Chương XIII
Giữ cho tôi con vàng nào! Nó mà sổng bây giờ thì mất toi thôi!
- Giời ơi! Lúc này còn vui thú cái gì mà chúng mày còn tranh nhau những con khăng ấy!
- Khốn khổ khốn nạn! Ông để tôi gánh cho, lại phát ho phát hen lên rồi!...
Những đám người gồng gánh, tay xách nách mang, con bồng con dắt, ông già bà lão, lếch thếch ấy, qua đò sang khỏi sông Cầu lại càng hối hả. Quân Tây từ bên Hà Nội đã sang lấy thành Bắc Ninh và kéo lên đông cả Bắc Giang rồi. Đi theo quân Tây, không phải chỉ có những thông ngôn, ký lục trong Nam, mà có đủ lệ bộ những quan trong triều đã hàng phục và đi theo quan nào quân lính cũng như hùm như beo, rượu chè be bét hơn cả quân Tây, còn quan nào cũng hết lòng hết sức lấy lòng Tây, chỉ dẫn Tây đi triệt hạ các làng các nơi bất phục, truy lùng những người bất phục. Đã thế, những bọn nha lại nghiện ngập, sâu mọt, nhân dịp này lại càng ra sức bới việc mọi chuyện, để lập công cán với Tây, báo thù trả oán những nhà, những người trước đây có hiềm với chúng.
- Tao chết đâu thì chết! Chứ không thể ở lại cái đất cổng Hậu này với cái thằng nho Quán chuyên ăn bẩn ấy được!
Một cụ đồ già có độc cô con gái, khặc khừ chống gậy vừa đi vừa nói. Trong bọn ông cụ, có hai cụ bà và một người đứng tuổi có các con đi theo quân ông Nguyễn Cao đương bị truy nã, nghe bố con ông cụ chuyện với nhau, càng thấy thâm gan tím ruột. Một bà cụ địu cháu khóc nhèo nhẽo trên vai, gọi con dâu đi trước:
- Mẹ nó à! Thằng nho Quán nó lại cho người đến hỏi mua cây gỗ mít của nhà ta đấy à? Cái thằng này rồi cũng đến như cái thằng đội lệ bên Gia Lương, bị nghĩa dũng đâm chết thôi!
- Thôi! Thôi! Đến quán hàng ở đầu đê kia thì phải cho các con ăn cơm thôi!
- U ơi! U ơi! Con không cõng cái bé nữa đâu! Con quái này nó cứ ưỡn người ra, quẫy quẫy, chỉ lại đòi ăn đây!
- Đám người càng tụm lại đông hơn khi qua khỏi quãng đường dốc đê trơn ướt, gồ ghề.
- Phải đấy! Đến quán hàng ở gốc gạo kia thì ta nghỉ đỗ thôi! Các cụ nhỉ, Tây nó có lên đóng ở phủ Lạng Giang thì các cùng trên Võ Nhai, Phú Bình, Yên Thế vẫn còn xa, chắc bà con nhà ta ở đây chẳng phải chạy đi đâu nữa!
- Đã phải bỏ làng, gồng gánh đưa nhau lên đến đây làm ăn rồi, thì chỉ có sống chết ở đây chứ còn...
- Trên ấy, nhiều nhà vỡ bãi, trồng sắn được hai, ba năm mà cũng chưa chịu dỡ ăn đấy!
- Thôi thì tôi thấy cơm độn sắn dễ ăn hơn độn khoai.
- Chả cần gạo, tôi thì ăn nguyên sắn lùi, sắn luộc chấm với muối vẫn cứ ngon đùng!
- Ấy! Ấy! Có người ngộ sắn, say sắn chết đấy!
- Cứ bóc vỏ, ngâm với muối, luộc kỹ, lùi kỹ thì việc gì!
Rồi các đầu thừa đuôi thẹo, đem băm phơi khô cho gà, cho ngan ăn. Một mình ở riêng một quả đồi, nuôi gà, trồng sắn, nuôi lợn nhiều nhà tậu được cả trâu đấy!
- Vỡ đồi vỡ bãi, cấy ruộng trên đây chẳng phải đóng thuế má gì các cụ nhỉ!
- Chỉ sợ không có sức làm! Không có sức làm thôi!
- U ơi! Thôi con giả con quái này cho u, u để con gánh cho vậy!
Đám mấy cụ ông cụ bà đi sau cũng đã đến quán hàng bên gốc cây gạo lối dốc đê xuống. Giữa mùa xuân hoa gạo nở bồng bồng như xôi gấc, đỏ rực cả một vùng trời. Các đàn chim bay đến rào rào, ríu ríu. Những trẻ con từ trên lưng các anh, các chị từ trong các thúng, các mủng đỗ xuống, nháo nhào chạy ngay ra nhặt các hoa rụng. Có đứa cầm hoa, chập chững đến đưa cả cho ông, cho bà đang ho sù sụ, đấm lưng thùm thụp.
Trong thế cuộc nào mong như thế
Nỗi phố phường mới kể mà nghe
Bằng nay xuân đã sang hè
Thân này đóng cửa mà nghe sự đời.
Tiếng trống bập bung, bập bung làm những trẻ con và các anh, các chị chúng xúm xít ngay lại.
Tỉnh Hà Nội, những người phố xá
Chạy loạn Tây vất vả cũng thương
Xách gà, ôm trẻ vội vàng
Về quê ăn tuyệt tư - lương sạch rồi
Ở cũng cực, ra thời cũng cực
Tưởng bán buôn mà bức mọi bề.
Bung... bập bung... bung bung... bập bung... bung bung.
Bằng ai có chợ có quê
Tiện phương nương náu, tiện nghề điền viên
Cũng có kẻ quen miền phố xá
Thói quê mùa bỡ ngỡ xưa nay
Bung bung... bập bung bung...
Ra hài vào hán thế này
Bây giờ lại phải dãi dày tuyết sương
Bung bung... bập bung bung... bung bung bập...
Một cụ già, khăn chít, áo dài, đi dép, lắc đầu ho sằng sặc.
- Kìa, con mẹ thằng cu này này, cho bà lão còn mấy củ khoai ấy... cho cả bà lão!
Ông cụ uống chưa xong bát nước chè xanh, lại ho sặc. Bập bung bung... bung bung bập... bập bung.
Chuyện lúng túng làm sao thế ấy?
Mãi thế này cũng thấy bét be
Nực cười kể cũng kè nhè
Người cùng tìm chốn chở che qua ngày
Đàn bà phải lấy Tây cũng bức
Dẫu Rậm râu, mạnh sức cũng liều
Người Nam lớn bé bao nhiêu
Ở hầu, làm bếp, cũng đều làm ăn.
Tất cả bọn trẻ con đã ngồi sụp xuống quanh bà cụ xẩm mù, đứa mắt thô lố, đứa đầu nghiêng nghếch, đứa nhai sồn sột khoai sống, đứa tung tung những bông hoa gạo...
Cô thống sát, thông năm vô số
Vợ quan Tây, bà cố chan chan
Võng đào, giày thắm nghêng ngang
Mới hôm nọ, đã bà quan tềnh tàng...
Áo quần Tây tảng lố thông ngôn
Nay Tàu lên Hạc lập đồn...
- Bác à, hai bác và bà chuyến này thì cứ ở hẳn trên Thuông hay xuống dưới Hả với nhà cháu thôi!
- Thằng Nắm nó bảo gì đấy?
Bà cụ đang bóc khoai cho cháu ăn ở cạnh bà lão xẩm, gọi ông cụ uống nước trong hàng. Ông cụ vẫn vừa ho vừa nói, tay trỏ trỏ vào một người cao lớn đã đứng tuổi cũng chít khăn, nhưng mặc áo cánh, đi chân đất, vai khoác một tay nải tiền đồng, tay chống gậy bịt sắt.
- Thằng Nắm nó bảo hai bác và bà chuyến này phải ở hẳn trên nhà bố nó hay nhà nó đấy!
Nắm đỡ tay cho ông cụ đứng lên, ra gốc gạo, móc hầu bao lấy năm đồng tiền đặt vào tay bà lão xẩm, rồi quay lại nói với ông bác ruột:
- Bà lão học được bài hát ở đâu, mà ai làm ra ngay được bài hát này, thế bác?!! Bác à! Ông cụ đồ Mốc mà bác vẫn nhắc đến ấy chết trận rồi! Ông cụ cùng chết trận với bác Ngọ người huyện nhà... bác Ngọ mặt rỗ ngày trước dám bóp cổ gần chết cái thằng đội lệ ấy mà!...
Ông cụ và người cháu cùng ra đi với các gồng gánh. Những trẻ con và các người già yếu cụm lại thành một đám líu díu ở giữa đoàn. Đi sau rốt là những người mẹ đá con bồng con dắt, lại còn những bị, những tay nải đựng quần áo và nhiều thứ lươm nhươm khác... Trong người Nắm càng bồn chồn vì nghe thấy đúng là tiếng súng Tây bắn ở phía dưới. Đồng ruộng, làng mạc bên sông càng vào sâu trong này càng lặng ngắt...
*
* *
- Ở Hả tế cờ rồi!
- Ở Hả, ông Nắm tế cờ rồi!
- Tây lên đây thì phải đánh, đánh!
- Đất Yên Thế không chịu để Tây đóng đâu!
- Đánh! Đánh! Phải đánh!...
- Ở Hả đã tế cờ rồi!...
- Yên Thế không phải là đất để Tây yên đâu!
- Đánh! Đánh!
Không những chỉ có trai tráng mà mà cả những người đứng tuổi cũng rùng rùng kéo nhau đi. Ai có giáo cầm giáo, ai có mác cầm mác. Nhiều người không có giáo mác thì đem dao phạt bờ và cả thuổng làm khí giới rủ nhau kéo về làng Hả để nhập vào nghĩa quân.
Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và, tiếng chiêng nghe từ xa càng giần giật trong ngực mọi người. Từ phía trên Cầu Gồ, phía dưới Kim Tràng, phía bắc Bố Hạ, phía tây Dĩnh Kế, Hồng Kiều những đoàn người giáo mác gậy chơm chởm và gánh cả thóc, khoác ruột tượng gạo, đổ về làng Hả càng đông.
- Quái thật! Tay Thơm ở Trũng sao mãi chưa về!
- Có cả tay Thơm đi đánh Tây thì cánh này...
- Phải biết cánh Yên Thế này không chịu Tây đâu!
- Tây đã kéo lên Bắc Giang, đóng quân ở Kép, thế nào chả vòng sang đóng Yên Thế!
- Đánh! Đánh! Phải đánh!
- Tay Thơm và nhà ông cai gì người của cụ gì trong Nam ấy còn về Bắc Ninh hay lên Lạng Sơn mua súng mà!
- Ở Hả mà tế cờ, nhất định tay Thơm cũng về nhập quân.
Miệng nói, tay khoa giáo mác và cờ lên, mấy bọn trai tráng ở các làng trên và chung quanh Cao Thượng càng ồn ĩ: Trước sân đình làng Hả, cả đàn bà, con gái, trẻ em mấy làng bên cũng đổ đến. Mấy cụ cao tuổi nhất bảo mõ mở hết các cửa, đem lá cờ đại ra kéo lên giữa sân, tít ngọn cây tre cùng những chùm chuông khánh như cây nêu ngày Tết.
- Con trâu ở trên Thuông, ông cụ bác Nắm quý như thế mà cũng cho bác Nắm thịt à?!!
- Thì chính ông cụ bảo dưới Hả tế cờ thì phải ngả trâu mà!
- Nếu không bán con nghé hoa cho người nhà ở Bắc Ninh thì ông cụ còn bắt ngả cả nghé để tế cờ đấy!
- Bác Nắm được sắc phong của nhà vua nên ông cụ trên Thuông cho ngả trâu tế cờ à?!!!
- Cứ gì phải được sắc phong của nhà vua... nơi nào tế cờ đánh Tây thì cứ tế cờ cứ đánh! Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh cơ mà!
- Nghe nói ở Nam Định, Hưng Yên và cả trên Vĩnh An, Phú Thọ cũng đang đánh to lắm.
...
... Con trâu trên Thuông dong về sỏ sẹo buộc thừng ở gốc mít sau đình. Ngồi ở chiếu giữa trong này, trông ra những đám người trai tráng và cả những người đã đứng tuổi đều tay giáo, tay mác, ùn ùn từ đường cái vào cổng làng... cả cụ tiên chỉ và mấy cụ trưởng họ càng thấy trong người phừng phừng thêm.
- Ông cụ Nắm à! Chiều nay thì cho ngả trâu nhà cụ tế cờ thôi! Dâu con các nơi kéo về đem theo cả gạo ăn kia kìa! Phải cho người xếp ngay chỗ ăn, chỗ ngủ. Sân đình ta tuy rộng, nhưng chỉ rộng ở trong làng. Rồi ra phải tập trận, phải dàn quân, thì phải ở ngoài bãi, ngoài đồi... Cụ Nắm à! Bảo nhà Nắm cho dỡ ngay hai bè tre của các cụ ngâm ngoài đầm và chặt thêm tre ở vườn chùa mà đóng rạp, cất trại cho quân ta...
*
* *
Thằng cu Trọng cứ cố nhoài ra khỏi lòng mẹ, quờ quờ tay níu lấy cái gì lạ quá của bố: khẩu súng. Cái gì lạ quá và cũng quý quá mà bố cứ ôm khư khư, giữ khư khư ở trong tay, ở bên người cả khi ăn cơm với vợ con thế kia?! Bữa cơm hôm nay ông bà khán Tích bắt mẹ Thơm nó cứ thịt con gà trống gáy để bố nó ăn, và cho thằng cu ăn và cả cái tỏi với miếng gan.
Mâm vẫn dọn trên bờ thềm. Cái mâm chõng tre ông khán đóng lấy; ghế ngồi là những gộc tre to ngâm, có ba chân và đòn kê, chổi lúa. Ông khán gập đôi cái chiếu võng, ngồi chính giữa khề khà uống rượu và gật gù chơi với thằng cháu. Thấy nó cứ định giằng lấy súng của bố, bỏ cả miếng thịt xuống đất, ông phải nhặt lên thổi phù phù, nhón tay tước thịt ra, bón cho nó ăn.
- Bố mày! Tợn quá! Hay thằng Thơm cõng cả nó đi vậy.
Bà khán ngồi ở đầu nồi với mẹ cu Trọng, kèm nhèm gắp gắp mãi mới chọn được miếng củ cải trong bát canh rau, đút cho cu Trọng:
- Cái này mềm dễ ăn, cháu à.
Sợ mặn, bà lão lại mút mút miếng củ cải, rồi bón cho cháu.
Ông khán tợp nốt chén rượu, lừ đừ ngắm cu Trọng chân tay da thịt đỏ mầm, cứ nhoài ra, víu lấy cây súng của bố. Ông gật gù:
- Ăn được cơm thì ăn! Nhưng chuyến này nếu mẹ nó lại có sữa thì cứ cho bú. Sữa người còn bổ hơn cả sâm đấy! Chả thế mà bố thằng tri phủ gì ở bên Quốc Oai, già móm mém, cứ bắt thằng con nó tìm những vú em thật tốt sữa, phải nặn đủ mỗi ngày ba bát để uống thay cháo, thay canh...!
- Gớm cái nhà ông này!
Bà khán vừa lườm ông chồng, vừa giằng lấy nậm rượu!
- Thôi, ông đừng rót nữa. Kìa bố Thơm nó không uống rượu thì cũng gắp thịt ăn đi chứ! Có sang bên Ngò, bên ấy ngả trâu ngả bò thì cũng cứ phải ăn ở nhà cho no bụng. Chẳng ai như cái nhà ông cai Cừ, bảo để thằng con ở lại đây cho thằng cu Trọng nhà này có bạn, mà không nghe.
Bà khán lại đón lấy bát của Thơm để xới cho nhiều cơm và gạt lại những sắn độn. Mẹ cu Trọng vẫn cúi cúi đầu hay khi liếc nhìn chỉ liếc nhìn con chứ không nhìn chồng. Thơm chuyện với ông bố nuôi, nhẩn nha kể cho ông biết thêm nhiều việc về quân Tây và tình hình ở các nơi. Ở trong Huế, Tây cũng đóng nốt. Chẳng đợi vua ra chiếu, đâu nổi cứ nổi, đâu đánh cứ đánh. Chuyến này Thơm không thể ở nhà mà để vợ con lại cho ông bà, ông bà đừng lo lắng gì cả.
- Thì bố mày cứ đi! Cứ đi!... Ta còn vác nổi cái cày, dong được con trâu, thì ta không chịu đói, không để mẹ con nhà nó đói.
Tiếng í ới gọi nhau ở xóm trong càng ồn ồn.
Ông khán Tích lại toan rót rượu nữa, bà khán phải cất ngay cái nậm lên ban thờ, đưa bình tích chè tươi ra...
- Thôi ông và bố nó uống nước. Bố nó lên trên ấy thì phải vào trong Chè chào các cụ nhà nhé.
Đến bây giờ tìm dọn xong mâm bát và vun vén sạch sẽ các hột rơi vãi, mẹ cu Trọng chờ chồng uống nước, hút thuốc, chào ông bà khán xong mới đến đón con từ vòng tay bà khán và nhìn chồng. Tới khi Thơm bước xuống thềm, ra ngõ, cả hai ông bà khán đi theo tiễn chân, thì người vợ mới xốc con cùng nó trông theo cái vóc người vậm vạp, khẩu súng quàng vai, tuy đã khuất hẳn sau rặng tre, nhưng gương mặt, nhất là cặp mắt, bộ mày lì lì gan góc kia vẫn cứ rành rành như thể người vẫn ngồi ăn và nói chuyện trước mâm cơm, khay nước.
- Quên! Quên quá đi mất! Còn nửa bánh thuốc lào kia mà không đem đi! Trên ấy có ông thợ bạc già, chữa gì cũng được và biết làm cả thuốc súng, đạn ghém, mình cũng quên không dặn bố nó.
Người vợ nhủ thầm vừa thở hưng hức, hưng hức và xốc thằng con chân tay dài nghêu áp mặt nữa vào vai mình.
*
* *
Giữa sân đình làng Ngò cũng kéo lên một lá cờ đại đỏ rực. Mấy cụ cao tuổi nhất trong năm chi họ đều ra đây uống nước bàn chuyện và xem các con cháu đinh tráng bọn thì rèn giáo, đánh mác, bọn thì tập bắn súng, đâm dao, bọn thì luyện tấn, đi quyền, rầm rập cả sân đình và ngoài bãi ruộng. Không ngả trâu, giết bò, nhưng ở mấy bếp quanh đấy, khói lửa nấu nước thổi cơm cũng rừng rực, nghi ngút. Trẻ em, bà già, con gái xúm xít, đông nghịt, râm ran chẳng kém gì những ngày làng vào đám.
Tuy cai Cừ mê mải và hết sức tỉ mỉ giảng dạy cho các đinh tráng cách dùng hai cây súng Tây mới mua được ở Bắc Ninh, và Hà Nội lên, nhưng vẫn cứ thấp thỏm ngong ngóng bọn Thơm. Phần vì Thơm là người đứng đầu cả đám trai làng, phần vì các cụ vùng đây đều mến rồi cả những người chưa quen biết, chỉ nghe tiếng cũng mong muốn gặp mặt, làm thân. Một phần nữa là vợ Thơm là gái của họ ngoại bên làng Châu chung cánh đồng, chung cả đường to đi chợ.
Ở nhà Thơm ra đi cùng một tốp đinh tráng trong làng và ngoài xóm. Tuy mến phục Thơm, nhưng biết cái nết của Thơm, nên họ cứ chuyện trò bàn tán với nhau, mặc Thơm lẳng lặng đi giữa bọn mình. Vì thế Thơm càng lầm lì, nhất là cặp mắt trông càng quăng quắc.
"Trận đốt nhà ngựa, chém cụt cổ và đâm chết tươi hai thằng lính Tây rồi cướp súng của nó ngay ở trong thành Hà Nội. Tiếp ngay đó là trận thằng quan hai nhà binh và thằng cai hầu bị mai phục suýt bỏ mạng. Bác ngọ tuy bị bắn nhưng đã đâm chết được mấy thằng đi dẫn đường cho Tây, còn nghĩa quân thì hạ thêm được hai thằng lính Tây và chém bị thương ba thằng... "Không có súng, mình chỉ có non chục người mà vào tận trong thành đánh Tây, rồi lại đón đánh cả Tây kéo quân đi truy lùng.
Còn cụ đồ Mốc, mắt tuy mờ, thấp khớp, mà cũng cứ đi với nghĩa quân, giữ súng cướp được của Tây đến cùng cho nghĩa quân, bị vây bắt, không đâm chém lại được Tây thì cầm cả siêu nước sôi và hỏa lò than tàu ném vào mặt lính Tây...
Rồi cả những người làm chân sào, kéo thuyền trên sông cũng đổ đến, đánh Tây"...
Bọn Thơm chuyện càng râm ran, lại qua một quả đồi, bãi thanh hao và sim mua mọc um tùm như rừng và hoa sim, hoa mua cứ như những đàn bướm rung rinh sắp bay lên. Mấy đinh tráng trẻ nhất cứ khoa đao phạt những cụm cây lòa xòa bên đường. Thơm lại sực nghĩ đến năm xưa hai chú cháu Thơm vượt khỏi ngục thất tử tù và Thơm cõng chú len lỏi cũng qua một bãi đồi sim, mua rậm rạp, Thơm bứt ăn những quả sim héo rồi ăn cả bèo cớm, uống nước đầm, thấy ngon thấy ngọt thấy mát, chưa thứ gì ngon, ngọt mát như thế.
"Chà! Những trận quan đốc học Phạm Văn Nghị đánh Tây ở Nam Định mới hay chứ. Trước thì nhà vua không cho đánh, quân binh mộ được băng ngàn vượt núi vào được đến Huế rồi mà phải tuân lệnh trở ra Bắc ai phải về nhà người ấy, khí giới nộp hết cho trong triều! Vậy mà vẫn không nản lòng thoái chí. Tây hạ được thành tỉnh nhà rồi, vẫn đánh! Đánh ngày đánh đêm. Đánh đồn xa, đánh đồn gần. Đánh Tây phải bỏ chạy! Đánh úp, đánh chặn, đánh tỉa... làm Tây khốn đốn. Chỉ toàn nghĩa quân, tướng thầy lính tớ, khí giới sắm lấy, súng đạn lại là súng đạn cướp được của Tây!...".
Thơm lại thấy như mình ở trong những đám quân tung hoành ấy, tuy không đông hàng nghìn người, nhưng gan dạ, mưu trí, tiến khoái khôn ngoan.
"Cái vùng Phong Doanh, Ý Yên của quan đốc học cũng có núi có đồi đấy. Có đồi, có núi và có người biết đánh". Thơm bóp bóp báng súng, môi mím mím - chú Ngọ ơi! Nếu chú còn sống, chuyến này chú cháu ta cùng đánh Tây ngay trên Bắc Giang đây thì hả dạ biết bao! Rồi cả thằng Lang thằng Nghẹ nhà chú, thằng Ca nhà chú thím Cừ và thằng Trọng của vợ chồng cháu... cũng phải đánh... Cụ đồ Mạc! Cụ đồ Mạc ơi!... Cháu không bao giờ quên được cụ, cũng như không bao giờ quên được chú Thêu nhà cháu, cha cháu, ông cháu. Sao mà cứ hễ nhớ đến cụ, nghĩ đến cụ, thì cháu lại thấy như cả chú cháu, cha cháu, ông cháu đang bị xiềng xích, gông cùm cùng cụ, nhưng đã cùng cụ phá được gông cùm xiềng xích nhập bọn với quân của quan giáo Quốc Oai đánh lại quân triều, không thì bây giờ đang chờ cháu ở trên làng kia, tế cờ mở nước, đi đánh giặc Tây!".
*
* *
Có một thằng bé cứ nhìn vào gốc mít, chỗ buộc trâu Thuông, nước mắt giàn giụa, và hễ nó cúi mặt xuống thì thôi, chứ khi ngẩng mặt lên, lại khóc nức khóc nở. Nó nhìn cặp sừng cong như hai thanh gươm lưỡi câu mỗi khi xông vào húc đánh với bất kỳ trâu dữ, trâu to khỏe nào ở bất kỳ đâu đến, đều làm trâu ấy kinh hoàng, lồng chạy, tháo thân. Nó nhìn cặp mắt đỏ ngầu của con trâu như cũng nhìn lại nó, khóc với nó. Nó nhìn cái đầu trâu nghển nghển, thỉnh thoảng lại vằng một cái, tưởng chừng làm bật cả cây mít đi. Nó nhìn bộ mông, cái bụng cái lưng trâu núc ních mới hôm nào nó còn cỡi với hai thằng bạn, giật giật chão cho trâu bơi qua con suối nước lũ đổ về tràn hết các bãi bờ, đục ngầu cuồn cuộn... Nó nhìn, nó lại nhớ, lại nghĩ đến cũng mới hôm nào nó cưỡi trâu Thuông cho phi như con ngựa Truy của ông tướng gì tên là Hạng Vũ, hay hơn nữa, như con ngựa của Thánh Gióng bốn vó tung như chắp cánh bay, phì ra lửa khói, và hí hét chuyển cả núi non, là rục khuỵu tất cả những ngựa giặc định xông đến đón đường mình mà các cụ kể chuyện.
- Các cụ ơi! Đừng ngả trâu Thuông, đừng ngả con trâu trên Thuông, các cụ ơi!
- Các cụ trên Thuông cử tôi về xin lại trâu cho trên ấy đây!
- Các cụ ơi! Hay là có tế cờ thì cứ việc ngả ngay con trâu của nhà tôi...
Hai cụ ông quần áo xốc xếch, hớt hải chưa bước khỏi bậc thềm đã líu ríu gọi các cụ ngồi trong kia, vừa thở vừa nói.
Còn một cụ thì đến gốc mít, luýnh quýnh cởi chạc chão buộc trâu, thằng bé tưởng đã đến lúc đem trâu của nó đi thịt, liền òa lên, chạy vội lại, ôm lấy tay ông cụ nọ, mà gào khóc, van lạy:
- Giời ơi! Cụ ơi!... Đừng thịt trâu Thuông! Đừng thịt trâu Thuông của cháu!... Giời ơi!...
Mấy thằng trẻ trâu ở Hả rùng rùng bảo nhau chạy lại, thằng giữ chạc, thằng níu tay ông cụ:
- Đừng ngả trâu Thuông cụ ơi! Đừng ngả trâu Thuông cụ ơi!
- Để trâu Thuông còn đi chọi với các nơi cụ ơi!
Các cụ ở trong đình đã ra cả ngoài sân, cụ nọ chưa nói xong, cụ kia đã lên tiếng:
- Hả có tế cờ thì có trâu nhà tôi.
- Ngả trâu nhà tôi mà tế cờ!
- Hả tế cờ mà ngả trâu trên Thuông thì không nên!
- Cứ ngả trâu nhà tôi ấy! Cứ ngả trâu nhà tôi ấy!
Cu Biểu nước mắt nước mũi nhễ nhãi, một tay gạt gạt, quệt quệt, một tay quấn quấn ngay chạc trâu, hu hu vừa khóc, vừa cười:
- Trâu ơi, thôi mày về ngay trên ấy với tao. Bác Nắm! Bác Nắm! Cháu đưa ngay trâu Thuông về trên ấy thôi!
*
* *
Đúng là những tiếng trống ruổi quân ấy đang tiến đến làng Hả. Trai tráng đã đông lại còn từng lũ trẻ con thằng dắt em, đứa cõng cháu, nhong nhong chạy theo. Mấy cụ ông lại phải nhổm lên trông xem làng nào, ở đâu đổ về. Một cụ vẫn ngồi yên, nghiêng nghiêng lẳng lặng nghe rồi à lên một tiếng:
- Lại cái quân làng Lang Cao, Thúc trống kiểu này lại chỉ là quân làng Lang Cao. Nhưng chính cụ này cũng phải đứng dậy, lập cập bước xuống sân đình vì những tiếng reo rất lạ, từ ngoài đường cái tràn vào và cả từ trong cổng làng, trong sân đình túa ra.
Thình thình thình... thình thình thình.
Tiếng trống nhịp ba đã làm trống ngực người nghe đập rộn, lại còn tiếng xóc của những cây thiết lĩnh, tiếng rập của những tay thước, càng làm tim mọi người đập thon thót. Đi sau trống là một khiêng gì lạ quá! Lạ lắm! Những bốn đinh tráng khiêng. Đòn là hai cây tre đực, tre cộc. Thứ khiêng lại trói bốn cẳng, phủ lòa xòa những tàu lá chuối chưa thấy tàu lá nào to như thế, bên trên trùm cả tấm màn vải điều. Tuy đậy, tuy phủ như vậy, nhưng vẫn để lộ ra cái đầu con vật máu còn ri rỉ lòng mắt trắng ởn trợn trừng, đôi sừng chum chủm, lông nâu sậm, xoăn quánh.
- Nai trâu! Nai trâu!
- Lang Cao đưa nai trâu lên tế cờ!
- Lang Cao đưa nai trâu lên tế cờ!
- Lang Cao săn được nai trâu đưa lên tế cờ!
Đám trẻ lang dưới ấy và đám trẻ làng trên này, không những chỉ bu vào đuổi theo con nai khiêng nặng trĩu, mà còn chạy trước quẩn sau một người khoác súng, đầu đội mũ vải đen, quần chẽn, áo rộng tay, thân hình gầy sắt, mắt ti hí.
- Đúng Tề ở Lang Cao!
- Đúng Tề ở Lang Cao bắn được nai trâu.
- Đúng Tề ở Lang Cao săn được đấy!
- Lang Cao săn được nai trâu đưa lên tế cờ đấy!
Ông cụ Nắm gọi ngay con:
- Mày à! Mày ra đón Lang Cao đi. Thôi không ngả con trâu trên nhà thì phải thịt con trâu ở dưới này của mày mới tậu về ấy. Cả Lang Cao nữa, lại thêm con nai như bò mộng thế kia, thì phải ngả trâu nhà nữa chứ.
Nắm nói nhỏ với ông cụ:
- Con cho đổ xay cả hai gánh thóc trên nhà đưa xuống nhả?
Không những chỉ được nghe được biết tài bắn, săn giỏi của anh trai Lang Cao, mà đã cùng Tề đi xem các hội vật dưới Bắc Ninh, ăn cỗ và chuyện với nhau ở nhà mấy cụ trùm vật. Nắm rất mến Tề. Nay Tề lại cùng trai tráng làng mình đưa cả nai mới săn được lên nhập quân, tế cờ thì thật là... Nắm xin phép các cụ, khoác cả súng chạy ra đón Tề và các trai tráng Lang Cao.
Lại có tiếng ồn ồn ở ngoài cửa đình. Lần này sự bàn tán vừa nhốn nháo vừa ồn ào, càng nhộn nhịp hơn.
- Tây lên đóng ở cả Kép rồi!
- Tàu Tây chạy cả lên sông Thương, rập rình sẽ lên Bố Hạ thôi.
- Đánh! Đánh!
- Tây mà lên Yên Thế này thì Yên Thế này đánh. Đánh!
Có mấy người chạy hẳn vào chỗ các cụ ngồi báo tin.
Nắm đi với Tề bên khiêng nai.
Tất cả trai tráng tụ tập ở sân đình và người lớn trẻ con chờ đợi các cụ cho ngả trâu làm lễ, đều bồn chồn dường như không còn thể nào chịu thêm được nữa.
Tiếng trống đình Ngò đã nổi, giần giật, giần giật... Con đường dưới chân đồi Cao Thượng cũng rậm rập người kéo đi.
- Ngò cũng tế cờ các cụ ạ!
- Anh em ơi! Ngò cũng tế cờ với Hả ta!
- Tây lên Yên Thế, thì Yên Thế ta đánh, đánh!
Nắm đưa Tề vào trình với các cụ. Con nai được đặt trên đôi chiếu cạp vải điều ở giữa sân. Đám trẻ con bu đến càng đông nghịt, càng ồn ĩ. Tề bẽn lẽn chắp tay chào các cụ, đáp lời khen của các cụ. Cặp mắt ti hí trên khổ mặt đen sắt của Tề cũng như cặp mặt xếch trên khổ mặt bạnh, chơm chởm hàm râu quai nón của Nắm, cứ luôn luôn liếc ra ngoài sân đình tua tủa gươm, giáo, dao gậy mà các trai tráng đứng ngồi như bị kiến đốt.
- Ngò tế cờ thì phải có Thơm làng Trũng chứ!
- Thơm con nuôi cụ khán Tích giỏi lắm! Hay quá!
- Nghe nói lại có cả cái ông cai gì quân cũ của cụ thủ khoa ở trong Nam đã đánh Tây nhiều trận...
- Cả bên Ngò cũng tế cờ và có cả Thơm làng Trũng cùng kéo quân khởi sự thì Yên Thế ta mạnh đấy!
Cây rơm ở một nhà cạnh đình đã dỡ ra. Trẻ con lại rùng rùng í ới kéo nhau chạy theo con nai khiêng đến thui ở ngoài bãi. Đình Hả chuyển động thêm vì tiếng chiêng, tiếng còng dồn dập. Tất cả mấy cây đèn dầu to bằng gióng bương gióng vầu đều thắp lên. Tất cả những lư, những đỉnh đồng đều nghi ngút hương trầm. Những ngọn giáo, mũi mác, đầu gậy càng nhấp nhô. Các trai tráng đều đứng cả dậy, trông cả về phía Bắc Ninh, Bắc Giang, trong tai như đã nghe thấy tiếng súng của Tây bắn phá, và trước mắt như thấy cả quân Tây, lính Tây ngang ngược kéo đi đánh chiếm các làng, các xóm của mình.