và trận Ngọ bóp cổ chết thằng lính ở trong thành ra phố uống rượu say, bỏ xác nó vào bao tải vác quẳng xuống sông... cũng đã sướng tay. Nhưng nghe cai Cừ kể các chuyện nghĩa quân nổi lên đánh Tây trong Nam, và còn phải tính đến cả việc cướp súng của Tây để bắn lại chúng, thì lại càng thấy phải dấn mạnh nữa... dấn mạnh nữa... để sẽ tính đến nhiều việc, nhiều điều lớn hơn...
Đêm nay vào Hà Nội chỉ có bác Ngọ, cai Cừ và chín giai tráng, kẻ làm chân sào, phu khuân vác, người đánh xe bò, thợ thùng đấu và đi ở canh điền... vốn không thuộc đường lối lại có sức lực nhất mới được cử đi. Còn tất cả nghĩa quân chia nhau trấn giữ mấy lối xuống bãi sông để vừa ứng chiến, nếu quân Tây đổ xuống truy lùng mà sa vào trận địa hầm hố của mình mà chúng không mạnh không đông quá, và cũng để đón mừng tiệp báo của anh em khải hoàn.
Lúc tiễn anh em ra đi, ông đồ Mốc cứ trông theo bác Ngọ như không sao dứt được. Cái thằng khỏe hơn trâu mộng và dữ hơn trâu điên đã chỉ có hai tay chịt cổ thằng lính Tây cao lớn, lắc cho mấy cái là Tây nghẹn tắc thở, trong trận này chắc chắn không chịu vào to ra nhỏ. Rồi lại được một người đã dày dạn sống chết với quân Tây là cai Cừ dìu dắt, chỉ bảo thêm nước, thêm bước cho mà cướp được súng thì thanh thế đội nghĩa dũng này phải lẫy lừng, sao không khỏi đến tai các đạo quan quân sắp tiến về đánh Hà Nội.
- Thời thế tạo anh hùng!
Anh hùng là ai? Phải chăng là ngay trong đám cùng đinh vì nghĩa quyết chiến này. Phải chăng là được gặp những người tiết chế, những chủ súy như đức Hưng Đạo đại vương hay đức Lê Thái Tổ, đức Quang Trung Nguyễn Huệ?!!
Mắt đau đáu nhìn về phía Hà Nội, bác Ngọ giữ chặt thanh mã tấu đeo bên hông, chợt nghĩ đến thằng dái và con mẹ dái của mình. Và cả Thơm nữa! Cái thằng Thơm mắt voi, gan lì ấy mà về nhập vào toán nghĩa quân đây, cùng đi với cả cai Cừ và ta đánh trận đêm nay? Chưa bao giờ bác Ngọ lại thấy thương thấy yêu khi nghĩ về nhà như thế!
*
* *
Quan một Mặt ngựa thấy ức lên tận cổ.
Chai rượu mạnh mới được phát còn già nửa mà hắn bỏ đấy, vì nếu cần uống thì hắn sẽ mở chai nữa, chứ uống thêm mấy chén bây giờ chỉ tổ thêm buồn bực.
Cái thằng lính khốn nạn của hắn đi chữa cháy làm gì để đến nỗi bị chém sả người ra mà súng thì mất. Chuồng ngựa hay nhà quan tư ở dù bị cháy chăng nữa thì cũng kệ cha chúng nó. Vì trách nhiệm thì đã có nơi có chốn có lính có đội chịu. Còn nó đi tuần ở quanh cột cờ, mồ ông mả cha nó không ai động đến, vậy mà nó lại kéo thêm mấy đứa nữa chạy đi chữa với chạy, đuổi với tìm, để bị chúng nó phục kích mất mạng và mất cả súng, làm bố nó đây đã bị "xạc" mất mặt lại còn lo mất lon nữa. Rằng không thừa hành đúng công - sin, rằng luyện tập và chỉ huy lính tráng của mình ra sao mà lại có những đứa ngu xuẩn, rồ dại làm vậy!
Đểu thật! Quỷ quái thật! May mà toán lính gác nhà đạn ở trong khu vực bảo vệ của hắn phát hiện được ngay mưu mô của những thằng giặc cướp ma mãnh kia, nếu không cũng cháy như chuồng ngựa và nhà cỏ, thì đúng là tao bị lột lon mất!
Các quân khốn kiếp! Tao mà bắt được mấy thằng chúng mày thì tao phải đem nướng sống để đền mạng cái con ngựa tía của quan ba đã bị chết thui, rồi phải cắt cổ tất cả chúng mày treo cái đầu không phải chỉ ở cành cây mà lấy cọc sắt đóng làm mốc ở đầu đường lối chúng mày vào đây cho tới khi khô róc hết cả tóc tai, da thịt.
Tuy phải chạy cho vừa kịp khi tiếng còi rúc xong, mấy tên lính qua nhà tên quan một Mặt ngựa vẫn đảo mắt nhìn vào bàn rượu còn nửa chai rượu mạnh. Cuối cùng viên quan này cũng phải rót đầy cốc, ực ực hai hớp thật cạn rồi xốc áo, cài khuy và sửa lại dây lưng có bao súng, đoạn ra ngoài. Y nhảy lên cỡi con ngựa có tên lính hầu cầm sẵn dây cương. Tiếng gằn hắt ra lệnh xuất quân cùng tiếng ngựa hí. Quan một quất quất roi da phi lên trước hàng quân một quãng, quay nhìn toàn thể rồi cho phép đội lính cận của mình cất bước.
Vẫn còn khói bốc, trời dần rạng sáng.
Ba toán lính rầm rập qua cổng chính cửa Bắc tiến ra bờ sông có một thằng đội lệ người ta dẫn đường chạy bên ngựa viên quan một. Tên đội nọ cam đoan rằng nghĩa quân chỉ rút ra đường này; và những nhà nào đã để nghĩa quân trú chân hay có người đi theo nghĩa quân, vạch đường chỉ lối cho nghĩa quân, y sẽ chỉ dẫn bằng hết.
Cai Cừ cũng mừng, cũng hồi hộp vì bọn lính Tây và cả viên quan đã đi vào lõng sập của mình, nhưng phải kìm tay bác Ngọ không cho nổ súng. Với khẩu súng vừa cướp được và bao đạn ấy, cai Cừ muốn sử dụng sao thật đích đáng nghĩa là sẽ hạ được từ quan một đến quan hai quan ba Tây trong một trận đánh khủng khiếp cũng như trận hay còn hơn cả trận đã hạ thằng Ngạc Nghe ở Cầu Giấy năm xưa. Một điều này nữa là cai Cừ muốn để anh em nghĩa quân về yên nơi cát cứ, cùng nhau xem xét, am hiểu thật tinh tường các bộ phận và cách sử dụng súng này, rồi trận tới đem bắn Tây thì cũng chẳng muộn. Bởi vậy, bàn với anh em hãy giao súng cho ông cụ đồ Mốc bảo quản, mà trong trận phục kích này, hãy vẫn chỉ đánh Tây bằng giáo mác đã!
Đúng toán lính và viên quan một đang đi vào lõng của nghĩa quân. Chúng không qua cái dốc lương vương những cỏ rác mà chúng cho là có thể có hầm hố bẫy cạm, mà vòng sang hai bên, men con đường mòn để xuống bãi. Chỉ đợi con ngựa tiến thêm mấy bước nữa sa vào hố là từ những đống lá mía lá ngô các nghĩa quân sẽ vùng ra mà chém mà sả và cướp súng. Nhưng cai Cừ vẫn níu níu vạt áo bác Ngọ và ra hiệu cho anh em hãy chờ tí nữa. Chợt con ngựa mã tía chồm hẳn lên, hí một tiếng lọng óc. Tên đội lệ đang chạy chạy bên nó, bỗng ghì giật lấy dây cương và chới với xua xua tay ra hiệu cho viên quan một phải dừng ngay lại.
Như con cọp rình mồi không thể để chậm trễ, bác Ngọ thét lên cùng tất cả mọi người lao ra. Ở hai bãi ngô, bãi mía có hai toán lính Tây đi vòng từ xa để làm hai cánh hộ vệ, những nghĩa quân và cả mấy người đang kéo thuyền cũng vọt đến. Viên quan một tối tăm cả mặt mũi khi con ngựa khuỵu ngã và ba bốn mũi giáo mác tới tấp đâm xỉa, chém lên cả người nó và con ngựa rống rít. Còn tên đội lệ, lúc con ngựa chồm hí suýt nữa vằng y xuống cái hố cạm, y đã tưởng mất mạng, nhưng khi bác Ngọ vút tới, giơ thanh mã tấu trên đầu y mà cười ré lên, thì đúng là cả ba hồn chín vía y rụng rời:
- A! Tưởng ai hóa ra chính cái thằng chó nó đã cắn con mẹ dái nhà ta đây! Giời ơi! Mày đã được ở bên Gia Bình làm chó vậy mà còn không biết thân, thì tao cho mày làm ma không đầu ở đây vậy!
Tiếng súng đã nổ ran. Những tên lính Tây bị nghĩa quân vồ và chém hụt nhảy tỏa lên các mô đất mà bắn. Đạn lửa còn xối cả xuống những đống bã mía, xác ngô và những xóm những nhà những túp lều dưới bãi, bên sông...