Chương XVI
... Không cần nghe các toán quân trực thuộc báo cáo thêm, thấy cả Tôm-he cùng Mặt ngự đã tới Nhã Nam, dốc Cao Thượng đóng rất chắc, tướng Lít(1) liền ra lệnh ngay cho nã trái phá vào Tỉnh Đạo và đạo quân chính phải hạ bằng được thành này trước khi trời tối. Các cánh khác giữ việc bao vây, chặn đánh và canh phòng phải hết sức phối hợp sao cho quân của đốc binh tỉnh giữ thành và nếu như có nghĩa quân đến cứu ứng thì bị diệt gọn, cũng như phải làm sao cho tất cả vùng này, dân đâu cũng choáng váng, khiếp sợ vì cuộc hành binh này của đại Pháp lên Yên Thế.
Ở cả từ những ngọn đồi cách Tỉnh Đạo không xa, và những bờ đất cao phía trước mặt bắc, mặt đông nam và mặt tây nữa, những quả đạn gớm ghiếc cứ rầm rầm, uỳnh uỳnh nối tiếp nhau giáng vào giữa thành, các chòi canh, các cổng thành. Chưa đủ! Các cánh rừng và đồi núi lân cận có lối rút lên phía Yên Thế thượng hay sang phía Thái Nguyên cũng rung chuyển, bốc cháy. Nhiều xóm, nhiều trại, nhiều làng đều tưởng chừng quân Pháp đã tiến sát mình, tràn vào tới nơi rồi, ngay trong những tiếng nổ và đạn lửa mà trời đất nơi mình không thể chống giữ!
Đốc binh tỉnh cùng ba viên đội, hơn hai trăm quân bản bộ kéo chạy từ Bắc Ninh lên và các đốc lĩnh nghĩa quân của các làng Liên Sơn, Hả, Dinh, Ngò, Lang Cao, Lèo, Dĩnh Thép, v.v... đã chia nhau đi giữ cả bốn mặt cùng với tất cả trai tráng, và đàn ông làng Ninh sở tại.
Ngay từ hôm bỏ thành lên Tỉnh Đạo, binh lính của đốc binh Bắc Ninh mới vững dạ. Không những chỉ dân làng Ninh trong thành và dân mấy làng chung quanh gánh thóc gánh gạo cho kho lương thổi nấu ngay để quan quân ăn, mà cả những làng đã rầm rộ từ mấy hôm nay nổi trống tế cờ, hay những làng vừa thấy tiếng súng của mình sáng nay chống trả lại quân Pháp ở mấy nơi, cũng cử người nhập quân và đóng gạo, thóc, mắm, muối. Nhiều cụ già còn bảo con cháu để mình đi giữ thành, nhưng không được, đã phát khùng, chửi mắng cứ như điên... nhất là khi các cụ thấy người nhà, người họ mình kẻ thì bắt mình theo đàn bà con gái đóng gánh chạy vào phía trong, lên phía trên, hay luồn về hẳn dưới tỉnh Bắc Ninh, ở mấy làng ven đã yên ổn.
Đốc binh tỉnh cùng mấy viên thống lĩnh quân gia các làng ngồi ở cột cờ đốc chiến!
Từ hôm nhập cả quân gia Ngọc Cục của mình với các giai tráng làng của Thơm và làng của vợ Thơm, bà Phúc càng nổi tiếng. Không hào phóng ngang tàng như Lương Văn Nắm ở Hả, hay như mấy thống lĩnh khác ở Sặt, ở Dinh, nhưng là người từng mộ quân đi với nào quan lãnh binh Bắc Ninh, nào ông cai Kinh, nổi lên đánh Pháp, nhất lại là người cùng ông khán Tích tác thành cho Thơm việc lập gia đình và kéo Thơm đi theo mình nhiều trận, nên bá Phúc coi cũng như ông bố nuôi Thơm vậy.
Cả mấy cụ có tuổi làng Ninh đều ở lại nhà một ông cụ đằng sau chòi đốc quân vừa để hầu nước quan tỉnh và các ông đề ông đốc trong huyện, vừa tỏ rằng mình cũng là người không chịu sự đớn hèn, bỏ chạy, trước quân giặc vẫn có mặt trong lúc lâm nguy cùng với làng nước chống giặc. Cụ bà nhà ông đồ Mốc chạy vào trong làng ở nhà bên kia các cụ ông, hậm hụi dưới bếp. Tuy trông cả ba nồi nước vối và sắn luộc, nhưng bà cụ vẫn không bỏ sót một động tĩnh gì ở bên ngoài cũng như trong thành.
Cụ bà chỉ gánh theo tấm bài vị bọc sách của cụ ông, hũ gạo, bị quần áo tùy thân và thúng hương đã se để ngày kia phiên chính chợ tỉnh thì giao cho mấy hàng quen, còn bỏ hết các thứ và cũng chẳng rào rấp cổng ngõ...
À, lúc đi khỏi gò đất đầu lối vào nhà, cụ bà trông lại thì càng không thể không thấy nhói thêm trong tâm, trong dạ. Và bà cụ đau như quặn lại, như rứt cả ruột, vì không nghĩ đến việc xếp mang đi đôi câu đối và bộ đồ chè cũ kỹ.
- Chúng nó không lấy đi những thứ này đâu. Nhưng tiện tay thì chúng nó cứ đốt nhà... đốt nhà...
Cửa nhà bếp cụ đồ bà đang đun trông ra bệ cột cờ và chòi đốc quân. Cách đấy một bãi rộng có mấy lớp nhà gỗ mái tranh ngày trước quan Tán Cao làm công đường và tư thất. Tuy chỉ được gặp quan Tán đôi lần, nhưng đến nay, cụ đồ bà vẫn cứ thấy từ dáng vóc, đến mái tóc, vầng trán và đôi mắt, (nhất là đôi mắt) và chòm râu của quan Tán cứ hiển hiện như cụ đang đi, đang đứng, đang ngồi ở trước mặt mình.
Cũng như không trông lên chỗ đốc binh đang họp, không nghe tiếng nói, không nhác trông ai cả, từ Bá Phúc, đến ông Nắm, ông Sử, mà bà cụ tuy không quen không thân, nhưng đều biết tiếng mấy ông này và đã có lần đến chơi với "ông ấy"... bà cụ đồ lại càng nghĩ càng thấy không thì thôi, chứ mỗi lần đưa mắt bắt gặp thì cứ như lại có "ông ấy" và cả cái nhà bác Ngọ, cả ông phó Thêu nhà Thơm cũng đều như ở đây kia. "Có phép gì làm các người ấy sống lại mà cùng đánh Tây trong lúc này nhỉ?!".
- Giời đất! Bà nó à! Bà cụ đồ à! Bà không chịu chạy vào trong kia mà cũng bỏ nhà vào thành với đốc binh và nghĩa quân ư?!! Chao ôi! Ối chao ôi! Chúng tôi không sống lại sao được? Hay chúng tôi có bị chết chăng nữa vì dân vì nước thì cũng chẳng ân hận gì!... Có chăng chỉ ân hận mỗi điều...
Bà cụ đồ càng thấy trời đất ở trước mắt ở chung quanh mình khác lạ. Cùng với cả trí tưởng của bà cụ, những củ sắn lục sục trong hai cái nồi đồng ba mươi và hơi nước sôi của nồi chè xanh phùn phụt, nếu như có thể thành đạn, thành dầu mà bắn mà giội vào quân Tây thì sung sướng biết bao, để chống lại những thần công trái phá, tàu đồng, xe súng của chúng nó cậy thế cậy sức hoành hành, tác yêu tác quái...
Trong những đám người lớn tợn tạo ấy không những chỉ nhiều trai gộc mà còn có cả những trẻ con, đứa còn để chỏm, đứa quần cộc rách bươm, chật hết cả cu cò, và đứa vẫn cõng em. Càng những đám có các cụ nhiều tuổi hay những ông những bác hay chuyện trò bàn tán thì càng nhiều đứa bám theo. Đám người nào cũng có những bụi những hốc, những hẻm, những ngách, vân vân... để ẩn núp mà chính những người lớn thông thạo nhất cũng phải ngạc nhiên vì bọn trẻ chỉ dẫn thêm cho mình và đúng là nơi hiểm hóc chưa từng biết hay chưa từng nghe nói đến.
Chỗ thì ở ngay rìa đường quân Tây kéo quan, chỗ thì ở sườn đồi quân Tây đang vượt. Chỗ ở ngọn núi, ở bìa rừng quân Tây đang đào hố, đào hườm. Chỗ ở ngay lũy tre hay bờ bụi quân Tây đang dàn các cỗ súng và các hòm đạn. Thú nhất là ở những chỗ nấp nghe được thấy cả chúng nó mặt như mặt nạ, mặt ma, mặt quỷ, nói xì là xì lồ, nhồm nhoàm ăn uống, hút thứ thuốc khét như lông bò cháy, và thoang thoảng thứ hơi như hơi ngựa. Thú vì chờn chợn! Thú vì nghĩ đến giá mà có cơ có thể thì xông ra mà cướp súng hay cũng có súng mà nhằm bắn thì cứ là xuyên táo. Mà hả nhất là bắn những thằng Tây giữ những khẩu súng to, những xe súng, những hòm đạn kéo đi lệch xệch lặc lè kia kìa...
Càng nghe mấy người lớn bàn tán, bọn trẻ càng như mê như cuốn.
- Mẹ kiếp cái thằng con nhà thầy cúng lại không đi với cánh này. Chả là bố nhát như cáy ấy!...
- Cái thằng dái Thân đã có con em nó cõng thằng Cún cho mà cũng quay về bám đít con trâu!
- Á! A! Chả là con trâu nhà nó mua rẻ được của bọn bắt trộm trên Lạng Sơn hay vớ được trâu lạc lúc Tây đánh lên đây mà!
- Tây cũng ăn cả thịt trâu à? Sao bảo họ chỉ biết ăn thịt bò?
- Ối lêu ơi! Nó thì hút một lúc cả ổ trứng gà ấy. Chuối thì ăn hết cả rổ sồng. Mấy con mẹ ở chợ Nhớn đã làm thịt chó nướng chả và nấu nhựa mận đem cho chúng nó ăn, đổi lấy quần áo rách của chúng nó và những thứ gì lạ lắm!
- Chuyến này nó lên hạ thành xong thì đóng hẳn ở Tỉnh Đạo, Yên Thế mình còn nhiều nơi nữa nổi lên, đánh nhau phải to lắm!
- Thôi! Thôi! Im để nghe cụ Vệ Ước nói nào!
- À à à... đại bác Tây đã bắn rồi...
- Súng thần công hay súng gì của mình bắn lại thế kia?
- Quả lửa! Đúng quả lửa trong thành bắn ra!
- Úi mẹ ơi! Súng của nó bắn cứ như mưa thế kia kìa...
Ở cả những bụi những hốc không trông thấy quân Tây mà chỉ nghe tiếng súng, ai nấy đều lặng bặt. Người người đều bứt rứt, da thịt như bị kiến đốt. Nhiều cụ ông đứng hẳn dậy, kiễng kiễng chân, yết hầu giần giật như cố trông rõ hơn hay nghe rõ hơn. Cũng nhiều người có tuổi lặng hẳn vẻ mặt và nhiều giai tráng cứ thở hưng hức, tay vung chân dận, gọi hẳn tên các cụ các ông quen thân lên mà rít tiếng:
- Tức quá giời ơi!... Uất quá cụ ơi! Tây chiếm mất Tỉnh Đạo cụ ơi!... Phải đánh lại cụ ơi!...
Trong các bọn trẻ con nhiều đứa cũng chồm chồm, nhổm nhổm lên họa theo...
*
* *
Đám khói lửa bốc cháy trước nhất ở ngoài thành Tỉnh Đạo là ở Giốc Đỏ, nhà cụ đồ Mốc. Cả thằng cai theo hầu quan hai Mặt ngựa và thằng thông ngôn tập sự bảo nhau phô chuyện cụ đồ Mốc với quan thầy xong thì cùng nhau châm lửa. Những gánh củi khô, những gánh dùng để đan rổ rá, những gánh guột để làm vành nón và chỉ khâu nón và những gánh nến nhựa trám để làm hương của những bọn đi rừng về gửi chất đống ở trước cửa sân sau nhà cụ đồ, bắt lửa cứ ngùn ngụt, phụt khói lên rất cao và rất xa. Trông ngọn lửa và ngửi mùi khói thân thuộc từ phía đó tỏa về, Thơm và các giai tráng đều cồn cào cả người không sao chịu được.
- Mẹ chúng mày! Thế là bốn gánh dùng và hai gánh guột của ông xếp để bán phiên chợ chính này mất hết!...
- Các chú không đau bằng bọn này, đang một chục sọt "nến trám" đã ăn giá với người ta, giá bán ngay phiên xép thì đã đong được thúng gạo rồi...
- Không biết nhà bà cụ đồ có người nào chạy đồ đạc cho không?
Nghẹ Cõn, con vợ chồng bác Ngọ, người bé nhỏ nhất và cũng lành nhất trong bọn, tuy ngồi im nhưng trong dạ thì còn hơn lửa đốt. Sắp giỗ bác Ngọ giai! Cùng ngày cụ đồ ông! Năm nay là năm đoạn tang. Mẹ con Lang đã cùng Thơm giao ước thế nào cũng lên ăn giỗ cụ ông mà cụ bà đã "bỏ vốn" một con lợn để thịt. Tiếng eng éc kia phải chăng là tiếng lợn của nhà cụ bị bắt hay phá chuồng chạy. Giời đất!
- Chú Cõn à! - Thơm gọi Nghẹ - Thật cụ bà vào trong thành chứ?
Một giai tráng nhổm vội lên nói:
- Giá Cõn nó cứ gọi vội và chạy đi đón cụ bà thì cụ bà cũng lên làng trên này đấy!
Thơm lại đứng lặng.
"Bên cụ đồ Mốc thì vào trong thành mà bọn Thơm lại đóng ở ngoài xa này! Chẳng may bà cụ!... Không! Đâu phải là điều may với chẳng may! Chồng nào thì vợ ấy mà! Mẹ nào thì con ấy mà! Đất Bắc đã có mẹ Nguyễn Cao có Tán Cao thì đất Bắc cũng có ông đồ Mốc, có bà cụ đồ chứ!".
Cũng như ở trước mặt bà cụ đồ, trước mặt Thơm, từ những đám khói lửa và những tiếng rùng chuyển, hình ảnh mấy người thân thương nọ cũng hiện lên, vụt ra. Nếu như không có nghiêm lệnh mà Thơm càng nghĩ, càng thấy phải, thấy đúng, thì Thơm nhất định tìm cách đến gần một bọn quân Tây, nhất là chỗ có xe súng và mấy thằng quan kia, mà nổ đạn hạ bằng được năm sáu mạng...
Bá Phúc và cai Cừ chia nghĩa quân Ngọc Cục, Ngô Xá và Lang Cao ra làm hai toán. Hai người đem quân vào thành Tỉnh Đạo cùng nghĩa quân các làng. Toán Thơm đóng ở trên này sẽ phải đánh chặn Tây khi quân ta trong thành rút. Bá Phúc và cai Cừ đã tính với nhau chỉ nên cùng đốc binh Bắc Ninh chống cự, giữ thành đến chiều tối. Dù thành có tường dày, hào sâu, lũy chắc, hầm hố và ụ súng hiểm ác, và dù cả quân tỉnh và nghĩa quân đều hăng hái, gan dạ, nhưng phải tránh sự hao tổn nặng, nhất là để Tây lấy súng to đạn nhiều và quân đông vây hãm quân ta lâu rồi tiêu diệt.
Khi nghe lệnh này mà mình phải đi với bọn Thơm, anh Ngô là học trò quan Tán Cao, liền òa khóc:
- "Thầy thì xây thành chống giặc, chết thì chết chứ không chịu khuất phục. Nay đến lúc lâm nguy, đến nơi thầy mình tạo tác, mà trò tôi lại... Giời ôi! Tôi mà không được chống giặc giữ thành thì còn mặt mũi nào sống ở cõi đời!".
Dứt lời Ngô lại níu lấy áo cai Cừ định vập đầu vào một mỏm đá tự tử. Bá Phúc đã nghiêm nét mặt, nhưng nghĩ đến tình nghĩa Ngô và quan Tán và nhờ có cai Cừ nói thêm nên Ngô mới được chấp nhận. Khi Ngô vác dao lên sắp đi, Cõn vội nắm tay căn dặn:
- Thế nào anh cũng tìm bà cụ đồ cho em nhả. Bà cụ có làm sao thì anh cố dìu dắt ra ngoài cho em... Người bà cụ còm cõi, dáng dấp quần áo anh đã biết, thế nào chả nhận ra. Nhả, anh Ngô cố giúp em nhả.
Ngô cười tỏn hoẻn, lấy cánh tay áo lau lau nước mắt:
- Gớm! Cậu dặn kỹ quá, làm như tớ chẳng biết cái gì cả!
*
* *
... Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
Vào được trong thành, đi sau bá Phúc và cai Cừ vào trình diện với quan đốc binh tỉnh, Ngô chợt trông và nhận ra cái người nọ. Ngô còn khủng khiếp hơn cả khi ở làng nhà bắt gặp Mặt ngựa cỡi ngựa vào cổng làng, đi sau là ông thân mình và cụ lang phố huyện. Đúng nho Quán. Nho Quán đang khoanh tay đứng nép vào bên cột sau lưng đốc binh tỉnh. Đúng cái bộ mặt choắt, nửa dơi nửa chuột, cặp mắt vè vè, và cái lưng khòm khòm cố ý để tỏ rằng mình thân phận hèn mọn. Nhưng chỉ tinh ý một tí là người ta thấy ngay tất cả vóc dáng và mặt mày nọ rất ma quái, không một thứ ma quái nào bằng.
- Sao lại thế này nhỉ? Nó đang hầu quan huyện trên huyện mình, vậy mà thuyên chuyển, chạy chọt thế nào được lên hầu cận quan đốc binh. Hay nó cũng là người nhà quan đốc binh. Chứ chữ nghĩa, trí lực như nó thì ai tin ai khiến, và lại được vào đây theo hầu. Cái ngữ này, chỉ nghe Tây nổ súng gần thành cũng đã mắt tròn mắt dẹt, rồi quân Tây có sắp phá được cổng thành thì không khéo...
Nhưng thôi, dụng người như dụng gỗ, quan đốc binh ta...
Vẫn suy xét, vẫn nghĩ ngợi, Ngô vẫn không thể không nóng lòng được lệnh cùng nghĩa quân cánh mình ra ngay mặt thành không nổ súng trước thì cũng phải ném những quả pháo, những hỏa hổ hay những túi ớt, lọ ớt vào mặt những thằng Tây, rồi khi chúng dám xông lên thì lao thì phập thì sả cho toang ngực, cho lòi ruột, cho đứt đầu năm bảy đứa.
Nho Quán cũng nhận ra ngay Ngô. Tuy hắn vẫn cúi cúi đầu, mắt quym quýp, nhưng trên trán hắn, hai thái dương hắn cùng mi mắt hắn lại như có một thứ mắt rất tinh, rất bén, để chụp lấy các hình ảnh của các con mồi cũng như các tay săn mình vậy. Thì ra thằng Ngô bỏ làng trốn lên Yên Thế đấy! Liệu cái thần hồn mày! Đụng vào ai chứ đụng vào tay ông thì không được đâu!
Trong khi ấy, cả hai tai có đủ vành đủ lỗ nhĩ của hắn cùng với những tai đặc biệt mọc ở khắp người hắn vẫn không chịu bỏ sót một câu nói gì của đốc binh tỉnh và của các người đến tụ hội bàn bạc. Không thể nén nhịn được, hắn phải thốt thầm:
- Cơ mầu này thì làm sao mà giữ được thành. Đến thành Hà Nội còn bị hạ nữa là!... Quan huyện nhà bảo ta lên hầu quan đốc binh, tưởng làm nên trò trống, ai ngờ lại chạy... mà chạy lên đây thì... cả ta cũng bỏ mẹ mất!
*
* *
Từ trong những đám khói đám lửa và tiếng rùng chuyển của cuộc bắn phá uy hiếp của quân Tây, không những chỉ có những hình ảnh các người thân thiết mà có cả đốc binh tỉnh nữa hiện ra, vụt lên trước mắt Thơm.
Đốc binh tỉnh tuy ăn mặc nai nịt và trông người trẻ hơn viên tri phủ Quốc Oai năm xưa vây bắt, tra khảo và sắp cho giải chú cháu Thơm về Hà Nội để hành hình, nhưng sao chỉ thoáng nhìn Thơm cũng thấy đúng là anh em của tri phủ. Đã thế cái tiếng đốc binh đi đánh dẹp ông cai tổng Vàng và rất nghiêm trong việc truy nã triệt hạ các dân, các làng có kẻ theo ông cai tổng, lại càng làm Thơm không thể lầm nhận, ngờ vực.
Ông ta còn hơn cả những đốc binh và quan triều trong những trận đánh dẹp quan giáo Quốc Oai hay những cuộc dấy lên từ thời Minh Mạng mà ông Thơm bị bắt, bị xử... Vậy mà nay ông ta lại bỏ tỉnh, kéo quân lên đất Yên Thế, giữ thành chống Tây mà Thơm theo làm bộ hạ ông!
- Thám à, thế là những điều ông ngươi trước khi nhắm mắt trối lại cho cha ngươi, cho chú ngươi, và công phu chú ngươi gian lao hàng mấy chục năm dưỡng dục từ ngày ngươi còn ẵm ngửa để giữ lấy hột máu đào cho cha ngươi, cho dòng họ Trương... ngươi đem đổ xuống sông, xuống biển cả rồi! Ngươi sống tới ngày nay, mà lại hàng triều đình Huế, đem thân làm tên lính vác súng dưới quyền thằng đốc binh hà khắc cũng có dây nợ gây thù với cả ngươi?! Thám à! Thám à à à!
Không! Không phải người ông nội Thơm nhắm mắt. Dù cái đầu của ông bị chém treo ngành máu phun lên ướt đẫm cả mặt mũi, tóc tai và mắt thì máu đọng khíp lại, nhưng hễ bao giờ sực nhớ đến chú Thơm tả lại cảnh bãi chém, thì Thơm cứ thấy "ông" lại trừng trừng nhìn các quan lại lính tráng và quắc lên như muốn gọi các con cháu và mọi người nhưng bị nghẹn lời.
- Giời đất! Ông! Thù nhà và nghĩa cả Thám con đã ghì xương tạc dạ, thì cho dẫu có chết con cũng mang theo. Nhưng nay lại thêm nợ nước, mà nợ nước thì...
Luôn năm phát đạn trái phá của cả mấy toán quân Tây vây thành đều nổ toang, như xé hết trời đất. Riêng cánh của Mặt ngựa ở Dốc Đỏ đầu đường nhà cụ đồ Mốc và đạo quân của tướng Lít có lẽ súng to hơn, nên làm chuyển dội ra cả khu phía tây và khu phía bắc. Những vầng khói phụt lên cuồn cuộn đen rầm. Hình như chỗ cột cờ trong thành đã bị trúng đạn. Nhưng súng trong thành vẫn bắn. Không từng loạt rào rào, không vang tiếng. Những phát đạn veo veo từ cả hai chòi gác ở góc mặt bắc và góc mặt tây. Còn có cả những quả lửa bắn cầu vồng ra bằng lẫy bật tre đực và những hỏa hổ phụt bằng ống đồng, ống gang...
Thơm càng đứng lặng, Tề và Phúc ở Lang Cao càng nhấp nhổm:
- Bác Thơm nhỉ, cứ để Tây bắn rát nữa rồi đến gần ta, ta mới bắn trả thì hay quá. Em mà ở trong thành, em cho chúng đến hẳn bờ hào ấy, mới nổ súng, không thì em bắn ngay từ Dốc Đỏ hay lên núi kia cũng vẫn ngon ơ!
Phúc không để Tề nói thêm, văng tục:
- Làm sao có trận mình xông hẳn lên đánh giáp lá cà, không súng mà chỉ nguyên thanh phạng, mã tấu quần nhau với Tây nhỉ? Hay không cả mã tấu, thanh phạng nữa thì tớ chơi tay vo... chơi tay vo với Tây mà Tây chết, súng cướp được mới càng hả!
Tiếng người nhao nhao hỏi, Cõn cười:
- Úi lêu ơi! Cậu có những miếng gì mà gớm thế? Truyền tớ một miếng với nào, Phúc còi ơi!
Phúc đỏ mặt lại văng tục, trỏ trỏ tay và vỗ vỗ vào một bên bụng:
- Miếng à, miếng ở trong lá gan đây này.
Và Phúc giơ tay lên khoa khoa:
- Với ở cái tay này nữa!
Tiếng trái phá càng dồn dập. Khói lửa và cả bụi đất bốc lên khắp chỗ... mặt trời ngả chếch trên núi Đốt đã vờn những dải như hơi khói... Thơm thấy mừng mà cũng vẫn lo. Trong thành mà bắn lại và giữ được đến bây giờ là vững đấy. Nhưng liệu rồi Tây bắn thêm mấy loạt trái phá nữa và quân nó đã tiến được đến bờ lũy, phá được nhiều quãng qua được hào, và sắp vượt hào, tiến vào lối những chỗ thành bị trái phá sụt vỡ, thì ta còn đạn bắn, nhất là còn sức, còn gan chống giữ thêm không? Giữ thành được rất tốt, nhưng tốt nhất là giữ được người. Rút để giữ người. Có rút thì rút ngay! Trong đêm nay. Mới hai mươi. Để chậm là trăng lên. Mà không kịp thoát vây nhân khi tối trời để Tây đuổi vây lại thì thật khốn khó! Tây dàn đóng rất chặt cả mặt Dốc Đỏ, làng Hạ và Yên Lễ để ta không còn đường lên phía trên, hay xuống phía dưới! Hừ!... Thì ta...
Thơm càng lắng tai hơn nghe tiếng súng và chăm chắm trông các đám khói bốc, trông các ngọn đồi núi, các dốc, các bãi, các rừng chung quanh thành...
- Tây lên đánh Yên Thế, đóng ở thành Tỉnh Đạo. Tây đóng thành Tỉnh Đạo! Tây lên đóng Yên Thế...
Những vờn như khói như sương trên núi Đót đã thành từng đám, từng dải ở cả lưng chừng. Mặt trời đỏ thẫm thêm rồi bầm bầm sụt xuống chếch về phía rặng Tam Đảo đã mù mịt khí núi. Tiếng trái phá thưa dần rồi bặt hẳn. Tiếng súng tay ran cả vùng trời. Nhưng vẫn có tiếng súng ở trong thành bắn ra và những quả lửa vọt lên. Vẫn có những tiếng hò, tiếng thét, tiếng reo của ta ở cả những mặt quân Tây bắn như trút đạn.
Tất cả toán Thơm ở sườn đồi gần rừng Báo hồi hộp vô cùng. Tề hét lên:
- Vẫn giữ được thành! Ta vẫn giữ được thành anh em ơi!
Cõn và các nghĩa quân reo theo:
- Ta vẫn giữ được Tỉnh Đạo! Tỉnh Đạo ta vẫn giữ được.
Phúc Lang Cao lại nhảy lên:
- Lúc này mà quân ta đông, có độ dăm chục tay súng, đánh thọc hai bên sườn thì hay quá, giời ạ!
Thơm ngước lên trông ngôi sao Hôm đang mờ mờ qua những đám mây:
- Anh em à! Quân ta sắp rút đấy! Chỉ tối sập là phải rút ngay. Tây thế nào cũng cho quân đuổi theo. Quân Tây nó đuổi theo thì anh em ta phải cẩn thận đừng để nó theo được lõng, hay vây chặn cánh ta này.
Tất cả đồi núi, rừng bãi, đồng ruộng, xóm làng dần dần tối rồi đen sâu, đen thẳm để đột nhiên một vùng lửa sáng rực lên, bùng bùng. Thơm cười rít một tiếng, gọi anh em:
- Quân ta rút ra hết rồi! Quân Tây vào Tỉnh Đạo rồi! Nào anh em ơi!... Nào anh em ta...
Nghĩa quân kẻ súng, người giáo, tay mã tấu, bổ ra hết các ụ, các hốc, các gò trên dốc sườn đồi. Đúng tiếng súng lại ran. Tiếng súng bắn bừa bắn phứa vào các cánh rừng, vào các sườn đồi, vào các đỉnh cao ở cả mấy nơi không xa lắm quả đồi bọn Thơm trấn giữ, Thơm lại nhắc lại hiệu lệnh anh em chỉ bắn khi nào Thơm nổ súng trước, và khi đã nổ súng thì càng phải bình tĩnh để nếu Thơm hô giáp chiến thì giáp chiến, hô lui chạy thì lui chạy...
Khu rừng bọn Thơm đón đánh bỗng có một rồi hai rồi ba đám lá cây sột soạt. Khi nhận ra đúng bóng người của mình và tiếng súng đuổi theo đang dồn về phía khác, thì các nghĩa quân reo lên, định ùa đi đón, Thơm giơ tay, nghiêm giọng:
- Không được! Để chú Tề, chú Cõn và hai chú nữa đi thôi. Nếu có cáng nào anh em ta bị đạn nặng, phu cáng đã mệt thì phải khiêng thay ngay và đi rất cẩn thận. Chớ cho anh em uống nước ngay đấy. Tìm ngay thuốc dấu mà rịt...
Đốc binh tỉnh cùng bọn thống lĩnh Lương Văn Nắm - bá Phúc, Sặt, Sử đi trong toán thứ hai. Toán thứ ba có năm cáng thương, cai Cừ đi giữa toán này khi lên đến sườn đồi thì lùi xuống với những toán cuối. Vẫn có lệnh không được ồn ào và phải đi gấp nữa, gấp nữa. Tay súng nào còn đạn và các tay giáo, tay mác cũng như những ai phân bổ cho đeo vác lương khô thì vẫn phải ở hàng đầu.
Khi Thơm và Phúc chạy đến đón, cai Cừ nắm lấy vai Thơm lay lay:
- Thơm ta có súng mà lại không được ở bắn quân Tây đánh thành, tiếc lắm, uất lắm đấy!
- Còn bắn, còn đánh, còn nhiều trận giữa: mình còn sống. Tây còn ở cái đất cái nước này thì ta còn bắn, còn đánh, bác à!...
Cai Cừ chưa kịp gạt mồ hôi và xốc lại súng, thì sửng sốt vì Thơm ghé vào tai mình nói:
- Bác thưa với quan đốc binh và ông bá nhà em cho em với Tề với Phúc ở lại đây đêm nay!
- Sao! Sao! Sao Thơm cùng Tề với Phúc lại không cùng rút lên kia mà ở lại đây?!
- Tây đóng Tỉnh Đạo chứ đã đóng hết Yên Thế đâu? Mà cho dẫu đã đóng hết Yên Thế rồi thì ra vẫn cứ đánh. Không đánh nay thì đánh mai. Không đánh vào thành, thì đánh ở ngoài thành. Không đánh ngày thì đánh đêm. Không đánh có đông quân nhiều súng, thì đánh với ít quân, ít súng cũng cứ đánh. Nghe binh tình động tĩnh rồi đánh... Không đánh to thì đánh nhỏ, đánh cho dân Yên Thế và các nơi biết bác ạ!...
Tề mừng quýnh, khi nghe cai Cừ bảo cả đốc binh và bá Phúc bằng lòng mình và Phúc ở lại với Thơm. Thật là một điều Tề không sao ngờ tới và đinh ninh một khi được cùng với Thơm hoạt động thì chẳng những chắc chắn mà tất cả phải nên công nên việc không để phỉ tiếng đất mình.
*
* *
Trăng lên, từ trên rặng núi rừng xanh rì phía Phỏng Mẹt xa xa trước mặt bọn Thơm, Tề, Phúc.
Nhiều ngọn đồi, cánh rừng, xóm làng quang dần, quang dần. Mấy cánh đồng dưới chân đồi bọn Thơm ngồi núp tuy mờ mờ hơi sương nhưng vẫn lộ rõ từng khu, từng vạt ruộng, từng bãi màu. Tới khi cái vành trăng giấc tốt kia nổi lên giữa trời cao thì đúng là cảnh vật chìm ngủ sâu lặng.
Ngay từ lúc lá cờ ba sắc xanh trắng đỏ còn là cái bóng chập chờn trên cột cờ vừa dựng lại trong thành, Thơm đã thấy bây giờ không còn phải là gai đâm vào mắt mình, mà là gươm xọc vào ruột vào gan vào thái dương với cả lưỡi thép đang nung đỏ.
Không rút lên trên kia, luồn về đây, không phải chỉ có công việc nghe ngóng binh tình động tĩnh của quân Tây, và Thơm còn phải chứng kiến cho cả đất Yên Thế và các nơi thế nào là sự bạo ngược, lăng loàn, là nỗi yếu đuối kém cỏi, là cảnh nô lệ bại nhục mà không được cúi đầu chịu gông cùm xiềng xích để ăn ngon ngủ yên, mà phải một sống một còn, tìm các cách để chống lại giặc thù dù mạnh dù đông đến đâu chăng nữa.
- Quân Tây ở Dốc Đỏ còn đặt vọng gác sang tận Trại Han lối vào trong Suối Lửa và sang Hà Châu Thái Nguyên... - Phúc thì thầm vào tai Thơm, Tề cũng vội nói nhỏ:
- Bác Thơm à, ở mặt Yên Lễ quân chúng nó vẫn đi tuần đấy. Có tiếng chó nhúc nhắc...
Cả hai người như muốn Thơm phải chú ý nữa việc nghe ngóng của mình:
- Ở đình làng Ninh đèn vẫn sáng trưng, các quan của nó vẫn ăn uống hay họp bàn, hay có việc gì?...
Vầng trăng "giấc tốt" càng vằng vặc giữa trời không có một đám mây vởn. Khối thành Tỉnh Đạo và các đồi bãi chung quanh trông rõ như ban ngày. Con suối chảy về Ngạc Hai nước cứ như gương.
- Chú Tề, chú Phúc à... trông kìa... trông kìa... - Cả hai nhô hẳn lên theo tay Thơm trỏ.
Trên ngọn cột cờ bị gãy thay bằng cây tre đại, tấm vải ba màu xanh trắng đỏ trông rõ mồn một đang phất lên, cuốn lại, mở ra, uốn éo, trêu chọc thách thức một cách lạ lùng, mà trời mây cảnh vật nơi đây không thể nào ngờ được sự xuất hiện của nó. Phải! Nó hiện ra, nó mọc lên như của một ma vương, một chúa quỷ báo hiệu một cảnh đảo lộn, một sự ngự trị, một quyền hành, một quy chế, một ô nhục cho mọi người của đất này, của nước này mà nó bắt chỉ có chịu đựng, chỉ phải chịu đựng...
Cặp mắt Thơm vẫn trừng trừng và Thơm lặng im làm cả Tề và Phúc chợt thấy lạnh người. Chợt Tề cất tiếng như nấc:
- Bác Thơm cho em mượn súng! Mà bác cho em xin ba viên đạn... chỉ ba viên đạn...
Thơm túm vai Tề:
- Khà... Hay lắm! Hay lắm! Tớ cho chú cả năm viên.
Tề nghẹn ngào:
- Không! Bác cho em ba viên, em đã nói em chỉ xin ba viên, đúng ba viên.
- Đây súng ta... Ta cùng đi...
- Không! Bác và cậu Phúc cứ ở lại... mặc em.
- Thì ta và Tề cùng đi... Phúc cứ ở lại với khẩu cò quỵp.
Hai người men xuống chân đồi, luồn sang một bãi rậm mọc toàn cỏ lưỡi rắn và dứa dại.
Tề hổn hển:
- Xong rồi ta lại rút sang núi Đụn hay về trên kia?
Thơm bóp chặt cánh tay Tề:
- Ta đã có lõng vào thì cũng có lõng ra. Mà cho có bị đuổi, bị vây, thì ta cứ ở bãi đây, núi đây và suối kia... không sợ.
Đến một mô đất có bụi dứa dại, Tề kéo Thơm dừng lại:
- Nào bác cho em súng.
Thơm đặt khẩu súng nóng sực hơi mình vào tay Tề:
- Nào, chú bắn để Tây biết thế nào là đạn Yên Thế!
Đoàng, đoàng, đoàng! Đúng ba sọc vải màu của lá cờ vừa xõa ra bị xuyên thủng liên tiếp.
Tề chưa kịp trao thì Thơm đã đón lấy súng:
- Chỉ bắn thủng cờ thôi à? Chỉ có thế thôi à?
Thơm giơ súng nhằm chỗ đầu dây sỏ con khẳng bằng ống tre dài giữ cờ kéo cho thẳng mép luồn, và khi bay không bị quấn bị vướng dây, vướng cột.
Đoàng!
Dây phựt đứt, cờ tung lên rồi là là rũ xuống đất.
Tất cả các trại Tây đóng quân đều choàng lên. Tướng Lít không kịp đội mũ và cài cúc áo xủng xỉnh những mề đay những ngù lon, vừa bổ ra sân, vừa truyền nổi kèn động và ra lệnh các toán quân trực ban và đi tuần bao vây ngay chỗ nghĩa quân nổ súng.
⚝ ⚝ ⚝
Cùng hai viên quan hầu ra sân, Lít đến gần cột cờ đón lấy từ hai tay một tên quan đứng nghiêm, chào xong, thì nâng lên trước mặt tướng Lít cả cuốn cờ và dây kéo sực mùi cháy khét. Tướng Lít lập nghiêm chào lại xong thì giơ tay gang rộng ngón cái và ngón giữa bóp bóp thái dương, lặng đi...
Ngay cả khi tướng Lít còn đóng ở thành Tỉnh Đạo, nhiều nơi trong Yên Thế đã nổi lên. Rồi khi tướng Lít rút bỏ Tỉnh Đạo, thì liên tiếp các làng đua nhau gióng trống tế cờ, động quân xưng tướng. Ở Hả: Đề Nắm; ở Liên Sơn; Đề Sặt, ở Yên Lễ: Đề Sử; ở Lèo: Đốc Kế; ở Trũng Mỗ: Thống Lệnh(1).
Người nơi nơi không gọi cái tên để chỏm của ông phó Thêu đặt giả cho cháu là Thơm nữa. Người nghĩa quân ấy giờ là Thám, nhưng vẫn giấu họ Trương và cũng không lấy họ của cha nuôi mà đặt lấy cho mình họ Hoàng, Hoàng Hoa Thám.
Yên Thế, 30-10-198