← Quay lại trang sách

Chương XIV

Đã nghe thấy tiếng ho khan của thầy mình và đĩa đèn bấc khêu to, học trò Ngô ở Thanh Oai Hà Đông liền nhổm dậy, lay lay gọi học trò Tiên Du bên tỉnh Bắc:

- Anh Bắc à! Dậy! Dậy! Nhóm bếp quạt lò nấu nước hầu thầy.

Thoạt tiên, Bắc quẫy quẫy cánh tay, vằng lại, nhưng sực tỉnh thì choáng choàng bảo Ngô:

- Chết! Chết! Sắp rạng sáng rồi, tớ nấu nước, cậu luộc bắp nhé. Lại luộc những bắp nếp ấy và cho nước xâm xấp thôi. Thầy bảo thầy uống nước râu ngô càng thấy ngon, thấy tỉnh người như ăn chè đỗ đen, chè hạt sen ấy.

Cụ Tán Cao không rửa mặt, chỉ xông mắt rồi lau mặt bằng hơi nước sôi của bình tích chè xanh trò Bắc bưng lên. Súc miệng xong, cụ mặc ngay áo chùng the thâm, vuốt vuốt tóc, chít khăn, ngồi xuống giường kê sát án thư. Ngoài trời mới, he hé sáng. Tiếng gà vẫn gáy rộn. Nhưng cả nhà chủ, ông bố, bà mẹ, chị dâu, em trai trò Ngô đều ai vào việc nấy cả rồi. Kẻ quét sân, người cho lợn ăn, người thổi cơm nấu nước, người sắp xếp quang gánh phân tro và nạo cỏ, để ăn xong thì ra ngay đồng trước khi mặt trời lên hẳn. Hai cái gái bé, đứa đi trâu, đứa cắt cỏ cũng sẵn sàng như mọi người lớn.

Ông cụ thân sinh trò Ngô tự tay bưng khay gỗ có đĩa ngô luộc bốc hơi nóng ngun ngút, thơm ngọt. Ông cùng con trai và trò Bắc đều mặc áo chùng vải thâm, chít khăn, đi chân đất. Hai học trò đi sau, chắp tay, cúi đầu, đứng nem nép xế góc bàn.

- Cám ơn cụ nhà! Cụ nhà cứ để cho chúng... để cho chúng...

- Dạ... dạ... xin quan Tán cho phép chúng con được giữ lễ.

Ông cụ chủ nhà cố giữ sự kính cẩn khi liếc nhìn cụ Tán Cao và toan hỏi đêm qua người ngủ có ngon giấc không, sáng nay dậy thấy trong người thế nào, thì cụ Tán Cao tươi cười:

- Sáng nay cụ có phải lên huyện sớm không? Cụ phó ngồi mời nước với tôi nào...

- Thưa quan Tán - Ông cụ trò Ngô run run - xin quan Tán cho phép con, xin cho phép con...

- Phải, phải, nếu không cần đi công việc đâu sớm thì ngồi mời nước với tôi. Cụ không ăn bắp với tôi thì uống nước vậy. Nào mời cụ...

Ông cụ nhà trò Ngô phải ngồi xuống cái ghế đẩu ở mé trước án thư, đón lấy chén nước của cụ Tán Cao rót cho. Hương hoa lý, hoa mộc ở ngoài vườn, gió mát ban mai đưa vào nhà thoang thoảng, càng làm thêm vị chè xanh thơm ngọt, thanh khiết.

- Tây lại về trên huyện hay sao hở cụ nhà?

- Bẩm... bẩm quan Tán, con không thấy nói, mà chỉ nghe trên huyện sức cho mấy xã chuyên đổ bún và nuôi lợn nái, phải nộp lên tỉnh bún thật ngon, còn lợn thì chỉ là lợn sữa ba tháng.

Cụ Tán Cao cười mỉm, chiêu một ngụm nước chè:

- Rượu thì rượu làng Vân của Thổ Hà, Bắc Ninh.

- Bún thì bún bừa, lợn sữa Hà Đông... rồi thì rau muống Sơn Tây, nhãn Hưng Yên, cam Xã Đoài, Bố Hạ, táo Thiện Phiến Hưng Yên, sâm cầm Tây Hồ, nước mắm Cát Hải... Tây cũng đều "mời" cả để các tri phủ tri huyện sức dân nộp...

Đã hầu xong tuần trước, ông cụ trò Ngô xin phép lên huyện. Cụ Tán Cao đứng dậy, đưa tiễn ra hẳn ngoài sân.

- Cụ nhà nhé, cụ nhớ nghe ngóng và hỏi kỹ xem tin quân Tây lên Bắc Giang, Thái Nguyên, Lạng Sơn đã đóng ở những đâu, dân các vùng trên này chống cự thế nào. Nghe đồn Yên Thế tế cờ trước tiên ở trên ấy đấy!

Cụ Tán Cao quay lại bảo hai trò của mình:

- Hai ngươi ăn cơm xong sang làng bên có qua phố huyện thì cũng hỏi kỹ các chuyện cho ta. Có gặp cụ cử Vân Đình, thì thưa với cụ cho ta mượn lại tập Đại Việt sử ký toàn thư, nhớ đấy, phải nhớ đấy!

Hai trò buông bức mành xuống, còn vái thầy lần nữa mới lùi lùi quay ra.

Ngô bảo Bắc:

- Để mình đi thôi. Anh cứ phải ở nhà với thầy. Trưa nay lại luộc ngồng cải để thầy ăn với mắm tép. Rồi có nấu nước để thầy lau mình thì thêm nắm lá sả. Cứ đun thật sôi, để âm ấm rồi hãy mời thầy dậy.

Chỉ có Ngô xuống bếp ăn cơm sáng, còn Bắc thì rón rén quay lại sau nhà, ghé ghé xem thầy lại ăn bữa lót dạ chỉ có ngô luộc như thế nào, chứ không chịu để nhà Ngô thổi xôi hay làm bánh nếp, bánh giầy đỗ gì cả. Và túc trực như thế, cũng để phòng nếu có động dạng gì thì phải báo tin cho thầy, kể cả việc cõng thầy sang làng bên, hay đi hẳn nơi khác, trong cái binh tình mấy hôm nay ông cụ thân Ngô có vẻ bồn chồn nhưng vẫn cứ làm ra vẻ yên ổn, bình tĩnh.

Cụ Tán Cao tẽ tẽ ngô ăn chứ không gặm. Cụ ăn như một người uống rượu nhắm nhắp một món rất ngon rất quý rất thích. Hai bắp ngô tẽ không bỏ sót một hột nào. Trong đĩa còn lại hai bắp. Cả trong đĩa và trong khay đều không vãi một cái mày, một sợi râu, mà chiếc lõi thì lại khép nguyên như trước trong những lớp lá. Uống nước xỉa răng xong, cụ Tán Cao chỉ nằm nghỉ một lát rồi ngồi dậy, kéo cái gối xếp lại gần song cửa để tựa người mà đọc sách.

Tóc hoa râm, chòm râu nhiều sợi bạc, má gồ, nước da mai mái nhưng đôi mắt vẫn sáng, và thần thái vẫn uy nghi, nhất là với vầng trán suy tư. Thân hình thầy tuy gầy dỏng, tấm áo the mặc trông càng rộng thùng, người càng như vóc nai, dáng hạc; vậy mà Bắc không thấy thầy có vẻ gì yếu đuối, ốm o, mà lại có một cốt lõi của tùng bách ở trên núi, trên đồi, trong nắng, trong sương, trong gió...

Thầy vẫn đọc pho sách của Ức Trai.

Nhưng cuốn sách này hầu như không bao giờ không ở bên người thầy, không đi cùng thầy. Thầy mê Ức Trai, thầy quý Ức Trai, thầy mê sách, quý sách đến cả khi kéo quân từ bên Bắc sang Hà Nội, dàn quân ra để đánh Tây ở Đồn Thủy, phối hợp với cánh quân đánh vào thành ở phía trên, mà thầy vẫn dùng dằng không muốn gửi gách sách cho người làng giữ.  Đỗ đạt, uyên thâm như thầy mà còn khổ đọc, khổ học như thế, và long đong vì mưu đồ việc nghĩa như thầy, mà vẫn ung dung, tự tại, tu dưỡng với sử với thi như thế, vậy thì chúng con...

Như có những tua rua trên vầng trán, mái đầu hoa râm, và chung quanh cái vóc người như mai như hạc nhưng cốt lõi thì như tùng như bách nọ.

Trò Bắc lặng nhìn, càng xót xa, lo lắng cho thầy trong cảnh đang bị tróc nã, phải lánh sang đất này. Trò Bắc lại càng bồn chồn nghĩ đến mặt thì vận nước sẽ được xoay chuyển ra sao, mặt thì chí thầy muốn kình thiên chống địa, nhưng sức thầy và sức người có thuận với cái thời cái thế ngày nay không. Mặc dầu cơ sự khó khăn đến thế nào, trò Bắc cũng cứ vững tin ở thầy, theo thầy đến cùng... Sợ rằng mình đứng lâu ở ngoài này mà lại cứ trông ngắm thầy thì thất lễ, và phạm đến cái khí, cái thần trong sự đọc sách của thầy, và mình còn phải nghe ngóng mọi động tĩnh ở trong làng ngoài đường nữa, Bắc rón rén đi ra gốc cây mít, lấy tre vót nan đan sảo cho nhà bạn Ngô.

Đọc xong thêm một bản Dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi, cụ Tán vừa thấy bừng bừng trong người, vừa thấy cũng như một người gánh vã đi miết một quãng đường nắng xa, cụ phải buông sách xuống, rót nước uống.

Thành thượng hồng kỳ huy chiến sĩ

Quân trung hỏa pháo xạ Dương đi (1)

Trong thành, quân Tứ Chính Tứ Ki

Mà tượng mạnh như hùng, như hổ

Tiếng pháo động trong thành ngoài phố

Trận giao phong Tây hộ hàn tâm...

Một đoạn bài điếu quan tổng đốc Hoàng Diệu cũng không biết của ai làm ra đang được truyền tụng kia, bỗng lại nổi lên từng lời, từng chữ ở bên tai, ở trong tâm trí cụ Tán Cao. Mồ hôi trán cụ lại lấm tấm, đầu óc thì căng nhức, lòng dạ thì quặn thắt. "Thế mà quân ta bị thất thế, thành Hà Nội bị thất thủ, quan tổng đốc phải tuẫn tiết!".

Cụ Tán Cao thở như có đá đè ngực và lại nghĩ đến cuộc lui quân của mình. Hơn sáu trăm quân bản bộ, toàn những đinh tráng người cùng tỉnh, khí giới tuy chỉ có giáo mác gươm dao nhưng tự túc tự rèn, đánh, tôi rất sắc, khí thế thì đằng đằng, quyết tử. Lại còn mười chiếc thuyền bồng chất đầy rơm cỏ khô, diêm tiêu và hỏa hổ. Chập tối cánh quân này xuất phát, định đến canh một thì thuyền ngược sông, quân thì qua bến tràn sang bên Đồn Thủy của giặc, mở trận đánh chém ào ạt, cướp súng đạn, đốt trại, đốt kho... Nhưng chờ mãi không thấy cánh quân trong thành đổ xuống mà nghe tin phi báo thì quân ta lại rút lui, nhiều toán bỏ ngũ, mỗi toán mỗi ngả. Còn trong đồn giặc thì đèn đuốc sáng rực, ngoài bờ bến lính đi  tuần rầm rập... Đã thế lại thấy tiếng ngựa hí, tiếng người, tiếng súng ống nhộn nhạo xuất binh. Và rồi các súng trái phá bắn qua sông, bắn sang cả làng xa, bắn xuống cả phía dưới...

Mãn triều đồ thị thanh hồng khách

Bảo quốc vong hân độc nhất  quân... (1)

Cụ Tán Cao ngâm chưa hết câu thơ lại phải ôm lấy ngực để nén ho. Cái mệt, cái nặng đè lấy ngực không cho cụ Tán Cao chiêu thêm ngụm nước. Cụ phải gượng nhẹ nằm xuống chiếu mà thở.

Trên Yên Thế mà có nhiều làng tế cờ thì ở những làng nào đây? Nghe nói ông đồ Mạc người cùng làng Phú Thị với ông Cao Bá Quát, làm nhà ở trước đường vào thành Tỉnh mới trên phủ Yên Thế của ta, về làng nhập đám nghĩa dũng bên Phúc Xá đánh Tây, bị bắt đem chém ngay, bêu đầu trên đường Tây Hồ ấy! Chết! Chết! Cái thành của Tỉnh mới trên Yên Thế kia tuy đắp thật dày thật cao, trong hào ngoài lũy, địa thế có đồi, có rừng bao quanh đấy, nhưng nếu đóng quân thì phải tản ra làm nhiều đồn, nhiều trại, có nhiều vọng gác, chứ chớ tụ cả lại trong thành mà bị Tây nó vây, nã trái phá thì khốn đốn với nó. Vả lại, thế quân mình, thủ hiểm đánh lại Tây vẫn cứ không lợi!

Cụ Tán Cao thiu thiu trên gối.

Khu thành đất để chống giặc cướp phương Bắc và chiêu mộ dân nghèo đói lên mở mang đồi bãi trồng trọt cày cấy, tự ông cụ ra kiểu cho họa đồ, rồi đích thân làm đốc công, và những dãy núi, những quả đồi, những cánh rừng, những bãi cỏ ràng ràng, sim, mua, những con suối, những ghềnh đá, những bờ bụi và những tràn ruộng của những vùng Tỉnh mới và của cả Yên Thế... lại chập chờn trong tâm trí ông cụ.

Có tiếng chó cắn rộn ngoài búi tre. Bực giận vô chừng vì mấy con quái làm động đến giấc ngủ của thầy, trò Bắc liền lặng lặng đứng dậy, cầm hòn gạch to, bước chầm chậm rồi nhắm trúng chỗ chó đang sủa, ném thật mạnh.

*

*   *

Quân Tây đến vây bắt cụ Tán Cao kéo đi từ ba ngả. Ngả dưới đón lối ra bờ sông Hà Đông sang Hưng Yên, ngả xọc nách chặn nếu có nghĩa dũng hay đinh tráng các làng trong tới đánh tháo. Toán quân từ tỉnh đổ xuống thì cũng toàn lính Tây. Quan nhà binh chỉ đạo là Mặt ngựa vừa được thăng chức, từ lon quan một lên quan hai. Theo sau hắn có cả tri huyện Thanh Oai, tri huyện Sơn Lăng(1). Hai viên này không cưỡi ngựa mà đi võng. Sợ thất lễ với Mặt ngựa, cả hai đều ngồi chứ không dám nằm. Vừa phần hai quan đều to: lo sổng mất cụ Tán Cao mà cả hai đã bị mất ăn, mất ngủ vì nhận được sức mật của quan Kinh lược rằng đã có người báo với Tây cụ Tán Cao chạy về vùng đây, nếu cả hai không dò tìm cho ra tông tích và nơi cụ Tán Cao đào tị, nhất là không bắt sống được cụ, thì sẽ bị cất chức ngay. Cả hai viên tri huyện không dám nằm, vì còn phải chú ý trông coi hai thằng phạm dong cùng võng mình.

Bố trò Ngô và một ông già đỗ tú tài mở cửa hàng thuốc bắc ở trên phố huyện cùng bị trói giật cánh khuỷu vào hai cái đòn tre. Hai dây thừng buộc thít lấy cổ, bốn tên lính cơ cắp mã tấu cầm hai đầu dây, đi kèm. Ở quãng nào đông người, khi thấy lính Tây súng ống rậm rịch đi qua, đàn bà, trẻ con còn được đứng xem. Chứ tới khúc toán quan hai Mặt ngựa và hai quan tri huyện cùng ông bố trò Ngô và ông lang tú tài sắp đến, thì mọi người phải dạt xa rệ đường, thật chí còn bị xua bị đánh bị đạp vì tội cứ nhấp nhổm trông mặt hai kẻ bị dong rồi chắc sẽ đem đi chém nọ.

Tuy đã có quân Tây súng ống rầm rập đi trước như thế, và tuy đã bám sát lấy đít ngựa quan hai có sáu tay súng cắp nách hộ vệ, hai tên tri huyện vẫn cứ thấp thỏm, láo liên trông hai bên đường, trông vào trong làng, trông về đằng sau, hình như đây đó sắp có nghĩa dũng đổ ra, hay hai thằng phạm giựt được dây trói chạy mất!

- Giời đất! Ông Ngô dưới Thanh Oai làm phó cối chỉ quanh quẩn trong huyện mà lại bị già tỏa điệu đi như thế kia?

- Nhà cụ lang trên huyện ấy cũng tội tình gì vậy?

- Ai mà biết được các việc của lão lợn ỷ tri huyện Chương Mỹ này!

- Nghe nói dạo nó đóng ở Thạch Thất, chỉ vì nó mở tiệc ăn mừng con vợ cá mắm của nó đẻ được công tử, mời tri phủ Quốc Oai về làng, để đến nỗi ở nhà vợ hai tri phủ bị cướp phá sạch sành sanh, rồi khi cố bắt được giặc thì để giặc vượt ngục trốn mất, nên nó mới bị đổi về đây, phải đút cho quan Kinh lược hàng thúng bạc, không có thì...

- Ấy ấy! Thằng lợn ỷ ấy vừa đưa thằng lý trưởng làng Tó lên làm chánh tổng. Thằng nọ định dâng con gái làm nàng hầu nó, nhưng nó lại dâng lên cho quan hai Tây cưỡi ngựa kia kìa...

- Thế thì đúng là tổng Tó và thằng lợn ỷ tố giác bắt ông phó Ngô dưới Kim Giang và ông lang trên huyện thôi.

- Tố giác việc gì? Tố giác tội gì? Bà con ơi!

*

*   *

Cụ Tán Cao lau mình, thay quần áo cho trò Bắc đi giặt, lại lên giường ngồi đọc sách. Chợt cụ giật mình, đặt sách xuống ngước mắt kính nhìn Bắc chạy sầm đến phục ôm lấy đầu gối mình.

- Bẩm bẩm thầy, bẩm bẩm quan Tán... quân Tây đến vây làng rồi. Người nhà trên kia xuống báo quân Tây đông lắm kéo về vây làng ta... Bẩm thầy... bẩm quan Tán, thầy... thầy... quan Tán. - Bắc vừa nói vừa thở tưởng đến đứt ruột - Quan Tán để con cõng... con cõng thầy xuống làng dưới...

Cụ Tán Cao chỉ hơi biến sắc mặt, nhưng không thể nén được trống ngực đập rộn:

- Người đưa ta xuống làng dưới rồi đi đâu?

- Bẩm thầy... bẩm quan Tán, con sẽ luồn các đường bờ đầm, ven bãi, đưa quan Tán sang sông hay vượt vào trong núi.

Cụ Tán Cao lắc đầu:

- Nếu Tây đã kéo quân về làng đây để bắt ta, thì chúng đã tỏ rõ những lõng mà ngươi định đưa ta đi.

- Thế thì tính sao bây giờ, chết mất! Chết mất! Thầy ơi!

- Ta chết làm sao được! Việc gì mà ta chết?!

- Giời đất! Thầy... thầy ơi! Thầy cứ để con cõng thầy chạy trốn qua sông, sang Bắc, về Bắc.

- Không! Không được! Ta không chạy, ta không trốn! Người hãy thu tất cả quần áo ta vừa thay và các đồ lề vào cái tay nải. Còn các sách ốc, ngươi lại buộc vào một khăn gói. Kìa ngươi phải theo ta, thu xếp mau lên.

Cụ Tán Cao lại lấy áo chùng the, mặc và chít lại khăn:

- Bắc! Bắc! Ngươi khoác các thứ đó cùng ta ra miếu thổ thần ngoài bãi cuối xóm.

- Thưa thầy... bẩm quan Tán... quan Tán...

- Kìa còn cái khăn tay và vuông vải điều của ta, phải thu nốt cả đi! Và ống bút nữa! Không được để lại một vật gì ở nhà chủ... Thôi! Nào đi...

Trò Bắc như một người không hồn, vai đeo tay nải, tay ôm bọc sách đi trước, cụ Tán Cao còn rấp rấp lại những cành rào, kéo kéo những đám lá cúc tần cho thật như cũ rồi mới đi. Qua mấy cụm dứa dại và hai mảnh vườn hoang có mấy nấm một trẻ trâu vứt bừa sành sỏi, bã mía, vỏ bòng, đến cái miếu tường rêu, mái sụt cửa mở toang, bên trong lặng ngắt, thì trò Bắc òa lên khóc:

- Thầy ơi! Bẩm... bẩm, sao thầy lại ra đây?

- Bắc! Ngươi đem dìm ngay cái tay nải xuống thật sâu dưới hườm ao bèo kia cho ta. Còn bọc sách thì ngươi trèo lên bệ thờ đút sâu vào sau tấm hoành phi...

Trò Bắc liền phục xuống chân cụ Tán Cao, ôm lấy cái khoeo chân gầy khẳng:

- Giời đất! Thầy ơi! Thầy ơi! Thầy lại tự nghĩa... tự nghĩa như quan tổng đốc Hoàng Diệu.

Cả hình ảnh người quan bề trên là Hoàng Diệu và người mẹ của mình mà mình chỉ được nghe chuyện nghe tả... vút hiện qua tâm tưởng Nguyễn Cao và như nổi lên với hào quang ở trước mặt, ở giữa trời.

- Không! Không! Ta không tự tử! Ta quyết tử! Ta quyết tử! Đáo sự mà cùng đường thì ta quyết tử!

- Giời đất! Giời đất! Con van thầy! Thầy cứ để con cõng thầy đi...

- Kìa Bắc! Bắc! Ngươi phải tuân lời ta...

Chợt nảy ra một ý nghĩ, trò Bắc vùng dậy, đem tay nải ra ao bèo giậm giậm thật sâu đúng như lời thầy truyền và cũng trèo lên bệ thờ cất kỹ đọc sách, đoạn tụt xuống, không chờ cụ Tán Cao cất tiếng, anh ghé lưng mình vào bụng cụ, xốc bổng cụ lên:

- Con lạy thầy! Con xin thầy cho con được giả nghĩa. Cả đời con, được theo hầu thầy hơn bốn năm nay, chỉ có lúc này con mới được làm người... thật làm người học trò của thầy, được giả nghĩa thầy! Con phải cõng thầy đi, sống cùng sống mà chết cùng chết!

Cụ Tán Cao thấy gần như đứt ruột. Cụ nghển nghển mình lên, vỗ vỗ vào cánh tay trò Bắc:

- Ừ... ừ... kìa hãy để thầy đứng xuống.... đau tức ngực thầy... đau tức ngực thầy!...

Trò Bắc đành phải để thầy mình tuột xuống. Cụ Tán Cao vuốt vuốt lại nếp áo và cũng để vuốt cả ngực mình. Đôi mắt ông thầy nhìn thăm thẳm cái thân hình gầy tóp, gương mặt hốc hác, áo dài nâu đã bạc hết hai vai, rách vá, và lồng ngực thở giật của người học trò hầu cận mình trong giây lát, rồi chớp chớp! Từng tiếng một giọng hơi khản khản và rung rung:

- Thôi ta truyền lệnh cho ngươi: trong làng đã nhớn nhác lắm rồi! Ngươi để ta đây! Còn ngươi cứ sang làng bên rồi xuống làng dưới, vào làng trong báo tin ta... cho các nhà thân cận biết.

*

*   *

Tiếng trẻ con khóc thét. Tiếng đàn bà, người già van xin. Tiếng tra hỏi thúc giục. Có cả tiếng hát xì là xì hồ. Cứ mỗi tốp lính cơ và tuần đinh đi sục sạo lại có một lính Tây lăm lăm tay súng. Tên tri huyện sở tại phải đứng hầu bọn quan binh ngồi ăn uống trong đình. Tên tri huyện giáp ranh thì đi cùng tên đội Tây đốc thúc việc khám xét.

Ở gốc muỗm cổ thụ bên trái sân đình, ông Ngô và ông lang huyện quỳ trói vào hai cọc tre. Cả hai người mình mẩy mặt mũi đều thâm tím, không chỗ nào không xước máu.

- Bẩm với các quan lớn thương xét, quả thật nhà con không chứa chấp ai cả.

- Bẩm với các quan lớn, thật con không đưa quan Tán về làng đây!

- Cứ thế này... cứ khai thế này... thì các người sẽ chết chết mất!

Tên tri huyện mặt lợn ỷ rít lên, khi tên thông ngôn lại dịch những câu trên đây cho viên quan hai Mặt ngựa, và lại đốc tên đội đi hầu Mặt ngựa đánh tiếp ông bố trò Ngô và ông lang huyện.

- Bẩm thật có một ông đồ lên Bắc sang ngồi nhà con bảo học mấy tháng, thì người đã về quê ăn Tết rồi không sang nữa!

- Giời ơi! Cứ vẫn khai thế này thì các quan cho đánh đến chết thôi!

- Bẩm nhà con những người đến kể bệnh xin đơn bốc thuốc không có ai hình dạng như thế, và con không được biết ai tên là Nguyễn Cao người bên Bắc Ninh hay cụ Tán Cao!

- Cả người nữa cũng cứ cung như thế!

- Giời! Giời! Hai người cứ cung, cứ khai như thế này, phải bắt hạ ngục cả nhà các người, và chém ngay hai người ở đây!

Đã xế bóng, mặt trời lên nóc đình càng như giội lửa. Con lợn của người nhà nho Quán thầy tớ tri huyện sở tại đã thịt xong. Các món chạo, chả chìa, thịt áp chảo, quay, nướng, và cả lòng thuôn, bún đã bày đầy bốn mâm đồng hạng đại, bưng lên. Rượu từng vò, chưa rót đã thấy thơm sực. Ở dưới bếp lại còn lừng lên mùi chả quế và thịt nấu giả cầy. Cả quan hai Mặt ngựa và mấy viên quan, đội lính Tây đã tự rót rượu uống, tay nhón, tay bốc thịt ăn. Nhưng vẫn chưa thấy thủ khoa Nguyễn Cao, đầu xứ Nguyễn Cao, tán tương quân vụ Nguyễn Cao bị giải đến.

- Mày giấu quan Tán Cao ở đâu?

- Mày gửi quan Tán Cao ở nhà nào?

- Trên huyện biết đích xác quan Tán Cao ở nhà mày, và chỉ nhà mày mới biết chỗ quan Tán Cao, nếu có động thì trốn mà!

- Quan Tán cao trốn ở đâu? Xuống làng dưới hay ra làng ngoài bờ sông, hay sang làng bên để vào trong núi?!!

Hai ngọn roi tre gai và hai gậy song bịt đồng lại quất lại quật lên ông thân trò Ngô và ông lang trên huyện mà cả hai tên lính và tên đội hầu Mặt ngựa đều thấy chợn tay và chính chúng tối tăm cả mặt mày. Cáu quá, tên quan hai Mặt ngựa, đứng lên cầm siêu nước sôi, rót xèo xèo xuống vai, xuống lưng và xuống đầu ông thân. Đúng hai người không đưa mắt nhìn nhau và cũng không thể nào cất tiếng nói được nữa, nói được với nhau cái đều quý báu vô chừng ấy trong lúc này, nhưng đều nghĩ đều mong:

- Quan Tán đã trốn thoát!!!

- Quan Tán đã trốn thoát!!!

- Người thấy động đã trốn được thoát!!!

Tên tri huyện sở tại ngồi đã không yên, đứng lại càng không yên, khi tên quan hai gật gật cười cười bảo tên thông ngôn, và tên thông ngôn thì xám mặt lại, dằn giọng bảo y:

- Được báo Nguyễn Cao ở đây mà đúng là Nguyễn Cao ở đây, vậy mà không bắt được Nguyễn Cao thì chiều nay đem chém hai người này cùng nhiều đứa nữa trong làng, và cả làng này, vùng này bị triệt hạ...

Chợt tất cả bọn Tây ngồi trong đình choàng mắt trông ra ngoài cổng chính. Một người gầy dỏng, đầu chít khăn, mặc áo chùng the, đi giày hạ, ung dung đi vào sân. Càng đến gần bực thềm, đôi mắt, vẻ mặt và dáng đi của người nọ càng uy nghi trầm tĩnh: trong khi ấy cả tên tri huyện và bọn lính cơ đi sau tuy lăng xăng hối hả, nhưng mặt mày đều quýp lại. Đặc biệt là tên tri huyện huyện bên, vẻ mặt thì rất trịnh trọng nhưng mặt mày lại xám ngoét, mà đầu thì cúi cúi.

- A hả! Thằng Nguyễn Cao định mộ quân đánh úp Đồn Thủy của ta đây rồi!

- Thằng Nguyễn Cao nổi tiếng hay chữ, đỗ thủ khoa, được phong Tán tương quân vụ, mộ quân Bắc Ninh chống lại ta đã bị bắt rồi!

- Cái thằng gầy ốm, viết thì bằng bút lông, cầm không nổi và không hề cầm một khẩu súng mà dám cầm quân kháng cự lại ta đây này!

- Giải cái thằng này về Hà Nội để đại tá của ta xem mặt, biết thêm về các tướng của dân An Nam, thì cũng là một việc, một trò vui ngồ ngộ đây!

Cả bọn Tây nhôm nhổm đứng lên. Có tên vẫn bưng cả bát rượu. Tên quan hai Mặt ngựa lừng lững bước ra trước, gật gù truyền cho thông ngôn:

- Mày bảo tên tri huyện và những thằng lính của nó không cần phải áp tải tên Nguyễn Cao. Mà ta cho phép mày đưa nó vào đây để ta hỏi cung.

Ở gốc muỗm cổ thụ, chỉ thoáng thấy cụ Tán Cao bước vào, cả ông thân trò Ngô và ông lang trên huyện đều tối sầm mày mặt:

- Giời đất! Quan Tán bị bắt rồi!

- Giời đất! Quan Tán không trốn đi được rồi!

- Quan Tán bị bắt ở nhà ta hay nhà ai vậy?!!

- Giời đất! Sao lại để quan Tán sa vào tay quân Tây vậy?!!

Gân thịt hai người lại hằn thắt, và chảy máu thêm vì cựa quậy, giần giật.

Cụ Tán Cao vẫn đi như đi trong vườn lúc đọc sách xong, hay như đi sau bữa cơm chiều. Tên thông ngôn đi sau, chờ cụ bước lên thì nó đứng lại ở trước bực cửa, chỗ bọn Tây đang ngồi ăn uống, khúm núm chắp tay chờ tên quan hai lên tiếng. Mặt hầm hầm, giọng gằn, quan hai Mặt ngựa hất nhìn cái vóc người mảnh khảnh, áo the buông quá gối, chắp tay sau lưng, lặng thinh đứng trước bọn y:

- Hỏi, tên giặc này sao dám chống lại quân Đại Pháp?

- Ta là giặc hay chúng bay?! Chống lại những quân đi cướp nước mà lại là giặc ư?!!

Tên thông ngôn xanh xám cả mặt. Quan hai Mặt ngựa gừ gừ:

- Kìa nó nói gì thế? Nó nói gì thế?!!!

Phải dịch đúng như lời Nguyễn Cao, tên thông ngôn trọ trẹ hỏi Nguyễn Cao và nói với quan hai Mặt ngựa xong, thì toát mồ hôi, tim đập thon thót, chân tay run run, mắt chớp chớp, đầu cúi cúi không dám nhìn tên quan hai mà chờ đợi.

Thì cả quan hai Mặt ngựa cũng thấy như trời đất tối sầm và những tiếng gì, những nhát gì hơn cả sấm sét giáng xuống đầu mình. Cả người nó run bần bật, nó nắm đấm tay, nghiến răng kin kít, nuốt nước như là nuốt những vật gì vừa nóng bỏng, vừa đắng xít trong họng. "Vậy thì bây giờ mày muốn sống hay mày muốn chết?!".

Tất cả trời đất và nhà cửa, cây cối, cảnh vật bỗng như sập đổ, tối rầm trước mặt mọi người. Bọn quan lính Tây thì rú lên.

Không cần nghe hết câu tên thông ngôn dịch, cụ Nguyễn Cao nhếch miệng cười nhìn quan hai Mặt ngựa đoạn rút trong người ra lưỡi dao sáng nhọn, thẳng cánh phập vào bụng mình, rạch rạch, rồi một bàn tay phanh, một bàn tay thọc vào rút tung ruột ra... Bọn Tây thằng thì nhảy chồm qua mâm rượu; thằng thì chạy thút vào sau nhang án; thằng thì hét gọi quân lính; thằng thì bưng mặt, kêu u ú... Tất cả khu sân đình và cửa đình lặng đi. Những ông già, bà lão, đàn bà con mọn bị giải đến ngồi ngoài sân chỉ dám nghển lên trông rồi gục mặt vào lòng, nức nở.

*

*   *

Nhất thế khoa danh bách thế hùng

Điên nguy cơ sự tự thung dung

Thệ tâm thiên địa phi tràng bạch

Khiết sỉ giang san mãn thiệt hồng

Cố quốc cố thần dư nhất tử

Long thành chính khí túc tam trung

Biên đình đa thiểu nhân quan giả

Nhân hỷ nhân sầu nhân úy công (1)

Lại một bài thơ không rõ của ai lại truyền đi khắp Hà Nội, khắp các nơi, sau cái chết của Tán Cao cũng như những bài thơ sau cái chết của tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương.

... Bọn quan binh Tây đã thét lên, bỏ cả mâm rượu, giằng lấy dao và sai chính hai tên tri huyện ôm giữ lấy cụ Tán Cao để chúng nhồi khúc ruột lại mà băng bó. Chúng cho võng cụ về Hà Nội, đổ thuốc cho cụ uống. Cụ phì ra. Chúng đổ sữa cho cụ uống. Cụ cũng phì ra. Rồi cụ cắn lưỡi chết.

Ở trong nhà giam, ông thân trò Ngô nghe tin này, liền đập đầu vào tường chết và đã nhờ những tù nhân chung quanh nhắn hộ lời mình về nhà, về làng xóm và mọi người quen biết rằng lòng dạ mình ăn ở với người thầy của con mình, với quan Tán tị nạn ở nhà mình, cũng xin có quỷ thần hai vai và trời đất chứng giám...