← Quay lại trang sách

Chương XV

Ngược lên, ở những quán hàng đông đúc bên đường hay những phố chợ, những bến đò, nhiều người vẫn để ý đến cái anh trai trẻ ấy. Anh đầu chít khăn xô, áo chùng vải thâm bạc phếch, quần nâu, chân đất, khoác một tay nải lép kẹp, lầm lũi đi, nét mặt vừa buồn rượi vừa nghiêm nghị. Rõ ràng là một người vừa đi chịu tang về và tang không phải là bố, là mẹ thì cũng là một thân thích ruột thịt. Một vẻ nữa làm người ta chú ý là cái thân hình dáng dấp còm cõi của anh ta, chỉ một học trò nghèo túng đang lúc tang tóc mà lại bị hoạn nạn nên mới tiều tụy như thế. Bởi vậy, khi anh nghỉ chân bất kỳ ở đâu, chỗ nào thì lại có nhiều người trông ngắm và hỏi han.

- Bác ở đâu ta lên đây?

- Bác có khăn mới cụ nào trong nhà thế?

- Bác lên trên đây có việc gì vậy?

- Bác đi báo tin cho người nhà ở mãi trên Yên Thế?

- Bác uống nước, ăn bánh với chúng tôi nào!

- Kìa, bác uống với chúng tôi bát nước...

Càng nghe những bà con đi đường bắt chuyện và mời nước, nhất là với những ông cụ vào chạc cụ Tán Cao thầy học mình hay như ông thân nhà mình, Ngô càng thấy trong ruột trong gan như xát muối. Tới khi qua bến Lữ, lại nghe bà cụ xẩm mù đầu trọc, người gầy như con mắm, hát những đoạn về trận Tây đánh thành Hà Nội và những người, những việc ở trong chính cuộc này, thì Ngô chỉ muốn thét lên. Ngô thét lên và đem ngay tấm lụa và mấy nén bạc để độ thân trong tay nải nọ đổi lấy gươm, lấy giáo, lấy súng mà xem ai là người cùng tâm huyết oán thù, trao cho họ để tìm mọi cách đâm chém, bắn giết quân Tây đóng gần đấy, chứ không cần phải đợi đến lúc gặp cai Cừ, nhập vào các đám nghĩa quân trên Yên Thế đây.

Ngô lại còn ân hận điều này: hay là mình nhát, mình sợ nên không lẩn khuất ở gần nhà để tìm phương tính kế, ráo riết trả thù nhà, nghĩa thầy, nợ nước?!! Ngô cũng lại lo ngại nhỡ cai Cừ lại chuyển đi đâu, thì thật không gì buồn hơn! Ngô cho bà cụ xẩm mù và bọn mẹ con nhà nọ cả gói chè lam để ăn đường của mình, khiến mấy người càng chú ý đến Ngô, cho rằng đúng đây là một anh học trò đang tang tóc và có điều gì bất đắc chí, không như thế thì cũng giống một anh cuồng chữ hay là một anh hâm hấp vậy! Khi Ngô đi vượt lên, qua con đường đồi, cả mấy đứa bé nhà nọ đều trông theo. Nhất là thằng phải cõng em và con bé nọ thì không khóc quấy nữa, vì được nhấm nhấm mút mút miếng bánh mẹ bẹo cho, có lẽ cả đời nó tới giờ mới có ăn. Còn thằng anh được miếng to hơn thì lại bẹo thêm cho em, cả hai đứa đều tưởng như trong cơn mơ ngủ, bỗng ông Bụt hay cô tiên nào đến cho nhà mẹ con chúng nó bánh! Còn người mẹ gánh bên nồi niêu bát đĩa, bên đứa con còm nhom, cũng trông theo Ngô cứ phải nghĩ xem hình như đã gặp Ngô một lần nào đấy đi cùng với một anh học trò người làng mình, nhưng dạo đó Ngô không gầy xác và quần áo như bây giờ mà từ bấy tới nay vì cơ sự, tai biến gì xảy ra, nên Ngô trông khác lạ hẳn đi như thế?!!!

*

*   *

Mặt trời chênh chếch non Đoài. Trong hai gian bếp của hai nhà trai tráng ngoài bãi, lửa củi, khói bếp càng bốc đùng, nghi ngút. Nhưng cả bốn toán tập bắn và tập côn quyền cùng Thơm và cai Cừ vẫn như chưa thấy mệt, thấy đói gì cả. Tiếng đốp chát, choang choang của hai bọn đánh giáo mác, tiếng bễ lò kéo phập phò và tiếng người chuyện trò làm bữa ăn trong bếp càng làm bọn bên ngoài hăng thêm, dốc sức thêm.

Chợt cai Cừ buông tay cầm súng chỉ dẫn cho một trai tráng cách nhằm, cách bắn, mà định thần trông ra chỗ vọng gác, cố nhận ra cái người chít khăn đại tang đang ngập ngừng hỏi thăm vừa nhìn vào chỗ cai Cừ, vẻ mặt rất bồi hồi.

- A hà! Sao lại thế này?!! Sao lại thế này?!! Ông cụ Ngô dưới ấy cho Ngô lên tận đây tìm ta có việc gì đây? Cai Cừ trao lại súng cho Thơm, chạy sầm ra. Khi cai Cừ túm lấy cánh tay Ngô, thì Ngô lại nắm lấy cây giáo của anh gác, đầu cúi cúi, nghẹn ngào mãi mới cất lên nhời:

- Bác!... Bác!... Sáng nay em sang Lữ qua núi Nhẫm rồi lên đây... em... em... tang thầy em... và tang quan Tán... quan Tán!

Cai Cừ thét ầm lên, lặng người, chằm chằm nhìn Ngô:

- Ông nhà ta đã mất! Còn quan Tán... quan Tán... làm sao... Làm sao?!!

Chỉ nghe Ngô nói thêm nửa câu nữa, cai Cừ hét lên:

- Quân Tây vây bắt quan Tán!... Quan Tán ta mất rồi! Quan Tán ta mất rồi!... Giời ơi là giời ơi!...

Cai Cừ giằng lấy cây giáo, xốc xốc, dộng dộng thình thịch thình thịch xuống đất:

- Lại thêm oán thù bất cộng đái thiên!... Lại thêm nghĩa thầy thịt nát xương tan khôn trả!!! Thơm ơi! Thơm này! Thơm này! Thơm ơi!...

Thơm xách súng chạy ra vọng gác. Nghe Ngô kể kĩ lại mọi chuyện không những chỉ có cai Cừ và Thơm, mà cả anh đứng gác cũng lặng người đi.

- Thôi, chiều rồi, ta để đinh tráng nghỉ còn đi tắm táp rồi ăn cơm tối. Chú Ngô và anh Thơm về nhà trước... A! Đừng dọn cơm riêng, để chú Ngô ăn cùng với đinh tráng. Ta còn nhiều chuyện, đêm nay phải là thức khuya!...

Ngô vừa vẫn trông ngắm Thơm, vừa trông ngắm những tốp đinh tráng tập luyện ở ba mỏm đồi và ở dọc bờ suối. Vừa tới chỗ tập súng, anh rướn bước kéo giật cả cánh tay cai Cừ và Thơm, nói như nấc như nghẹn:

- Bác cai và anh cả ơi! Súng của Tây à? Súng của Tây ta mua hay cướp được đây? Bác cai và anh cả cho em tập ngay đêm nay... tập súng ngay đêm nay mới được. Giời ơi!!! Bác cai ơi! Anh cả ơi!...

Đi bên Ngô, Thơm càng tưởng như đi bên một người cùng họ Trương với mình. Không! Hơn cả thế, như một em ruột, một em con ông chú như chú phó Thêu của Thơm vậy.

- Anh cả à! Anh cho em tập súng để rồi em nhắn tin về nhà, bảo nhà bán hết gia cư điền thổ, mua cho em khẩu súng, và lên hết đây ở với bác cai, với anh cả...

Ngô van vỉ Thơm và càng phải cố giữ nước mắt vì thấy các đinh tráng cứ chò chõ trông theo mình.

- Hôm ấy, em và anh Bắc có được khẩu súng này thì nhất định cả mấy quan binh quân Tây và thằng tri huyện phải chết! Phải chết! Anh cả à, hay anh nói với bác cai cho anh và mấy đinh tráng về vùng em, chiêu mộ người và tập tành một dạo. Quân Tây ở dưới ấy thế cậy quyền, hoành hành chẳng coi mình ra gì cả!

Thơm nhẩn nha nói với Ngô:

- Nếu tính việc xử sự như chú thì quan Tán đã chẳng phải chịu cái nỗi phó mình cho quân Tây! Chỉ vì phải giữ gìn cho dân trong cái thế cô, lực thiểu nên quan Tán...! rồi cả nhiều người trong làng ta và ở các làng bên chân tay của người, mới để người như thế. Cần chết thì hãy chết! Còn việc đánh Tây, ta phải tính thế lâu dài, lấy đoản đánh trường, lấy ít đánh nhiều, lấy hư đánh thực, lấy kỳ binh mà đánh đại quân!...

Rành rẽ truyền lại những điều trên đây mà lâu nay cai Cừ phân giải cho mình nghe cùng bao nhiêu chuyện, bao nhiêu việc cai Cừ đã từng trải, Thơm lại càng nghĩ thêm, càng thấy quý, thấy quyết tâm hơn. Còn Ngô thì lạ lùng, ngạc nhiên quá sức. Anh vừa như người đang ở trong buồng tối bỗng được mở toang cửa, ôm lấy nắng rực và trời xanh như người đang khát, đang mệt bỗng ai bưng cho bát nước mưa, nước thuốc. Nén bạc và tấm lụa của Ngô đưa, cai Cừ bảo Thơm nộp hết cho quản kho. Khi Ngô vào ăn, chuyện với anh em đinh tráng và anh em đinh tráng nghe chuyện Ngô, ai nấy đều xót xa, căm uất. Nhiều người lại đòi kéo lên Lạng Giang, về Phủ Lạng Thương hay kéo về hẳn Bắc Ninh đánh úp ngay quân Tây để trả thù cho quan Tán, cho ông thân Ngô, và để lấy thanh thế...

Cơm xong, mọi người ngồi xuống nước ở thềm hè và giữa sân nhà ông quản khô. Để giữ lễ độ với cai Cừ, với Thơm và mấy lính tráng có tuổi, Ngô ra sân với đám trẻ. Chuyện lại rào rào. Bốn cái điếu cày cứ tiếp nhau kéo như còi, như sáo, truyền hết tay người này lại sang tay người khác. Trẻ con lại bu đến. Nhiều thằng ngồi chồm chỗm, há hốc miệng nghe, bỏ mặc em bò lê bò la quờ quạng đất cát và cầm lá cây, bã mía, vỏ chuối gặm nhấm ở ngay bên lưng anh mình.

- Bên Hả thế là có hơn trăm quân rồi đấy!

- Hơn trăm quân thôi à? Đến hai trăm ấy chứ!

- Tay Tề dưới Lang Cao mà luyện súng cho quân thì càng mạnh lắm giỏi lắm!

- Nhà cụ Nắm lại cho ngả cả con trâu mới tậu tế cờ, khao quân!

- Nghe nói giáo mác của quân bên Hả toàn thợ Vân Tràng dưới Nam Định đánh cho.

- Thì bên này là thợ Đa Hội chứ kém gì.

- Chiều qua bên Hả lại mua được hai súng Tây nữa đấy!

- Súng mua trên Lạng Sơn liệu có tốt bằng súng ở Hà Nội không?

- Tốt hay không là còn ở tay người bắn nữa. Cũng dao kiếm ấy, thư hùng kiếm và cả thanh long đao nữa mà không có người sử dụng thì có khi không bằng con dao quắm của cụ xã điếc làng ta!

Tiếng cười lại ran ran:

- Cụ đang đe hôm nào xuất quân thì phải để cụ đi cùng đấy!

- Thế thì quân Tây đến phải vứt hết cả súng đi mà chết với dao quắm của cụ xã điếc thôi!

Ở trong này, trên thềm hè, cuộc bàn định càng nghiêm nghị, và càng thấy Thơm vẫn lặng lẽ, thì cả cai Cừ và mọi người càng hồi hộp.

Chả là có ý kiến của cai Cừ nên nhập quân bên Ngô Xá với quân trên Hả, và ý kiến của nhiều đinh tráng lại không thuận.

- Trên ấy người đông, khí giới nhiều hơn, thóc gạo dư dật, lại có những năm tay súng, đạn lại trữ được hàng trăm viên thì trên ấy cứ việc xuất quân. Còn bên ta người ít, khí giới chỉ mới đánh được ba chục giáo mác, súng hai khẩu, mà đạn thì bòn nhặt, đi chạy vạy nhờ thầy thợ nhồi đúc giúp cho mãi mới được hơn năm mươi viên... Nhưng ta cứ phải là ta!!! Huống hồ sự luyện tập của ta nhờ bác cai Cừ bảo ban cặn kẽ, tất cả đinh tráng như thế cũng đã thành thạo, thì ta xem ngày rồi xuất quân trước càng hay! Càng hay!!!...

- Như thế có phải không anh Thơm?

- Phải đấy! Phải đấy! Anh Thơm ạ!!!

- Anh Thơm ơi!... Ta xem được ngày thì xuất quân ngay thôi!

- Nhập với quân trên Hả! Nhập với quân Lương Văn Nắm!! A! Quan Tán Cao mất rồi! Quan Tán Cao chết rồi! Quan Tán Cao sao lại không lên Yên Thế ta?!! Tòa thành của Tỉnh mới vẫn nguyên vẹn đây kia. Dân tình vẫn luôn luôn nhắc nhở đến người... Người tính sao mà lại sang bên xứ Đoài tị nạn. Nếu như quan Tán Cao mà về xứ Bắc và ở Yên Thế bây giờ phát lệnh mộ quân, nổi trống đại nghĩa, thì thế mạnh biết bao? Chẳng phải chỉ chú cai Cừ mà cả ta cũng đem ngay súng đến trước dinh người xin làm bộ hạ và nguyện đi đầu, bất chấp mọi súng đạn của Tây dương. Được như thế, có thể xứ Bắc không để quân Tây kéo tràn đi lên đánh cả Lạng Giang, phủ Lạng Thương, mà ta thì được khai hỏa lập công rồi! Còn như bây giờ nếu nhập vào quân của Lương Văn Nắm, thế sẽ mạnh đấy. Nhưng mà... sao ta... sao ta phải nhập vào quân trên Hả thì mới đánh được Tây?!!...

Tiếng trống, chiêng, tù và ở phía trước càng văng vẳng. Không hiểu bên Hả đốt đình liệu hay thắp thêm đèn dầu gì mà càng sáng rực. Cai Cừ đăm đắm nhìn Thơm, rít thêm mồi thuốc lào, thở phào khói rồi nói:

- Thưa với chư vị anh em, tôi đã cho người đi dò thám xem xét thêm binh tình quân Tây nên mới dám có ý đưa ra bàn định cùng chư vị như thế. Muốn mưu sự đại nghĩa thì phải có thủ lĩnh, muốn chống lại giặc cường thì phải có nhiều người chung sức chung lòng. Tôi không phải là dân đây, nhưng bấy lâu cũng nghe gia thế họ Lương tuy không phải dòng dõi đại khoa, nhưng ăn ở cư xử với mọi người ai ai cũng quý mến. Cụ Lương lại quen biết rộng, nghe nói ngày trước đã theo hầu quan Tán Cao, khi đắp thành Tỉnh mới và chống dẹp giặc Tầu trên phía Cao Bằng, Lạng Sơn tràn xuống, cụ Lương đã bỏ hết thóc nhà ra quyên góp, cưu mang các dân phu cùng bà con nghèo đói... Ta mà nhập với trên Hả, với quân của Lương Văn Nắm thì như chắp thêm vảy cho rồng, thêm vuốt cho hổ. Các vùng, các nơi chung quanh thấy Yên Thế khởi sự mà người người quy tụ, làng làng bó kết, cùng nhau chống giặc thì khí thế sẽ còn dấy thêm...

Bỗng như có tiếng mưa rào hay lũ đổ.

Người reo, trống giục, chiêng dồn, tù và lúc thét.

- Làng Hả xuất quân rồi! Lương Văn Nắm xuất quân rồi!

- Phía trên Lạng Giang quân Tây làm gì mà nổ súng nhiều thế?

Mọi người buông điếu, buông bát, bật đứng lên hết.

*

*   *

Pháo thuyền ấy lại qua cửa Cấm từ Hải Phòng lên Lục Đầu Giang rồi rẽ ngay vào sông Thương. Tàu chạy cứ thênh thênh.

Trên tàu, người cai quản đội quân là quan ba và viên quan một Tôm-he, dưới quyền có một viên đội, sáu mươi nhăm tay súng và một lính kèn. Tôm-he ngồi ở ghế bành lót nhung tím trước buồng lái, đeo một ống nhòm dài, sau lưng có hai lính bồng súng túc trực. Hai bên sườn tàu, cai lính đều đứng thành hàng, súng lăm lăm xả đạn. Ở hai bệ súng to, nòng súng đều hếch cao cái họng mép đồng, rọi lại ánh nắng loang loáng sáng rực. Tàu càng lên phía trên, Tôm-he càng thấy phong cảnh thêm đẹp.

Núi xa thì xanh rì. Núi gần, đồi đất, hai bên sông cây cỏ xanh um. Bờ bãi ngô, khoai, dâu mươn mướt. Làng xóm đồng ruộng vùng đồi hoang! Đây mà mở đồn điền, chiêu dân đói dân nghèo đến cấp tiền, cấp gạo, trâu bò để khai phá rồi thu địa tô, thu thuế ruộng, thì chỉ vài ba năm lãi ra bằng mấy dựng nhà máy mà chẳng lo bị cạnh tranh hay thua lỗ phá sản.

Tuy ngắm cảnh và để tâm trí phiêu diêu như thế, Tôm-he vẫn không bỏ quên những khúc sông, những bãi cát, những bờ lở, những ven làng khả nghi. Mà đúng là phải cảnh giác, phải chủ động. Sao lại có những chặng đóng cừ nguy hiểm thế kia? Sao lại có những mặt nước lập lờ nhiều đá, gỗ, tre pheo chặn đường thế kia? Sao lại có những bờ đất chỉ cần một va động mạnh là sụt lở lấp hẳn dòng chảy thế kia? Mà trong các lũy tre, các bìa rừng, các sườn đồi thì đều lặng ngắt. Không thấy ai đi lại trên đê, cũng như không thấy ai ở ngoài đồng ngoài bãi cả!

Để thị uy và cũng để cảnh cáo những kẻ dám chống cự lại mình một cách ngu muội, Tôm-he thỉnh thoảng lại hạ lệnh cho nã súng vào những chỗ, những nơi, những quãng có thể đang ẩn náu những tên xuẩn ngốc, mưu toan những hành động mất trí.

Qua Phủ Lạng Thương tiến lên Bố Hạ, pháo thuyền bắt đầu gặp phải nhiều khúc khuỷu sườn đồi, bờ ghềnh của dòng sông Thương nước dần dần xanh rêu, cả rừng núi lẫn làng mạc hai bên rậm rịt một cách lạ. Còn phía xa, phía trên kia thì rừng núi lại càng trập trùng, ngun ngút... Cố nhiên quan ba chỉ huy hạ lệnh giảm tốc độ của pháo thuyền và quân lính phải sẵn sàng hơn để đối phó với những sự bất trắc.

Cùng ngày hôm ấy, một toán quân từ Bắc Ninh tiến lên Yên Thế bằng đường bộ qua Sen Hồ, Bích Động. Chỉ huy là quan hai Mặt ngựa có hơn ba mươi lính Tây, hơn sáu chục lính ta đội nón đĩa vừa mộ được mà hơn hai chục người chuyên làm dân phu, dắt lừa ngựa, thồ đạn dược, gạo thịt và đồ đạc. Tuy đi bộ nhưng toán này đi cũng khá nhanh. Một phần vì Mặt ngựa ra lệnh, một phần vì đã đánh một bữa chiều hôm qua và sáng nay thật no nê với hai con bò mua rẻ được mà người đi mua là đội Quán, đội Quán đốc thúc đám dân phu này và dẫn đường cho quan hai Mặt ngựa.

Theo kế hoạch của quan năm đóng quân ở Đáp Cầu, Bắc Ninh và đã được Hà Nội duyệt thì để thăm dò rồi tiến tới chiếm đóng toàn bộ Yên Thế và dẹp trừ những sức kháng cự của nơi đây, hai toán quân của Tôm-he và Mặt ngựa sẽ tiến và hội quân ở Cao Thượng rồi sẽ lên đóng đồn trú ngay phủ lỵ Yên Thế ở Nhã Nam, sau đấy sẽ mở các trận tiễu trừ vừa thiết lập công cuộc bình định.

Đội Quán đưa quân Tây đi đường cái quan, qua núi Tam Tầng thì tắt lên Bích Động. Vùng đây đã rộng, ruộng bãi bỏ hoang nhiều, lại thêm tin Tây kéo quân qua, nên càng tiêu điều. Không như đội Quán phớn phở ra mặt vì đi với một đội quân trang bị toàn những súng ống đạn dược tốt và lên đóng một nơi toàn những dân ấp khốn khổ khốn nạn của tứ phương thiên hạ là đất Việt Yên, Yên Thế kia, quan hai Mặt ngựa càng lạnh lùng, nghiêm nghị.

Quá Bích Động, đồi bãi không cao, không sâu, không rậm, không nhiều dốc, nhiều lũng, nhiều suối, nhiều khe mà đường đi thì lại quang lại rộng, nhưng càng hoang vắng. Có những quả đồi, những bãi bằng mênh mông không thấy một chòm xóm, một túp nhà, một bóng người nào hết. Chim sẻ đồng cứ từng đôi vút lên... líu ríu vang trời. Đất như nung. Cỏ áy, nắng ngùn ngụt.

- Đất dai thế này thì làm ăn sao được mà chả đi theo quân phiến loạn!

Mặt ngựa sực nghĩ đến những làng chài ven biển Nam Định, Ninh Bình, cát bãi chang chang, ngoài thì biển mặn bao la, còn đồng ruộng bên trong không khô nẻ thì cũng đóng những lớp váng như dầu, như sơn. Một thầy cả em mẹ hắn theo tàu nhà binh về đây chỉ truyền giáo có hơn một năm mà rửa tội được hàng mấy trăm dân rồi lập ngay một xứ đạo và xây hẳn nhà thờ... Ở mấy vùng gần đấy, quân Pháp chưa kéo đến, đã có trùm trưởng đi đón rước với hàng gánh đồ lễ toàn những trứng gà, tôm he, cá thu, cua gạch và chuối ngự... - Ba thằng chó lợn ở Hà Nội và Bắc Ninh đẩy mình lên vùng này để làm chúa mọi da đỏ hay da đen đây?!". Quan hai Mặt ngựa nghiến nghiến hàm răng, tự nhủ.

Thấy cả quân mình và lính, dân phu An Nam đều mồ hôi mồ kê nhễ nhại, bước chân lặc lè, quan hai Mặt ngựa liền gìm cương ngựa đưa mắt gườm gườm nhìn bọn hạ sĩ quan bắt phải đốc đi nhanh nữa để đến đúng giờ nơi hội quân. Với ai chứ với quan ba chỉ huy trận câu lơn và đóng chiếm này, mà chậm trễ chỉ mươi phút thôi, chẳng cứ phải gặp những biến cố gì xảy ra, hắn cũng đủ bị lột lon và đưa ra tòa án binh ngay tức khắc.

- Bác Nắm à, đúng quân Tây đổ lên Bố Hạ một cánh, Lục Liễu một cánh, Bích Động một cánh, thế nào cũng tụ ở Cao Thượng rồi lên Nhã Nam lấy phủ Yên Thế...

Nghe Tề nói, Nắm mỉm cười:

- Thế thì cả cánh quân Lục Liễu và cánh quân Bố Hạ đi vào lõng của ta. Ta phải chụp cánh quân Lục Liễu khi chúng nó chưa qua Hả, không cho chúng nó kịp gặp cánh quân Bích Động. Chú cho truyền gấp tin này để bọn trên Dương Sơn tiếp ứng và chụp cánh quân Bích Động.

- Cứ chờ chúng nó đang lúc hội quân, ta và Dương Sơn cùng chụp có hơn không?

- Nếu ta có được mười lăm tay súng thì đánh như thế cũng lợi đấy! Đây cánh ta chỉ có năm súng thì để cho Dương Sơn giữ hai. Ta phải xuất kỳ bất ý đánh chợp lấy trận đầu vừa để cướp súng, vừa cho quân Tây chúng nó biết tay đất Yên Thế ta, mà dân Yên Thế ta thì thêm nức lòng.

Nắm ngừng lời, trông hút về phía quân Tây đang tiến:

- Dù chỗ ta mai phục rất kín và lợi thế, cái lõng của ta để quân Tây đi vào đường tuy rộng nhưng là độc đạo, ta cũng cứ phải đánh thật nhanh, không cho chúng kịp trở tay, rồi phải rút ngay vào phía trong đi lên phía trên, không cho chúng đuổi kịp rồi vây ta...

Những đinh tráng lăm lăm giáo mác, trong các bụi rậm gốc cây ở sườn đồi đều nghển nghển cổ lắng nghe rõ nữa. Tề càng đăm đăm nét mặt:

- Bác à, thế thì bác phải xử cây súng mới mua ấy!...

Lương Văn Nắm lắc đầu:

- Không! Không! Tôi đánh mã tấu đã quen và tôi cũng chỉ thiện giáo mác hơn súng ống. Vả lại cây súng còn phải để bắn chặn nếu quân Tây xông lên đồi. Hà hà! Cùng hơn ba chục tay dao, thanh phạng và mác mà nhảy bổ xuống chém quân Tây thì mã tấu này làm gì chả phạt cụt đầu mấy đứa. Rồi lấy súng Tây mà bắn Tây chứ!

Đã quá trưa. Cánh quân của Tôm-he đã ăn bữa nữa trên pháo thuyền và nghỉ ngơi thêm hẳn mười lăm phút để uống nước. Nhiều tên lính còn cố nốc rượu, vừa chùi mép vừa khoác súng xuống tàu. Tuy chỉ là đường làng, đường huyện nhưng khá rộng. Đất đồi sỏi son, qua trận mưa đêm trước, nay thẫm lại, man mát. Làng mạc phần đông xa bờ đường hay nếu có xóm có trại nào ở gần cũng đều rào rấp, bỏ chạy vào phía đồi núi bên trong hay lên phía trên. Quả đồi Cao Thượng như trong kế hoạch là nơi hội quân và đồn trú để rồi tiến lên chiếm phủ lỵ kia, mỗi phút một nhích lại gần trông rõ từng gốc cây, từng đám bụi. Mây trắng trôi tản, dồn tụ như vương xuống cả ngọn đồi.

Quân Tây đi hai hàng song song, tay lăm lăm ở cò súng. Có tên chăm chú nghe ngóng động tĩnh, có đứa phì phèo thuốc lá, nghênh ngó vào các làng và những núi những đồi xa xa. Có thằng đã tính đến việc phải có một con gà mái ghẹ quay ăn với cà chua sống trong bữa chiều mai khi lấy xong phủ lỵ. Có thằng lại tiếc không nạp, giấu một bi đông rượu nặng để... giải khát chặng đường tới... và tối mai sẽ phải sục sạo bằng được một con gái nhà quê!...

Sắp đến khúc đường một bên là sườn đồi um tùm sim, mua, cỏ lưỡi rắn và các gốc thông già cằn, một bên là bìa làng lũy tre gai rào kín, tên đội liền ra lệnh bắn hàng loạt vào đây cũng để thị uy và đề phòng sự bất trắc. Rồi đúng như Lương Văn Nắm, Tề dự đoán, toán quân Lục Liễu không qua đây mà tạt vào trong ruộng lên con đường đồi dốc phía sau. Cho bọn Tây kéo đến giữa dốc, chụm lại, trèo qua một mô đá lởm chởm để tỏa lên đồi, Tề nổ súng phát lệnh. Tên đội Tây bị trúng đạn. Tiếng reo, tiếng hét cùng những lưỡi mã tấu, thanh phạng, mác rầm rầm chồm xuống bọn chúng. Hai tên lính Tây bị Nắm phạt một thằng mất nửa đầu, một thằng gần đứt cổ và toang ngực. Năm khẩu súng bị chộp đánh loáng, nghĩa quân còn giựt thêm được cả mấy băng đạn, mới chịu chạy sang bên kia đồi.

Khi những thằng lính bị cướp súng hoàn hồn và những thằng bỏ chạy quay lại bắn đuổi thì nghĩa quân đã vượt qua sườn đồi, vòng khỏi lối sau để thoát vào phía làng trong...

Đúng lúc cánh quân của quan hai Mặt ngựa đã đến đầu dốc. Mặt ngựa đã bắt lính và dân phu của hắn vừa đi vừa ăn cơm ăn bánh. Sắp tới Cao Thượng, chiếu ống nhòm thấy thấp thoáng bóng lính của cánh quân Lục Liễu, hắn càng thúc mọi người đi nhanh. Rồi khi đi khỏi một quãng dốc đổ xuống đầu đường đồi thì hắn xuống ngựa, bắt một tên lính Tây dắt đi song song với hắn, che phía bên ngoài, còn hắn đi ở gần phía giữa hàng quân. Chỉ vừa nghe tiếng súng phát hỏa của nghĩa quân, thì hắn nhận ngay bọn chúng đã bị đánh úp, nên lập tức hô lính cùng hắn ào lên chiếm lấy đỉnh dốc đường đồi phía sau để vừa đón chặn nghĩa quân vừa bắn thúc, truy diệt nghĩa quân, cứu nguy cho cánh quân bạn.

Nghĩa quân bị bắn bất ngờ, sững lại. Thấy ở địa thế bất lợi, nghĩa quân phải tỏa ra, kẻ nằm, người nép vào mô đá, hốc cây, bờ ruộng để tránh đạn. Tề và tay súng mà Lương Văn Nắm nhường súng cho, không chịu nằm, chịu chúi mà tìm ngay hai mô đá, quỳ núp bắn trả. Đạn Tây cứ chíu chíu qua đầu, qua mặt, qua vai nghĩa quân. Nhiều mỏm đá ở trước mặt nghĩa quân tóe lửa, khét lẹt. Mấy thân cây sạt tung cả mảnh vỏ vào mắt người cúi tránh. Ở bờ ruộng bùn đất bắn tung lên.

- Sao lại thế này?

- Sao lại thế này? Cánh Dương Sơn sao lại đến chậm thế này? Có việc gì ngãng trở mà cánh Dương Sơn vẫn chưa đến tiếp ứng?

- Lâm gầy dưới Lang Cao bị trúng đạn rồi!

- Hai sẹo ở Hả cũng bị trúng đạn nốt rồi!

Nghe tiếng gọi nhau của nghĩa quân ở dưới ruộng và cạnh bờ đường, Lương Văn Nắm thấy ruột gan đầu óc như có dầu sôi lửa đốt. Sao Nắm chắp được đôi cánh mà bay lên để chém xả cái thằng quan đeo lon vàng, mũ vành vàng đang hô, thét trên cao kia... và làm sao cho tất cả nghĩa quân đây rút khỏi được quãng này, kẻo chỉ chốc lát nữa thôi, cánh quân Lục Liễu nó vòng được sang đây thì nguy khốn vô cùng...

*

*   *

Nghe người mình đi thám thính về báo tin đúng là quân Tây đang kéo từ Bích Động để lên Ngô Xá tụ ở đồi Cao Thượng cùng với cánh quân Lục Liễu đang rục rịch ra đi, cai Cừ và Thơm phải kêu gọi ngay quân của mình không nên nôn nóng.

- Phải đi đón đánh ngay.

- Phải đánh chặn ngay Tây. Trên Hả thế nào chả đón đánh cánh quân Lục Liễu.

- Trận đầu ta ra quân mà để lỡ dịp thì ức lắm!

Ngô và mấy đinh tráng cứ sầm sầm khoa mã tấu giáo mác đòi đi ngay. Cai Cừ giữ giữ, níu cánh tay mấy anh em nọ:

- Được, quân ta đánh ngay... quân ta đi đánh ngay mà! Nhưng mà đã đánh thì phải thắng! Nhất là trận đầu thì phải là trận đánh thắng!

Cai Cừ, Thơm và mấy người đinh tráng có tuổi bàn tính thêm mấy việc rồi chia làm hai toán. Toán đánh vào khúc giữa: Thơm đảm nhận với Ngô. Toán đánh vào khúc đuôi và bảo vệ cho nghĩa quân khi cướp được súng, rút vào rừng nếu bị truy đuổi thì cai Cừ với mười nghĩa quân người Ngô Xá.

Bốn mươi nhăm nghĩa quân rùng rùng ra đi.

Cánh Thơm tiến lên sườn quả đồi làng Dã, mé bên kia đồi Cao Thượng, thì nghe thấy súng nổ và đúng lúc quan hai Mặt ngựa ra lệnh quân lính chạy dàn lên đầu dốc đón cánh nghĩa quân của Lương Văn Nắm mà bắn như quạt đạn.

- Quân Hả bị chặn đường vào làng rồi!

- Quân Lương Văn Nắm đã cướp được súng rút chạy nhưng bị chặn đường rồi!

- Quân Tây bắn quân ta rát quá, bác Thơm ơi!...

- Bác Thơm nổ súng đi chứ!

Thơm giơ tay:

- Chờ tôi khai hỏa, mà đã khai hỏa thì ào xuống đường ngay. Nào anh em... vào trận... vào trận...

Thơm cùng Ngô lần lần đến một bụi cây có những gốc to hàng người ôm, đứng cách nhau độ hai bước, giương súng ngắm thằng quan hai Mặt ngựa đang hò, đang thét quân lính phải nhắm bắn không cho nghĩa quân nào nếu không chết thì cũng không chạy thoát khỏi lưới lửa của hắn. Rồi hắn sẽ đổ quân xuống bắt gọn cả đám nhà quê liều lĩnh, dại dột này, không cho cánh quân của Tôm-he kịp xí phần. Như thế là hắn sẽ banh mắt gã quan một trẻ tuổi, hãnh tiến, coi các sĩ quan và binh lính ở cơ ngũ khác.

- Bác Thơm ơi! Bác Thơm ơi! Lại thằng Mặt ngựa! Đúng thằng Mặt ngựa! Anh cho em nổ phát đạn này để giả nghĩa quan Tán Cao, giả nghĩa cho cha em!...

Nói đoạn, Ngô giương súng, mắt nhoi nhói, cánh tay vững như một giá sắt, thở rít vào một cái rồi bóp cò. Cũng vụt như tia chớp, phát đạn của Thơm vút xuống một thằng cũng đeo cả lon vàng, lon bạc, đội mũ lợp vải vàng, gắn một miếng gì như bằng đồng ấy và cũng cầm súng báng ngắn.

Mặt ngựa rú lên. Một bên thái dương như bị sét đánh. Mặt mày sa sầm, chúi chúi người rồi ngã vật. Ngô bồi thêm phát đạn nữa rồi quay ra nổ đạn vào một thằng cầm cờ tam tài đang lăm le phất ở trước Mặt ngựa. Cũng như chớp sáng, không hiểu của tay súng làng nào hay của cánh quân nào mà lại từ một mỏm đồi cao trông xuống đầu dốc, bắn vun vút xuống đám quân Tây. Tiếng reo hò, tiếng thét, tiếng gọi nhau, tiếng hô "chém" rào rào chồm xuống đầu quân Tây với những mã tấu mác, thanh phạng loang loáng, phầm phập không để cho kẻ địch kịp mở mặt.

- Có quân cứu ứng rồi!... Nắm hét lên - Có quân cứu ứng rồi! Quân Dương Sơn hay quân Ngô Xá đấy?!! Lẽ nào giời lại đoản ta! Đoản ta!

Nắm chồm lên:

- Mau, tất cả rút mau xuống con mương, vượt sang ngay đường vào làng trong kia.

Tề cũng thét lên:

- Rút ngay xuống mương anh em ơi! Đi hàng một... đi hàng một thôi!... Bác Nắm và hai tay súng đi trước... đi trước đi... Để tôi đoạn hậu.

Nắm xốc lại mã tấu, không khom, hai tay bế ngang lưng người nghĩa quân làng Hả đầu ri rỉ máu đi sau hai tay súng. Tề nhất định không để anh em đỡ cho mình, cứ cõng anh nghĩa quân người cùng Lang Cao, tay vẫn cắp súng mà chạy.

Khi những phát đạn của cánh quân Tây Lục Liễu vừa nổ theo, thì tất cả đã sang khỏi đồi bên kia. Nắm và Tề vội đặt hai xác nghĩa quân xuống một bụi sim. Nắm thở dội một tiếng và lại chồm lên khi Tên nghển nghển trôn, vừa reo vừa trỏ:

- Quân Ngô Xá, bác Nắm ơi! Anh em ơi!... Quân Ngô Xá!... Đúng Thơm làng Trũng, đúng Thơm, đúng Thơm con nuôi cụ khán Tích ở Trũng kia mà.

Đầu chít khăn nhiễu Tam Giang, áo cánh nâu rộng tay, lưng thắt một miếng vải điều, cái anh khổ người tầm thước, vai dày rộng, mắt quăng quắc gan lì ấy, hai vai đeo hai súng, tay xách một súng, đã vút lên đồi, đứng nép bên một gốc cây, nhằm bắn lại những tên lính Tây đang xả đạn đuổi theo nghĩa quân rút về trong làng.

Lương Văn Nắm nhìn, tròng mắt như sắp nứt, nghẹn ngào:

- Yên Thế lại còn thêm cánh quân Ngô Xá của Thơm nhà cụ khán Tích!... Lại có được thêm cánh quân của Thơm nhà cụ khán Tích. Chú Tề và hai chú ở Hả à, lên mỏm đồi kia bắn ngay lại quân Tây để cánh quân của Thơm mừng cho quân Hả ta đã thoát hiểm cùng với quân Ngô Xá lại đánh mạnh trận mở đầu của đất Yên Thế.