Chương XII
Cai Cừ tần ngần trông về phía phủ Thuận Thành, càng ân hận rằng mình không đến đấy sớm mấy hôm để được theo ông thủ khoa Nguyễn Cao người làng Cát Bi ấy. Việc quân bên Bắc kéo sang đánh thành Hà Nội, và nghĩa quân cùng dân tráng Hà Nội đã vào vây được Cửa Đông làm Tây nguy khốn, phải nói với tổng đốc Nguyễn Hữu Độ và tuần phủ Vũ Như mang cờ biển khâm sai ra cản nghĩa quân và dân phố, cùng việc đang ở cái thế có thể đánh phá cả Đồn Thủy của Tây mà ta phải bỏ dở... khiến cai Cừ càng suy nghĩ càng thấy như có lửa nồng, có giấm thanh đốt xé lòng mình. Hơn nữa, cánh quân này lại là của tỉnh Bắc, đốc chiến lại là ông thủ khoa Cách Bi mà cai Cừ chỉ vì trở bệnh không đến kịp, thì có nhục không? Giời ơi là giời! Mối hận này làm sao nguôi được dù đã xuống tuyền đài! Đã thế, nay lặn ngòi ngoi nước tìm được tới nơi thì tướng công người mình kỳ vọng lại chuyển đi không biết chốn nào, và quân ngũ thì không còn một cơ đội!
Đã cuối xuân sang hè. Gió chiều vẫn thấy lạnh. Cánh đồng và bãi ngô vương vất từng đám khói mờ mờ, càng xa tít tắp. Cai Cừ lại phải hút mồi thuốc nữa rồi trả tiền nước bà hàng, đội nón, xốc lại khăn gói ra đi. Tối nay cai sẽ ngủ bên kia sông, sáng mai sẽ dậy sớm nếu gặp thuyền, gặp bè sẽ đáp nhờ để xuôi về Nam Định, không thì đi bộ, để kịp tháng tới này giỗ đầu mẹ thằng dái và cũng là trăm ngày ông đồ Mốc và bác Ngọ cùng mấy anh em nghĩa quân bị bắn chết bêu đầu trên đường Yên Phụ sau trận đốt nhà ngựa ở trong thành và đánh chặn quân Tây đi truy lùng!
Nhìn qua rặng nhãn ven đê, phía bên kia sông và vùng trên mở ra thêm bát ngát. Những dãy núi xanh ngút sương lam chướng khí và những cánh rừng, những ngọn đồi, những đầm, những bãi thăm thẳm. Bao chuyện lại rưng rưng trong tâm trí cai Cừ, những chuyện nơi vùng Đám lá tối trời , vùng dưới Cà Mau, vùng kênh rạch Gia Định, Long An... và những trận đánh. A! Những trận đánh...
Có tiếng người xáo xác gọi nhau. Trông lại, thấy hai bọn gồng gánh lếch thếch. Hỏi ra được biết toàn là những dân ở Bình Lục, Lý Nhân, chạy đói tháng ba ngày tám lên Bắc nay trở về quê. Gánh nào không khoai, ngô thì cũng nặng sắn và củ mài. Nặng nhất, nhiều nhất vẫn là sắn khô và củ mài. Riêng gánh sắn dây và khoai môn của người cháu trai một ông cụ, lại còn đèo thêm bốn chiếc vai cày gỗ thầu tấu. Gánh nào cũng có một bó rơm nếp để về làm chổi.
- Các cụ ơi! Các cụ gồng gánh nặng thế kia thì sang sông các cụ ngủ đỗ lại đây chứ? - Cai Cừ chậm chậm bước, chờ hai ông cụ gánh nhẹ đến thì lên tiếng hỏi.
- Không, cánh tôi còn đi xa nữa. Nếu binh tình mà cứ nhộn nhạo thì cánh tôi đi suốt đêm.
- Các cụ về đến nhà là bắt tay vào gặt đấy nhỉ?
- Ôi dào, ở cái đất chiêm khê mùa thối này, gặt hái năm nay cũng lại chẳng ra quái gì đâu. Chả nhẽ mình cứ ra đi biền biệt và chả nhẽ thấy nói Tây đã hạ cả thành Nam Định, Ninh Bình, mà ở ngay gần huyện nhà, quân quan đốc học kéo lên đánh được luôn mấy trận, thế nào Tây cũng đổ về truy nã, triệt hạ các vùng lân cận, vậy mình không về thăm cửa thăm nhà, rồi xem xem binh tình ra sao để còn lo liệu tìm nơi kiếm chốn đưa nhà đi làm ăn, thì đang tâm sao được!
Một bác đứng tuổi, vóc người vập vạp, mày rậm, mắt sáng, đổi vai gánh đoạn nói:
- Tôi thì cứ để mẹ con nó ở nhà. Có người có ta! Tôi sẽ về Ý Yên đầu quân theo quan đốc học.
- Quan đốc học!... Có phải là quan đốc học Phạm Văn Nghị không?
Cai Cừ vẫn cứ gặng hỏi. Mặc dù biết đúng là người đã mộ được hơn năm trăm quân, mở cờ gióng trống, giáo mác, lương thực đầy đủ, tự mình sắm lấy, và đi qua đâu lại có cả các nho sĩ, dũng sĩ, con nhà khoa bảng gia nhập, và dân vùng đó quyên góp thêm tiền gạo để vào Nam đánh Tây ngay khi nghe tin Tây lại khởi hấn, bắn phá cửa Hàn. Nhưng khi vào được đến Huế thì nhà vua không nghe, lại đi điều đình, vừa nhận bồi thường chiến phí, cắt thêm đất cho Tây, vừa nhất quyết ra lệnh bắt các đạo nghĩa quân phải triệt thoát hết... A! Quan đốc học Phạm Văn Nghị người Nam Định ấy đã nuốt hận trở về quê... Nhưng nay lại khởi sự đại nghĩa! Cai Cừ thấy nức nở cả người, nhưng hỏi câu trên đây, cai Cừ vẫn làm như lần đầu tiên được biết chuyện, biết người nọ.
Ông bố anh một giai tráng đi bên ông cụ có người cháu gánh khoai môn, sắn dây và vai cày nặng cật lực nọ, liền giận dữ đưa mắt nhìn như lườm nguýt cai Cừ:
- Không phải là quan đốc học Phạm Văn Nghị thì còn là ai nữa! Đề đốc Lê Văn Trinh và án sát Tôn Thất Ba, bố chánh Phạm Văn Tuyển ở Hà Nội thì bỏ thành chạy trốn để mình quan tổng đốc Hoàng Diệu cầm cự, thế cô phải thắt cổ ở gốc ổi cạnh điện Kính Thiên. Cả tuần phủ Ninh Bình và tổng đốc Nam Định cũng bỏ thành chạy trốn. Riêng đề đốc Nam Định Lê Văn Diếm đã đốc quân bắn lại, quan tư Tây trúng đạn mà mình thì tử trận ngay trên đường thành, còn xuất đội cùng mấy người lính giữ súng thì bị bắt cho mấy tên dân "tà đạo" nhận diện, Tây cho đem chém. Riêng có văn quan và đã về hưu như quan đốc Nghị thì...
- Bởi vậy tôi mới nhất quyết chuyến này về Ý Yên đầu quân chứ! Còn cụ, nào cụ có dám cho thằng cháu đích tôn của cụ theo quan đốc học không nào?!!
- Dào ôi! Nhà tôi độc có mỗi mình bố nó thì bố nó lính âm đã bắt đi từ cái năm Thìn. Giờ còn được nó là gậy để chống để treo ở đầu đòn lúc tôi hai năm mươi, thì dù vẫn phải đi cày và phải đâm đầu lên rừng lên rú làm than, làm gỗ, sống cái kiếp khốn, kiếp nạn tôi cũng cứ phải bắt chước, noi gương các quan lớn đề đốc, tuần phủ trên Hà Nội chứ!
Tiếng cười rộ:
- Nhưng cả quan đề đốc, án sát, bố chánh và chư vị chánh lãnh binh Hà Nội đều bị già tỏa lai kinh cơ mà!
- Ối! Ối! - Nhiều người cười rú lên - Già tỏa lai kinh! Già tỏa lai kinh!... Dân phố Hà Nội người ta bảo lệnh vua bắt tất cả các ông này phải đeo xiềng nhưng các ông đều bỏ xiềng vào tráp, vẫn rong chơi ngoài phố rồi sau tất tật được miễn nghị!!!...
Anh giai tráng bẽn lẽn nói như chỉ để ông mình nghe:
- Bên sắn dây thì để nhà giã bột cho bà, cho mẹ con uống giải nhiệt mùa hè, hay trong xóm có bà con nào cần thì để lại. Bên khoai môn nhà nấu với cua ăn khi gặt lúa. Còn bốn chiếc vai cày ông đẽo, ông cho cháu bán hay đổi cho lò rèn ngoài chợ phủ lấy một thanh mã tấu, con tập với anh em...
Tuy cai Cừ lại giấu biệt cả chuyện vợ con và chuyện mình đã gặp cụ đồ Mốc, bác Ngọ và những anh em nghĩa dũng nổi dậy ở bên sông Cái, nhưng qua giọng nói, gương mặt và khí sắc con người của cai Cừ, đám người đi rừng về cũng thấy thân, thấy quý mến ngay. Đêm ấy tuy cái Cừ lại đau lại mệt, bác vẫn cố đi theo đến lúc trăng lặn. Rồi khi bọn đi rừng gọi cửa, đỗ gánh ở một nhà quen bên đường, đong gạo ngô xay góp nhau thổi cơm ăn, cai Cừ cũng cởi bao tượng định lấy gạo ra, thì mấy người đứng tuổi và ông cụ già một mực giữ rịt lấy không cho góp... Đã lâu lắm cai Cừ lại ăn một bữa cơm nóng sốt và món rau lang luộc đánh giấm mẻ ngon miệng như thế, và cũng lâu lắm cai Cừ mới ngủ thẳng một giấc phải có người đánh thức mới dậy.
Cai Cừ lại nằm mơ thấy đủ cả vợ con. Cai Cừ cùng vợ con lên Yên Thế thăm bà cụ đồ Mốc và bác Ngọ gái, chú cháu ông phó Thêu, Thơm.
Cai Cừ chuyện rất nhiều với Thơm rồi cùng Thơm và những giai tráng đang rèn dao, đánh gươm, ngày đem luyện tập rầm rập trong rừng, trên các bãi đồi, và ở cả sân đình, xóm ngõ của mấy làng trù phú mà nhiều buổi tập xong, anh em lại kéo nhau sang vùng bên thi đấu rồi ăn uống với các giai tráng ở đây.
*
* *
Một vầng chính khí lưu hình
Khoảng trong trời đất: nhật, tinh, sơn hà
Hao nhiên ở lại người ta
Tấc vuông son sắt, hiện ra khi cùng
Hơn thua trong vận, truân phong
Nghìn thu để tiếng anh hùng sử xanh.
Tiếng trống nhịp theo câu hát, người hát là một bà lão mù, đầu trọc, gầy như con mắm, áo rách, yếm vá, váy cộc. Còn trống là thứ trống bỏi, bưng có một mặt, gõ bằng hai dùi nhỏ, kêu tung tung. Không chiếu ngồi, không chậu thau, bà cụ hát dưới một cây bàng cổ thụ, lá xếp từng tán từng tán, từ gốc lên quá chạc ba nổi nhiều mấu trông như những hưởu, những u, những gồ của các thú vật cổ quái. Đây không có hàng quán gì cả, mặc dầu bến đò ở giữa ba huyện giáp nhau mà người ta bảo gà chỉ gáy một tiếng thì cả ba tỉnh đều nghe thấy. Lối lên xuống gồ ghề, khá dốc, bậc kê đá hộc, khi nước rút hay mùa cạn thì lởm chởm như một sườn núi, sườn đồi.
Có quan tổng đốc Hà - Ninh
Hiệu là Quang Viên trung trinh ai bằng
Lâm nguy lý hiểm đã từng
Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm
Thôn Hồ dạ vốn nhăm nhăm
Ngoài tuy giao tiếp, trong căm những là
Vừa năm Nhâm Ngọ tháng ba,
Sáng mai mồng tám bước qua giờ Thìn
Biết cơ trước đã giữ gìn
Hơn trăm vũ sĩ vài nghìn tinh binh.
Tiên nghiêm lên đóng trên thành
Thệ sư rót chén rượu quỳnh đầy vơi
Văn quan vũ tướng nghe lời
Hầm hầm xin quyết một bài tận trung.
Có năm đồng tiền kẽm đưa vào tay bà lão khi bà vừa dứt tiếng hát mà tiếng trống vẫn ngân. Một bọn mấy bà gánh ngô khoai mua ở chợ Thắng sang bán chợ Nỉ. Mấy bà gánh trầu vỏ buôn ở chợ Hà Châu về bán các chợ dưới, ngồi chờ đò, bảo nhau kẻ cho một đồng tiền, kẻ hai đồng tiền. Hai bà khác, vốc hai lẻ ngô bỏ vào bị cho bà cụ.
Ra oai lệnh xuống vừa xong
Bỗng nghe ngoài đã ầm ầm pháo ran
Tiêm cừu nổi giận xung quan
Quyết rằng chẳng để chi đàn chó dê.
Bọn đàn ông đi rừng về đỗ gánh giở cơm nắm ra ăn sau gốc cây, có người ngoái lại nhìn, mắt chớp chớp rồi đăm đăm hẳn bộ mày rậm, có người đang nhai thì ngừng nuốt nuốt như nghẹn miếng cơm.
Lửa phun súng phát bốn bề
Khiến loài bạch quỷ hồn lìa phách xiêu
Bắn ra nghe chết cũng nhiều
Phố phường trông thấy, tiếng reo ầm ầm
Quan quân đắc chí, bình tâm
Cửa Đông, Cửa Bắc vẫn cầm vững binh
Một người vừa nhai, vừa bẻ khoanh cơm, nhồm nhoàm nói:
- Đấy! Đấy! Mình đánh lại quân Tây mạnh đấy chứ!
Tới đây, giọng hát tuy khàn khàn và run có lẽ vì yếu, vì mệt nhưng nghe náo nức hơn và được thêm khách nghe tán thưởng.
Chém cha cái lũ hôi tanh
Phen này quét sạch sành sanh mới là
Nào ngờ thất ý tại ta
Vẫn rằng thẳng trạng, hóa mà thua cơ
Nội công phải những bao giờ
Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theo.
Cả bọn người chờ đò đều có tiếng xuýt xoa.
Quan quân sợ chết thảy đều
Thành Tây, Bạch quỷ đành liều trèo lên
Nào ai cơm áo đốc đền
Nào ai cầm vững cho bền ba quân
Nào ai còn chí kinh luân
Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?
Tiếng một cụ chậc chậc lưỡi. Cụ đứng dậy, cầm non nửa nắm cơm cắt định để lại, đến bỏ cả vào bị bà cụ mù.... Ở một mô đá gan gà gần chỗ bọn đàn ông có một trai tráng vai rộng, lưng dày, vóc người trằm trẵm, mặc áo nâu may rộng, quấn khăn nâu cũng lắng nghe từng câu hát, nhưng mặt vẫn hướng về phía nam. Cặp mắt quăm quắm của anh đôi lúc như có chớp ánh của một hình ảnh hay ý nghĩ gì mà tâm trí anh bất chợt. Cái khăn gói trước gối anh tuy nhỏ nhưng chắc nịch. Còn bó bao cói thì hằn những cạnh của những thanh thép, thanh gỗ buộc dài như vác mía.
Chợt anh cúi cúi đầu xuống, mím mím môi rồi đảo mắt trông bà lão mù đoạn thở dội một tiếng tựa một mãnh thú phì hơi, vì nén nhịn đã hết mức một sức mạnh gì kìm hãm trong người.
"Đúng bà lão ốm yếu mà chú cháu ta cùng mấy bọn chạy đói và trốn tránh lên phủ Quốc Oai vào nhà ngủ đỗ, rồi cả chú ta và ta cùng thằng trương tuần bị bắt bị khảo năm xưa đấy! Mười hai năm chứ đến hai mươi hai năm hay năm mươi hai năm hay đến lúc ta gần chết, ta cứ phải nhớ, ta không thể nào lầm lẫn. Vẫn cái đầu trọc như sọ dừa, vẫn cái khổ mặt và hốc mắt, vẫn cái hơi cái tiếng thế kia? Nhưng gia cảnh như thế nào, tao loạn như thế, làm sao bà cụ vẫn sống được? Mà làm sao bà cụ lại lên tận đây, lại còn sức đi hát xẩm? Ai đưa bà cụ lên? Bà cụ!... A thằng Bờ cháu bà cụ... Thằng Bờ!...".
Để mọi người xuống đò và mặc mọi người tưởng rằng mình còn phải chờ đợi ai hay có việc gì phải lại, Thơm chập chừng đến chỗ bà cụ. Thơm chưa kịp ngồi xuống và cất tiếng hỏi, bà cụ đã quơ quơ tay lên, nét mặt vừa sửng sốt, vừa mừng rỡ.
- Bà ơi! Cháu hỏi thế này không phải, bà ở bên Sơn Tây sang đây phải không?
- Anh nào đấy? Anh nào mà lại biết tôi ở bên Sơn Tây đấy?
- Bà à... - Chưa bao giờ Thơm lại thấy ruột gan quặn thắt như thế vì lại phải chợt nghĩ, phải nhắc tới người chú đã khuất và biết bao tao đoạn của hai chú cháu lang thang, lẩn lót hết nơi này sang nơi khác - Bà à... cháu... cháu là... bọn ngủ đỗ nhà bà cái đêm...
Bà cụ chớp chớp mắt, rồi gương mặt đờ ra, cả người run rẩy, giơ hai tay đón đón níu níu lấy người Thơm:
- Giời đất! Thiên địa! Anh... cái anh... và ông chú... Có phải là cái anh...
- Bà ơi! - Thơm càng phải như nghiến như nuốt cho tan sự đau nghẹn trong cổ họng... - Bà sang đây bao lâu rồi, bà ở với ai, bà ở đâu?
- A... à... - Bà cụ nấc nấc, yết hầu giật giật, nước mắt ứa ra lã chã - Tôi... tôi ở với giời, tôi ở với đất!... Còn anh với ông chú, có kẻ thì bảo bị bắt bị chết chém, kẻ thì kháo rằng vượt được ngục trốn lên rừng rú biệt hẳn tăm hơi, vậy sao lại còn ở đây? Vậy thì ông lão nhà ta đâu?
Thơm lấy khăn thấm thấm và lau lau mặt cho bà cụ:
- Cháu sẽ kể nhiều chuyện với bà, cháu mời bà về chơi nhà vợ chồng cháu... Bà à! Thế anh cháu, anh cu Bờ... bỏ nhà đi ra tỉnh rồi có về với bà không? Bây giờ ở đâu?
- Nó đi theo bố nó rồi còn gì.
Thơm lạnh rợi cả người thấy bà cụ vừa như cười như mếu. Thơm nắm nắm bàn tay khô róc trơ những đốt những cục xương:
- Anh cu Bờ chết bệnh gì hở bà?
- Nó chết trận! Nó chết trận năm kia! Trận ta bắn chết cái thằng quan to Tây nhất Hà Nội! Tôi chỉ được tin mấy người quen cho biết thế thôi. Tôi có hỏi chôn nó ở đâu, thì đều bảo tôi đừng bận tâm, dân làng gần đấy đã cất mộ cho nó cùng với nhiều người tứ phương thiên hạ chết trong trận ấy và lập cả miếu thờ nữa...
"Cũng như ông đồ Mốc! Cũng như bác Ngọ giai".
Thơm siết tay bà cụ, nhủ thầm. Trong tâm trí bỗng sôi lên không biết bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu ý nghĩ.
Thơm đi theo bà cụ Bờ vào trong xóm gần đấy.
- Phải, tôi ở nhờ ngôi chùa ấy! Sư cô tu với sư bà ở đây là cái cô con gái ông cụ cùng ngủ đỗ với ông nhà ta và anh ở nhà tôi đêm ấy mà!
Chưa xuống khỏi dốc, bà cụ đã bảo ngay Thơm lối rẽ vào nơi mình ở. Thơm vẫn dắt tay bà cụ:
- Thế ông cụ cô sư ấy chết rồi ư và chết sớm nên côđi tu.
- Không, ông cụ vẫn còn. Chả là ông cụ ép cô ta làm ba hay làm tư gì ấy cái thằng đội lệ bên Bắc Ninh lấy có hơn trăm quan tiền. Cô ta về với thằng này được hơn năm thì bỏ nhà trốn lên ở với sư bà chùa đây.
Thơm sực nhớ:
- Thế là cô em?
- Cơ khổ, cô em phải thế vào cho cô chị. Thằng kia nó cho thêm ông bố đâu năm chục quan tiền. Mấy năm ở với nó mới được một mặt con, thì nó bị quân ta chém suýt chết trong trận Tây đuổi bắt quân ta lẻn đốt cháy nhà ngựa trong thành ấy.
Ngôi chùa cách xóm một bãi tha ma, giữa một vườn vải um tùm như rừng. Chung quanh chùa đã bao một hàng tre gai kín mít lại còn một lớp xương rồng dày, nên ngay người đứng ngoài trông vào cũng khó thấy cảnh bên trong, ngoài hai hàng tháp mộ những vị sư đã tịch, xây vừa cao lại quét vôi trắng. Đã ba con chó thiến lại một đùm chó mẹ con chạy hồng hộc xồ ra khi bà cụ và Thơm sắp đến cổng ngách. Một cô tiểu gầy nhom, đứng sững, vì thấy lạ lùng quá đỗi, là bà cụ hôm nay sao lại về sớm thế này, nhất là lại đi cùng với một người đàn ông và là giai tráng ăn vận tươm tất, mặt mày rạng rũa, ít thấy giai tráng nào được vẻ người như thế.
Chỗ bà cụ ở như một cái miếu - đúng một cái miếu bỏ hoang - ở góc vườn, mái lợp cỏ tranh, tường đất chõng tre, bếp đun ngay cạnh góc cửa và có một cỗ hậu sự ở phía trong, bên trên có mấy cái bị, gói mo, hũ sành, lọ sành.
- Kìa bà ơi! Bà lấy gạo nếp làm gì thế? Mà sao lại lấy nhiều thế?
Bà cụ như không nghe thấy Thơm hỏi, lẳng lặng dốc dốc thêm mấy lẻ gạo ở trong hũ ra cái rá con, rồi cúi lấy ở gầm chõng ra một củ cẩm.
- Tôi làm bữa, anh ăn ở đây đến chiều rồi có đi đâu hẵng đi.
Bà cụ lại dốc ở hai cái lọ mấy lẻ cá tép khô và hành khô ra cái bát sành. Thơm không thể nào ngăn giữ và cũng không thể nào ngồi yên được nữa. Thơm phải đón ngay rá gạo và bát cá tép:
- Thì bà đã cho con ăn cơm, con phải ở lại ăn, bà để con thổi nấu cho.
- Anh cứ mặc tôi!
Thơm gỡ tay bà, đem rá gạo ra vo với nước ở cái lọ to để dưới gốc cau có hai tảng đá kê một chậu sành cũng rạn sứt phải đặt nghiêng tựa vào cạnh lọ. Khi nấu Thơm đành phải nghe bà cụ nấu ở trong nhà mà chỉ đi nhặt thêm những cành rào mo tre khô để thành đống bên cạnh bếp. Cô tiểu còm nhom đã lên trên vườn quét lá nhưng vẫn chòm chõm trông xuống nhà bà cụ, càng thấy lạ, và càng băn khoăn nghĩ ngợi rằng anh chàng đây nếu không phải là cháu ruột bà cụ thì cũng là cháu họ, vậy sao bà cụ không hề nhắc đến cả những khi chuyện trò với sư cô, và sao đến bây giờ anh chàng mới tìm đến bà, đến bây giờ bà cháu mới gặp nhau?!! Rồi giả thử anh chàng ở lại đây với bà cụ vài ngày, sư bà có cho phép không? Mà cho phép thì xếp chỗ nằm ở đâu? Hay bà cụ lại nói xin với sư bà cho làm hẳn gian nhà để bà cháu ở, sư bà có cho làm không? "Ừ nếu thật có cháu ruột mà lại là cảnh côi cút - côi cút và nghèo đói bơ vơ như mình ấy! - thì bà cụ nên nói với sư bà cho cháu ở đây với bà cụ để bà có cháu, cháu có bà, mà nhà chùa có người đàn ông cũng đỡ vắng, đỡ sợ!!!".
*
* *
... "Chú thím mặc tôi! Tôi ngồi gượng được mà... ấy ấy, cứ để cả cái đòn kê ấy cho tôi tựa!".
Bác Ngọ gái vẫn nâng hai cánh tay ông phó Thêu và nâng nâng cho ông ngồi sát nữa vào đống chăn. Bác bảo chồng:
- Kìa bố nó đem thuốc lên cho bác. Có rót thì rót ra cái bát mẫu tôi úp ở trong chạn và khi rót thì nhớ thổi cho sạch bụi bám ở cả miệng lẫn vòi siêu thuốc nhá!
Lưng cõng thằng cu lớn tướng, tay bưng bát thuốc hơi thơm nghi ngút, bác Ngọ giai vừa bước qua bậu cửa, thì bác Ngọ gái đã giằng lấy thằng con:
- Cứ bảo con hư tại mẹ! Cứ cái kiểu này thì tại...
- Tại bố ố ố ố cũng được.
Bác Ngọ giai phải nghiêng người để thằng con tụt xuống với mẹ khiến cả ông đồ Mốc và ông phó Thêu đều cười. Nheo nheo mắt nhìn ông phó Thêu, ông đồ Mốc thấy vui vui nhưng bồi hồi trong dạ:
- Ông cụ cứ vẫn tỉnh. Trông thần thái và nghe tiếng ông cụ nói thì thầy lang nào dám bảo ông cụ...
Ba hôm nay ông phó Thêu chỉ nhuốt mỗi lần không hết được môi cháo, rồi lại nằm thiếp đi. Người đã gầy yếu hàng bao nhiêu tháng, rồi chỉ nhón nhén được tí nước cho có hơi ngũ cốc vào trong người và cố uống lấy nửa bát thuốc, nên ông càng hốc hác, lúc ngủ trông càng lịm đi, tưởng chừng chỉ vài khoảnh khắc nữa là qua... Nhưng năm hôm nay, ông cụ lại tỉnh, lại đòi ngồi dậy, từ hôm vợ Thơm đẻ con trai. Rồi hôm nay đầy cữ thằng cu Trọng, bên nhà ông khán Tích lại làm cơm cúng mụ cho nó, và trưa nay ấm áp, bà khán Tích và mấy bà bên ấy sẽ đưa nó cho ông xem mặt, thì ông càng thấy như mình sắp khỏi các chứng bệnh. Mà kìa nó đã về với ông! Thằng bố nó và các bà đang vào sân, cười nói râm ran... Ông phó Thêu thở hức hức, chống hai tay xuống chiếu như định nhổm lên mà đón thằng cháu của ông, thằng cháu đích tôn của cả dòng họ Trương nhà ông.
Thơm cứ đứng sau bọn các bà. Khi bác Ngọ gái cười rích rích, dẩy dẩy Thơm, cố tình bắt Thơm đến trước giường ông phó Thêu cùng bà khán bế thằng con của mình, thì Thơm thấy người như nghẹn. Ông phó Thêu cứ nhoài nhoài, bò bò, chẳng cần ai vực, ai đỡ, ra tận mép giường.
- Chú Ngọ ơi, chú cho tôi ba nén nhang nào.
Bác Ngọ giai cũng nghẹn ngào:
- Thì bác cứ để tôi thắp cho.
Tuy nói nhưng bác vẫn lấy ở ban thờ ba nén hương đưa ông phó Thêu.
Phều phào ông phó Thêu gọi Thơm:
- Thơm ơi! Thơm ơi! Này... này... mày cắm lên ban thờ cho ta!
Để bác Ngọ giai châm lửa, ông phó Thêu run rẩy đưa ba nén hương cho Thơm, sau một lúc lẳng lặng, đầu cúi cúi, nước mắt dàn ra, và như chỉ thở bằng mỏ ác với những tiếng nức nở.
- Được rồi! Được rồi! Đưa thằng Trọng, thằng Trương Văn Trọng cho ta, Thơm à... bố thằng Trọng à...
Bà khán bế cái hòn máu đỏ hỏn nọ đến, giơ lên trước mặt ông chú Thơm. Ông phó Thêu nhổm lên hập miệng vào háng thằng bé, bú bú cái mẩu thịt thây lẩy hoi hoi rồi cứ thế lả đi, gục xuống cái đùm vải cũ quần áo của mấy cụ thọ nhất xóm xin về làm tã, mà nhắm mắt.
... Đúng giờ Ngọ. Mảnh sân đất trắng lóa. Những khóm chuối những chòm mít, chòm vải thiều rào rào như mưa nắng. Những đàn chim vành khuyên líu ríu và hai con chim học trò ở đâu đến hót gọi nhau vang lảnh cả khu vườn, cũng như hôm nay, phải cùng trời nắng như hôm nay mà Thơm đang trông ra ngoài trời, qua bếp lửa cháy líu díu và hơi cơm nếp tỏa sực.
Bà cụ lấy cái mẹt cất trên bờ tường, vỗ vỗ thật kỹ, để làm mâm dọn cơm. Đã có cá tép chưng với mật mỡ, lại còn muối vừng, lại còn dưa cải bắp muối xổi... có bao nhiêu thức ăn đựng trong những lọ, những niêu ở cạnh chỗ bà cụ nằm, đều lấy ra ăn hết.
- Anh ăn đi... - Bà cụ cứ giằng lấy bát của Thơm mà đơm. - Tôi mà còn sống được đến hôm nay gặp anh, ăn bữa cơm này... Anh ăn đi... Không có cái bát cháo của vợ chồng bác gì người Khoái Châu ngủ đỗ nhà tôi đêm ấy, thì tôi làm sao sống được đến hôm này. Không biết vợ chồng con cái nhà bác ấy bây giờ ở đâu? Anh ăn đi... Ông cụ nhà ta mất đã giỗ đầu? Con mẹ cu nhà anh tốt sữa đến thế cơ à? Sữa thừa vắt cho cả chó con của nhà bú?... Anh ăn đi... Tôi cứ nghĩ đến ông cụ nhà và anh bị bắt giải lên phủ Quốc Oai, cái đêm nhà vợ ba quan tri phủ bị cướp bị phá ấy, thì thấy thật khó mà sống được!... Anh ăn đi...
Cơm nếp thổi như xôi, củ tím chín mịn, lại còn vừng rang... Thơm đón những bát cơm, nghe bà cụ nhẩn nha nhắc lại các sự việc và kể thêm bao nhiêu chuyện, nhất là những chuyện về Tây hạ thành Hà Nội năm ngoái, càng thấy trong lòng thêm dào dạt.
- Anh uống nước, ngồi ngơi một lúc nữa, thế nào đến chiều cũng sang bên ấy, đi đâu mà vội!
Nước vối nấu xong, bà cụ cũng rót đưa cho Thơm. Uống thêm bát nữa, Thơm toan đứng dậy, bà cụ lại kéo tay mà lần này thì bà cụ lại làm Thơm thấy không biết phải xử sự thế nào đây. Bà cụ lật chiếc chiếu gối đầu lên, kéo ra một túi vải nâu đã thắt dải cạp lại còn chằng dây gai:
- Đây, cái này của ông nhà, tôi giữ mãi đã tưởng...
Chỉ nghe bà cụ nói đến nửa chừng, và nhìn bà cụ rút ra một cuộn vải đỏ đỏ, Thơm lạnh cả người và phải hết sức trấn tĩnh mới ngồi yên chỗ.
- Vuông khăn này của ông nhà, con vợ thằng trương Oẳng nó đã định cắt may áo cho thằng con nó, nhưng san nhà hết gạo, thằng trương Oẳng thì chết rũ tù, mẹ con nó đi ăn mày, phải đem ra ngoài này đổi lấy gạo, tôi hỏi nó có phải của bọn ngủ đỗ nhà tôi không, thì nó ngượng, nó chối. Tôi đoán ngay là vuông khăn của ông nhà, vì nó bảo vuông khăn có chữ Nho mà người ta bảo chữ viết đẹp hơn cả hoa, không phải chữ của tiến sĩ thì cũng là chữ của cụ nhân, chứ người thường không thể viết được như thế, mà trong bọn chỉ ông nhà mới có cái khăn ấy. Chả thế mà mấy người cứ đòi mua.
Thơm nhìn vuông vải điều. Chao ôi, vuông vải của ông nội Thơm bịt đầu để lại cho bố Thơm, cho chú Thơm, tuy chú Thơm không nói rõ sự tích của nó ra sao, nhưng Thơm cứ phải thấy nó còn quý hơn cả mọi thứ ngọc châu, giữ gìn nó cũng như chú Thơm đã giữ gìn vậy. Chả thế mà Thơm đã suýt chết vì nhất định lấy lại nó, ở nhà thằng trương Oẳng, mà bị sập xuống hố cạm chó, cầy cáo của nhà trương Oẳng!... Chắc đã phải giặt, phải phơi nhiều lần, nên màu vải điều và chữ nghĩa viết bằng mực tàu đã phai bạc, nhưng chỉ thoáng trông qua, Thơm cũng phải thấy ngay nó là của mình, đúng nó, chính nó là của mình.
- Phải chăng có cả thiên định trong việc của ta này?
Thơm chưa cầm vuông vải vội, mà hỏi ngay bà cụ:
- Bà ơi! Mấy người đòi mua vuông khăn của ông nhà cháu là ai thế?
- Mấy thầy khóa, mấy ông đồ và cả mấy thầy trò ông gì cũng như thầy trò ông nhà ta ấy!
Thơm uống nốt bát nước lá vối ủ chế thêm hoa hương nhu của bà cụ rót. Bây giờ đến lần bà cụ thấy nghẹn ngào vì phải suy nghĩ cách đối xử thì Thơm vẫn không đứng dậy, nhưng lại nắm tay bà cụ mà nói:
- Thôi bây giờ bà cho phép con đi. Vậy khi nào sư cô ở đây lên trên con khuyến giáo thì bà đi cùng, bà đã bảo như thế con cũng xin vâng. Nhưng thế nào bà cũng phải lên sơm sớm để ăn giỗ đầu ông con. Còn nén bạc của con đây, bà giữ lấy... bà giữ lấy... bà giữ cho con... để khi nào...
Bà cụ ngẩng mặt lên mà cười với Thơm:
- Của anh cho tôi, không cần phải vàng ròng, bạc nén, một chục hay một trăm quan tiền đồng, mà chỉ một đồng kẽm thôi cũng quý! Nhưng... để khi nào tôi... tôi đã có cỗ hậu sự kia... Còn lo liệu... thì đã có sư cô, đã có nhà chùa đây... Vả lại tôi còn đi đây đi đó hát được, thiên hạ còn có kẻ cho đồng tiền lưng cơm, thì tôi không lo đói... Ấy! Từ ngày tôi về đây, chỉ hát ở bến đò này, mà sắm được cỗ hậu sự ấy!...
Bà cụ và Thơm ra đến cây đề trước cổng chùa thì hai sư cô vừa về. Cô dong dỏng cao, gầy gò xanh xao nhưng mắt sáng như nước, sững sờ hết sức. Càng ngạc nhiên hơn, là cô nhận ra Thơm, cái thằng "cháu" ông ấy. Đúng cái thằng cháu ông ấy đã lấy lại cho tất cả tiền gạo, quần áo của bọn nhỡ độ đường ngủ đỗ ở nhà bà cụ Bờ, nghe nói bị bắt lên phủ, bị khảo và giải vào kinh xử chém cả hai chú cháu vì tội làm giặc! Còn Thơm thì ngạc nhiên vì nhận ra vẫn người con gái có đôi mắt sáng như nước nọ và tuy quần áo nâu sồng nhưng thật là xinh đẹp với một vẻ khổ hạnh khác thường.
- Mô Phật!
- Mô Phật!
Cả hai đều cúi mặt và không nhìn Thơm, khi bà cụ Bờ lên tiếng gọi và Thơm đứng né ra bên đường chăm chắm nét mặt.
*
* *
Ở Lập Thạch từ nhà ông Đạo về Đa Phúc đến nhà vợ chồng bác phủ Khoái, Thơm đi như chắp cánh. Tất cả ông già bà lão và bà con hàng xóm nghe Thơm kể chuyện cụ Bờ và bà cụ Bờ vẫn còn sống, ai nấy cũng sồn sồn bảo phải sang ngay Bắc Giang chơi với bà cụ rồi phải đón bà cụ sang chơi nhà mình không một tháng thì cũng hàng tuần. Vợ chồng bác phủ Khoái thì cứ nước mắt ngắn nước mắt dài, dặn đi dặn lại Thơm lúc về thế nào cũng phải ở lại với bà cụ và thịt ngay con gà của đôi gà vợ chồng bác thiến sót để bà cụ ăn vã rồi nếu bà cụ ưng ý thì vợ chồng bác đón bà cụ lên ở hẳn với vợ chồng bác.
Thơm bàn thêm công việc mới với ông Đạo và khẩn khoản nói với ông Đạo đôn đốc các giai tráng ở đây chịu khó luyện tập và nơi đâu có sắt thép tốt thì dù giá đắt thế nào cũng phải mua trữ ngay. Đào nhất định cứ đi tiễn chú Thơm. Thằng bé gầy nhưng đanh quánh, mắt xếch, tóc để hồng mao trông càng thêm tợn tạo. Nó như con sóc, bên cạnh Thơm và hai anh giai tráng theo sang Yên Thế chơi để biết cảnh biết người. Tuy Thơm hết sức chối từ, nhưng vẫn phải nhận mấy chục túm chè của các bà con cho và hai bó lá nón mà anh giai bạn nằn nì gánh đỡ tất cả.
Cả thằng Đào cũng sang Yên Thế. Trước nó còn đáp lời, sau nó li ra, mặc kệ Thơm và hai giai tráng hàng xóm khuyên nhủ can ngăn. Không những nó cứ ton ton chạy trước mà còn xông xáo vào bất cứ bãi rậm, rừng cây, vườn hoang, đình chùa nghè miếu nào lạ lạ ở dọc đường, khiến nhiều lúc bọn Thơm phát hoảng, tưởng nó lạc, hay có sự gì bất ngờ xảy ra chăng? Qua sông, đi vào xóm chùa bà cụ Bờ ở, thì đúng là nó dẫn dường, tuy chỉ nghe Thơm kể chuyện.
Lần này bà cụ Bờ đưa cả bọn Thơm lên chào sư bà. Thơm mua hai bó to hương trầm và hương đen, chọn năm túm chè mạn thơm nhất, để bà cụ làm lễ thắp hương. Tuy cả hai sư cô cứ chúi dúi trong buồng, nhưng cô nào cũng cố ý nghe và liếc trông bọn Thơm chuyện với sư bà... Tới lúc cả bọn xuống nhà bà cụ Bờ và tíu tít làm gà, đãi gạo, gọt khoai và bà cụ Bờ mặt mày nở nang cứ như hoa và líu ríu chuyện với thằng Đào, một câu bà, hai câu cháu, không ai không bảo là bà cháu ruột, thì cả hai đều khúc khích cười, còn cô tiểu còm nhom càng thân mật ra có vẻ thèm thuồng và nghĩ ngợi lắm.
Sư bà phải nhận đĩa xôi của bà cụ Bờ bưng lên, và cho lại bọn Thơm hai bát lạc, năm bìa đậu phụ và lưng đấu rá đỗ nhà chùa vừa làm, vừa ngâm xong để mai các vãi, các cụ bà trong làng ra cúng tuần rồi ăn cơm chay... Xế trưa, bọn Thơm mới ra đi và đi lối cổng tam quan. Hai con chó thiến dữ là thế, chẳng những không sủa không rồ gì cả, mà còn ve vẩy đuôi chạy theo tới cổng.
Trước quan võ hiển khâm sai
Sau quan tổng đốc một vài mà thôi
Ngoài ra võ giáp văn khôi
Quan, bào, trâm, hốt nhác coi ngỡ là
Khi bình làm hại dân ta
Túi tham mở rộng chẳng tha miếng gì
Đến khi hoạn nạn gian nguy
Mắt trông ngơ ngác, chân đi ngỡ ngàng...
Nghĩ đến nén bạc mà bà cụ Bờ nhất định không nhận, bảo Thơm phải đem mua sắm và chi tiêu cho các việc lớn, Thơm càng nao nao trong dạ và càng thấy tiếng trống, tiếng hát trên đây lại vang rung. Trên những bãi đồi cỏ thanh hao, vắng ngắt, những đôi sẻ đồng luôn luôn chao cánh, lấp loáng lấp loáng với những tiếng hót như nhạc như sênh tiền rung giữa trời... Thằng Đào con vợ chồng bác Khoái Châu cho làm con nuôi ông Đạo lại lon ton chạy trước. Cái thằng Đào năm nào mẹ phải nhờ anh Nôm cõng và cũng suýt chết đói kia nay tranh lấy quẩy khăn gói bao tượng của Nôm và của cả Thơm nữa, Thơm càng vui chân hơn.
Võ như đề đốc Lê Trinh
Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn
Đang khi giao chiến ngang tàng
Thấy quân hầu đỡ vội vàng chạy ngay
Nghĩ coi thật đã ghê thay
Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho
Thế mà nghe những mơ hồ
Rằng quan đề đốc dưới hồ Cửa Tây!...
Đúng là bà cụ Bờ đang hát. Lại ngồi dưới gốc cây bàng, trên cái mô rễ to như lưng con rùa thờ, bà cụ ngẩng mặt như để trông cả trời cao xanh, cả mây trắng bay, cả chim sẻ đồng giao cánh và trông theo cả bọn Thơm mà hát, hai tay gõ tung tung mặt trống, xinh ngọt như một cô đào hát trước cửa đình ngày làng đóng đám, mở hội.
Kìa, Tôn thất Bá niết công
Kim chi ngọc diệp vốn dòng tôn nhân
Đã quốc tộc lại vương thần
Cung nên hết sức kinh luân mới là
Nước non vẫn nước non nhà
Nỡ nào bán rẻ một tòa Thăng Long...
Kẻ củ khoai, kẻ vốc ngô, vẫn mấy bà đi chợ vã và mấy người đi rừng về đến bỏ vào cái bị để bên gối bà cụ Bờ với những đồng tiền kẽm mà họ chọn từng đồng một, đồng nào cũng thật lành, thật dày, thật mới...
*
* *
Bác Ngọ gái vẫn cứ cái váy cộc, cái yếm, cái áo rách vá, đầu thắt khăn xô, cõng thằng cu dài nghêu đến chỗ cai Cừ và bọn Thơm ngồi uống nước, toe toe nói:
- Cái lão Ngọ ấy chết thiêng lắm! Y như đêm nào tôi nằm mơ thấy lão về là có chuyện. Chả thế mà đêm qua, tôi đang ngủ bỗng giật mình, tôi đã vằng tay, nhưng mở mắt nhìn tưởng ai hóa ra lão ta. Lão ta lấm như ma chôn ma vùi, tay cầm cuốc, tay cầm một gốc sắn mới đào, có bốn củ, củ nào cũng to như cái chầy ấy, giục tôi đi luộc bảo nhà có khách... Thì đúng là hôm nay cả thằng bố dái Thơm và các anh ấy ở bên Vĩnh An về!... Thôi nào để tôi đi luộc sắn nhé!!!
Chỉ nghe thêm mấy câu nói xởi lởi và nhìn nét mặt đôn hậu tươi bưởi như của một người không có tang tóc và chẳng túng thiếu gì cả, cai Cừ cũng đã thấy bớt hẳn đau buồn. Bác bóc phong bánh khảo, đưa hai miếng vào tay thằng cu nhà Ngọ và một miếng cho thằng cu nhà Thơm, cười:
- Sắp bữa rồi, luộc sắn ăn trừ bữa à?!!
Bác Ngọ gái dau dảu:
- Nhà tôi hết gạo rồi! Bữa nay thì để nhà mẹ dái Trọng nó mời. Nhà nó lại vừa đi soi được đêm qua hai con cá to đem nướng còn để dành kia kìa!
Mọi người cười ran. Để thằng con mình ngồi chơi với thằng cu nhà Thơm và thằng cu con cai Cừ, bác Ngọ gái vác cuốc ra ngoài bãi để xới nốt mấy luống khoai lang rồi mới chạy vào nghe chuyện.
Các chuyện và sự việc cai Cừ nói với Thơm dù chỉ mới có một phần, và có nhiều tình ý cai Cừ ngập ngừng không muốn hết lời, càng làm Thơm phải trấn tĩnh thêm để suy tính. Còn cai Cừ hơn tháng nay đã ở hẳn trên đây, tuy càng thấy vui trong dạ nhưng được Thơm cho biết quân Tây sắp lấy cả tỉnh Bắc Ninh và còn lấn cả lên Bắc Giang nữa, mấy huyện trên đây sắp mất đến nơi rồi, thì càng xót xa và cũng rất đỗi bồn chồn...
Cho tới gà gáy lần thứ hai, Thơm vẫn nghe cai Cừ nói chuyện. Đôi lúc thằng cu nhà cai Cừ xoạc chân gác cả lên ngực, lên mặt Thơm, Thơm cũng để yên vì sợ những suy nghĩ, tính toán trong đầu bị gián đoạn. Cả lúc vợ Thơm bỏ con ngủ một mình, xuống bếp xay thóc ù ù, mặc thằng này luôn luôn khóc mê nhê nha gọi mẹ...