← Quay lại trang sách

Núi Rừng Yên Thế Chương I

Nước mất nhà tan ta sống thế nào đây?

Bây giờ mới xế trưa mà trong chợ, ngoài phố và các ngả sang Bố Hạ, sang Thắng hay xuống huyện Mọc đều vắng ngắt. Nhất là các lối vào quá trong kia! Không còn một bóng người giữa vùng trời nắng ngun ngút, đồi bãi rậm rạp, lau cỏ như sắp bốc cháy.

Qua dốc Đỏ, mọi khi bác Ngọ vẫn đỗ gánh. Nhưng cả đây cũng không còn quán nước và bọn đi củi đi than ngồi nghỉ chân hết! Bác thẩm lẩm:

- Mẹ kiếp, Tây nó có lại lên đây hay đóng hẳn đồn, thì cũng cứ ở! Việc gì phải bỏ chạy cả như thế!

Trở vai gánh, bác qua hai dốc nữa, định tạt vào một xóm quen có giếng nước thì làm một gàu uống vừa nghỉ chân một thể. Lại thấy quang cảnh các cổng ngõ đều rào rấp im lìm không có một tiếng người hay sự động dạng nào cả, bác đã phải đặt gánh xuống một gốc cây sau sau, kéo vạt áo lau mồ hôi mặt, lấy nón quạt. Cái nón gủ đưa dài những luồng gió làm bay cả những rác lá và tro than ở một bếp hoang gần đấy. Chợt bác nhận ra có mấy ngọn lá dứa và vỏ dứa đã héo, liền reo lên:

- Mẹ kiếp, bọn đi rừng này lại vào vườn trong xóm bẻ trộm dứa rồi. Mà đến tháng này thì làm gì còn dứa ngon, dứa chín nữa. Thôi, mình cũng phải vào kiếm mấy nõn dứa ăn cho đỡ khát vậy!

Nhai sồn sột những cái nõn dứa chua xít rùng cả mình, ê rợn cả góc miệng, mà vẫn thấy ngon. Nếu có được mấy hột muối thì có thể ăn cả cụm dứa đấy! Bác Ngọ vừa xuýt xoa tự khen cho mình có tài ăn chua và cũng có tài cả nhịn. Phải, cả nón nữa! Chứ không thì bóc phăng ngay mà ăn cái quả bưởi mang về để bày cỗ trông trăng cho con, tội gì chịu khát, chịu thèm.

Tết này bác Ngọ còn mua một quả bưởi Nga My to nữa. Ông Lã Vọng sẽ bày trước Nga My. Hai quả bưởi thường thì lấy múi tẽ làm hai đĩa hoa bày với chục quả ổi đào. Đáng lẽ bác mua một chục hồng mòng, nhưng thằng Nghẹ Lang nhà bác ăn hồng lại kêu nhũn nhoét nhè ra mà ổi thì quả to đến đâu chỉ hai miếng là cắn hết, làm người không ăn cũng thấy thơm sực, ngọt lịm. Thằng này còn giống tính bố cả cái ăn xôi bốc nắm nắm. Bởi vậy bác lại phải đong đỗ đen để thổi với gạo nếp nhà, phi hành mỡ, để bố con ăn Tết. Thế còn con gà giò đang vươn cổ trong rọ, say nắng và khát nước đang lè lưỡi ra kia thì chỉ đem luộc! Bố nó chỉ thích ăn vã, chấm muối chanh với hành củ, mà nó cũng thế. Và cả mẹ nó cũng thế chứ!

Bác Ngọ cười thầm, xốc đòn gánh lên vai, phăng phăng xuống dốc. Gần tới nhà, bác càng thấy vui vui.

Vụ này mưa thuận gió hòa. Những chân ruộng cấy lúa ba giăng nào cũng tốt, cũng đẹp. Mấy thửa ngoài đồi đã được gặt. Văng vẳng trong xóm tiếng đập lúa thình thịch, tiếng xay thóc ù ù và tiếng trẻ con chành chọe nhau vì đứa vừa phải thổi cơm bế em, đứa được ra đồng mót lúa, bắt cua, bắt ếch, đứa gánh lúa, rũ rơm cứ đùa nhau túi bụi sao mà sướng thế.

Bác Ngọ chưa vào khỏi ngõ, cả mấy bà hàng xóm đã gọi nhau, te tái ra đón. Bà hỏi trầu vỏ; bà đòi xem bưởi, xem gà; bà trách móc không mua thêm cho trẻ con nhà bà, mấy quả ổi sao mà ngon thế kia; có bà bẻ nghiến ngay bánh đa của mình nhờ mua mà ăn làm con bé bà khóc giãy lên bắt đền. Cả những mái gà mẹ con, mấy chú chó nhách cũng chạy đến, quấn quýt chồm nhảy như mình cũng phải có phần quà bánh đi chợ về.

Chưa kịp đưa mấy thứ nữa cho hàng xóm, bác Ngọ liền chạy như ma đuổi ra giếng. Gàu nước đầy uống hết rồi mà bác vẫn muốn uống nữa. Bác múc gàu thứ hai vã vã ướt sũng cả mặt, mấy lần phát sặc vì phải đáp lời bà này, vội nói với bà kia, và bật cười nữa vì có bà văng tục, réo cả tên bác lên mà chửi vì tội không cho bà gửi đỡ gánh hay mua hộ bà thứ này, thứ khác như là thuốc lào, kim chỉ, bồ hòn, bồ kết!... Cái bà có ruộng ở ngoài đồi đã gặt xong nhưng "lão ta" không hiểu theo anh em tập tành bên Hả hay bên trên kia, bỏ hết các việc cho vợ mà vợ thì một nách hai con bé, nên bà này cứ véo vỏn hỏi chuyện bác Ngọ rồi chửi, đe bác Ngọ nếu đêm nay bác không đưa cả con sang đập lúa rồi làm giúp bà hũ thóc nếp để đến rằm này hai nhà cùng thổi xôi, thì bà ra sẽ... còn chửi cho nữa!

Thằng Nghẹ Cõn được mẹ cho thêm chiếc bánh tẻ, nhưng nó bẻ đôi nhường cho thằng cu nhà cai Cừ và thằng cu Trọng nhà mẹ Nấm và bố Thám. Bà cụ Bờ một tay ôm vòng thằng cu nhà Cừ, một tay bóc bánh cho thằng cu Trọng ăn trước yếm mẹ Nấm. Nhúng cả cái áo vào chậu nước, lại còn giội thêm hai gàu nữa, bác Ngọ lau mình xong lại chỉ mặc có vuông yếm, lên nhà. Chợt nhận ra hai cuộn chạc và bộ dây quang nữa đã đánh xong, để nằm trên đống lạt tre, bác Ngọ kêu lên:

- Bà ơi! Bà lại chẳng chịu nghỉ trưa gì cả! Nắng nôi thế này ngồi không, đi không còn ngốt cả người, mà bà cứ cặm cặm cụi cụi, nhoèn cả mắt, xước hết cả tay thế kia thì có khổ không!!!

Mẹ cu Trọng cũng xuýt xoa:

- Em đi gặt về, bà cụ lại còn thổi cả cơm, quét cả nhà, đưa ra giếng tắm táp cho thằng dái nhà em nữa đấy!

Bác Ngọ liền tru tréo:

- Giời đất thiên địa! Sao mà cái tính, cái nết này lại y như bà cụ nhà tôi ấy! Làm việc cứ bán thân mộ dạ, bà con hàng xóm, trong họ ngoài làng, ai ai cũng phải lè lưỡi vì bà cụ còn bảo các con dâu: Chúng bay làm được đến đâu hay đến đấy, chứ đừng theo đòi các mẹ chồng như ta mà rồi chồng con giả người đấy! Chả là kiếp trước tao nặng căn, nặng nợ mà!

Có tiếng cười rúc rích ở nhà đằng sau và ngoài ngõ. Bà cụ Bờ bẻ bánh cho thằng cu Trọng ăn, nhẩn nha:

- À! Bá này, bá đi mà ăn bát cháo. Cháo cua nấu với rau cải, cả nhà Trọng cũng phải ăn đấy! Tôi giã hơn hai bát gạo nấu cơ mà! Bác Ngọ ăn xong rồi xuống nhà bá Tần làm giúp rồi ăn cơm dưới ấy! Để anh em thằng Nghẹ ở nhà với tôi... Nhà Tần nó độc một người đàn ông mà cứ đi biền biệt. Có gì chiều nay tôi cũng đến sàng sảy cho nhà bá ta.

Trong dạ bác Ngọ càng thêm vui. Nhà bố Trọng và cai Cừ đón bà cụ Bờ về ở với mẹ con bác sắp được đầy năm. Bà cụ thôi không đi hát rong nữa mà quanh quẩn ở nhà với thằng cu nhà cai Cừ và đỡ đần bác nồi cơm, nồi cám, ấm nước. Ra giêng vừa qua bà cụ khỏe hẳn lên. Đi có lúc đã không phải chống gậy, ăn uống cũng đỡ nghẹn. Một hôm bà cụ ôm đâu về một bó lạt to và hấm húi đánh chạc, đánh chão. Bác Ngọ lại tru lên, định thu lại các thứ, bắt bà cụ đi nghỉ, thì bà cụ giữ lấy tay bác, lắc đầu nói:

- Kìa bá nó, sao bá nó lại thế?! Tháng ba ngày tám để tôi làm thêm đôi quang, đôi chạc đỡ đồng rau mắm. Tôi ăn được mà ngồi không, sao nên? Tôi cất nhắc chân tay càng khỏe, càng vui, đỡ nghĩ ngợi mà!

Bá Ngọ bỗng tủi tủi giọng nói:

- Hay tại con và ông bà cùng mẹ cu Trọng bên nhà ăn ở thế nào nên để bà...

Bà cụ Bờ cười như nghẹn:

- Chết! Chết! Bá mà lại nói như thế thì làm tôi thật là ân hận. Vàng ròng, bạc nén là quý, là hiếm, nhưng vẫn thấy nhan nhản ở các chợ, các nơi, có thể kiếm rất dễ chứ mà tình nghĩa ở đây!...

- Vâng! Vâng! Con cứ để bà làm, nhưng bà không được làm cố để bán chợ hay đổi chác các thứ trong làng. Bà cứ làm lấy vui thôi...

Nhưng không, từ tháng hai đến giờ, trước ngày chỉ một đôi, sau đôi rưỡi, hai đôi chạc thừng. Vụ gặt chiêm vừa qua, bác Ngọ vừa đi bán chợ, vừa đổi ở trong làng, được hơn thúng thóc và một quan tiền kẽm, vậy mà bá có mua về cho bà cụ bìa đậu, tấm bánh, hay kho niêu cá diếc, cá bống với dưa chua hay xơ cái mít cho bà cụ ăn thì bà cụ cứ kêu tốn và gắp lại cho anh em thằng Nghẹ hoặc gọi đưa thằng cu Trọng sang ăn cùng.

Thế là buộc tiền đồng, khi về bà cụ đưa ra cho bác Ngọ giữ để đong gạo, không những không suy suyển trong cái bị gối ở dưới chiếu giường bác Ngọ nằm kia, mà còn bọc vào một chục vuông vải mua với tiền quang chạc của bà cụ để dành Tết này sẽ nhuộm nâu may áo cho thằng Nghẹ con và cả áo yếm cho mẹ nó!

Nhiều đêm về sáng, gà chưa gáy dồn, bác Ngọ thức giấc lại thấy bóng bà cụ nhấp nhô, vặn mình, cánh tay quận đi, vật lại bên cột nhà và tiếng lạt tre bện kêu xiên xiết, kin kít thì bác lại không chợp mắt được, mà cứ phải chong chong nhìn lên mái nhà mà nghĩ, mà nhớ, mà thương,... và đau xót không biết chừng nào, không biết đến bao giờ...

Bố nó và thằng cháu bà cụ bị quân Tây bắt; bố nó Tây đem chém đóng cọc bêu đầu ở đầu dốc đường vào tỉnh, thằng cháu đích tôn bà cụ thì bị bắn toang ruột chết bên rãnh nước... Cả hai người đều được bà con ngoài ấy chôn cất ma chay thật chu đáo. Nhưng làm sao mà tìm, mà nhận ra được thật là phần mộ, thật là hài cốt, để cải táng đem về gần nhà, gần cửa, có người ruột thịt trông nom cúng giỗ...

Bá Ngọ lại chỉ mặc vuông yếm, váy cộc, khoác cái áo cánh cũ vừa phơi, vắt trên bắp lưng u thịt. Bác ra đi, đầu trọc chẳng nón mũ gì cả, tay che quạt mo, bước cứ xăm xăm...

- Con mẹ này xuống nhà bà Tần đâu phải chỉ làm giúp, mà còn có việc gì đây?! Nhà bố Tần nó cũng chẳng sang Hả tập tành gì nữa đâu. Mấy hôm nay động súng nhiều ở cả phía Bắc và phía trên phủ Lạng Giang, như thế phi quân Tây kéo lên đây, thì cũng là quân ta ở các nơi này nổi lên đánh lại. Nghe nói cả quân các làng bên Lạng Giang cũng lên nhập vào quân cụ Nắm rồi, như vậy bố thằng cu Trọng nhà này làm gì mà chẳng đánh hăng, chẳng đi biền biệt,

Bác Ngọ vừa khuất khỏi bờ rào gai xương rồng, bà cụ Bờ lại bệt đít bên cái cột gỗ rừng đã đen như sừng ở gian giữa, bó nan tre liền với người, hai cánh tay trần nổi gân lại xe, xiết, quặn, vặn chiếc chạc mới!

- Cõn ơi! Cõn ơi ời! Đi chơi không nào.

Thằng Nghẹ Cõn được dịp liền vội gọi thằng cu nhà cai Cừ, rồi buông ngang vai bà cụ Bờ, chạy đến cho thằng Nghẹ anh xốc lên lưng, chẳng để bà cụ kịp chùi mũi dãi cho, cứ nhong nhong, thúc thúc chân vào sườn thằng Nghẹ anh bắt nó nhổng ra ngõ. Bà cụ thẫn thờ nhìn theo, chửi yêu một câu, rồi càng cắm cúi với chiếc chạc trong tay.

Trên tấm ván đóng vào hai nấc cột ở gian giữa vừa làm bàn thờ vừa để các thức vặt, bác Ngọ bày ba quả bưởi và hai chục quả ổi như bày cỗ. Hương bưởi đã chín rám và hương ổi đào thoang thoảng cùng hương hoa lý. Có gió, những bóng cây loang loáng nắng.

- Con mẹ thằng chó ạ! Chả cứ mẹ chồng nhà nó tham công, tiếc việc vì nặng nợ, nặng căn mà cả ông lão nhà tao cũng như thế! Ai đời cả mùa cày, buổi nào cũng dậy từ lúc trăng gần xế hay sắp rạng sáng, cày cho đến lúc mặt trời lên đã được ba sào, các bà và thợ mạ không kịp đem mạ ra và kịp cấy. Rồi chỉ ăn mấy củ khoai, uống lưng ấm nước chè tươi, lại cày tiếp. Ngày ông cụ lĩnh công non để nuôi vợ đẻ, có buổi cày sáu, bảy sào... mà cơ khổ, cơ khổ! Khi vợ đẻ, phải đem các thứ xuống mãi làng ngoài, tìm cái bến vắng nhất mà giặt giũ, bà cô bá dì biết chuyện, kẻ mắng người chửi xơi xơi, nhưng cứ lặng thinh "hầu vợ". Nhà hết gạo, đi gánh vã ngô đỗ khoai sắn cho người ta, thì cứ bốn thúng đại, trai tráng nào cất gánh lên cũng đều nhăn mặt!

Bà cụ Bờ nheo nheo mắt trông ra ngoài trời. Trong đám lá cây ánh nắng lao xao, bỗng như có hình ảnh, dáng dấp gì ẩn hiện. Phải, bà cụ lại "thấy" đầy đủ ông lão nhà mình, thằng bố nó, con mẹ nó, nó và thằng anh con chị nó cũng ở cả nhà trên một bãi đồi thoải xuống một dòng sông hàng năm đến mùa lũ, nước sa đổ về như có thiên binh vạn mã tràn đi và những đêm dông bão thì cứ tưởng như trời long đất lở. Cảnh nhà túng đói cùng cực đến đâu chăng nữa vẫn quấn túm lấy nhau, càng phải chia nhau từng bắp ngô, củ sắn, bát cháo cám, củ chuối, càng thấy thương nhau quý nhau, vì nhau có thể róc xương, xả thịt...

"Bà ơi! Bà ơi! Ông con, bố con, các anh chị con không mất đâu, không bỏ bà đâu! Bà cứ thắp lên nén nhang là cả nhà lại về hết với bà! Mà bà chớ có đi đâu nữa. Bá Ngọ là chị cả con đấy! Chú Thơm, cô Nắm và vợ chồng anh Bến nhà ta đấy! Anh em thằng cu Nghẹ, thằng cu Trọng là cháu lớn cháu bé của bà. Đất Yên Thế này không để bà bơ vơ, đói khổ đâu! Người Yên Thế sẽ rửa cả hờn, cả tủi, cả nhục cho bà nữa!...".

Thằng Bờ lại tỉ tê chuyện trò với bà nó. Tiếng nói với bà như lồng, như vang trong những tiếng trống cơm bà nó vừa gõ vừa hát những ngày sống rong ở các cổng chợ, các bến đò, các đường các quán trước đây. Chiếc trống da bưng đã mỏng như giấy như lụa, tang gỗ mít có chỗ đen bóng, cái dùi tre đã đanh như ngà, vẫn giữ trong cái bị với mấy vuông khăn điều phủ bài vị thần chủ họ Ngô mà bà cụ không bao giờ rời khỏi đầu giường kia.

Vừa năm Nhâm Ngọ tháng ba

Sáng mai mồng tám bước qua giờ Thìn

Biết cơ trước đã giữ gìn

Hơn trăm vũ sĩ vài nghìn tinh binh

Tung tung... bộp... tung tung... tung.

Tiếng trống và những câu vè ấy ngân vang văng vẳng, làm não ruột, xót gan, gai rợn nhân tình thế sự ấy, những khách bộ hành cùng túng, cơ nhỡ chúng tôi nghe ở những độ đường lưu ly loạn lạc sao mà quên được hở bà cụ xẩm mù lòa già yếu kia?!!

Bà ơi! Bà không còn đi được các đầu đường cuối chợ hát kiếm miếng ăn độ nhật nữa, thì ở nhà, ở xóm, ở làng bà cũng cứ hát cho con nghe, cho mọi người vẫn được nghe, để mà vẫn đinh ninh về các cảnh ấy, người ấy, nông nỗi ấy, cơ sự ấy. Bà nhỉ... Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn... Thù sâu oán nặng núi non sao bằng!

Ra oai lệnh xuống vừa xong

Bỗng nghe ngoài đã ầm ầm pháo ran

... Lửa phun súng phát bốn bề...

Bập, tung tung... tung. Tung tung... tung bập.

Như có cả bàn tay lên đinh bị cụt ngón giữa của thằng cu Bờ, như có cả cánh tay bị đánh giập của ông nó đi bới khoai trộm năm ông ấy ốm yếu quá nằm liệt giường hàng tháng, như có cả mấy cánh tay khô khẳng của bố nó, anh chị nó cùng bà quấn, vật chiếc chão nóng rát trong bàn tay bà.

Tiếng những lạt tre vặn xiết cùng như dần, như nghiến. Con chích chòe quen thuộc đi đâu từ sáng đã về lanh lảnh học bài ở cây xoan ngoài vườn. Tiếng nhong nhong của hai thằng cu cõng nhau làm bà cụ Bờ phải ngừng tay. Bà cụ vừa ngẩng lên, thì một nắm quả mùi vừa chín thơm vừa ngọt sắc liền ập vào tay bà.

- Bà ơi! Sim mòng ơi là mòng! Ngọt cứ thỉm đi ấy! Bá Tần gửi cho bà còn một túi đây này... Bà ạ, Tây lại sắp kéo lên ta đấy! Mấy huyện trên đánh to lắm. Bên Hả lại mổ trâu. Bố cu Trọng chỉ nhắn người về, gửi cho thằng cu mỗi rọ tắc kè, bảo nấu cháo dần cho nó ăn khỏi cam, chạy nghịch thật lực.

⚝ ⚝ ⚝

Trong làng Thiết Nham, tiếng trống, chũm chọe và sênh tiền của phường "Tùng choạc" càng inh ỏi. Trẻ em cũng như người lớn của phường đều như sắp điên lên chứ không chỉ phải vì say trống, say múa với những loạt cờ đuôi nheo nửa trắng nửa vàng khoa lên tới tấp, với những cái rập làm thót ngực, chói tai, long óc của chũm chọe đang khua xoang xoảng bỗng đập dính vào nhau, câm bặt. Trẻ em đội mũ trắng chỏm bông đỏ, quần áo chẽn nẹp vàng, xà cạp đỏ thắt lưng tua vàng, trông đã lạ mắt, nhưng người lớn mà cũng đóng bộ cũn cỡn, sặc sỡ như thế càng lạ mắt hơn. Bởi vậy mỗi khi các loạt cờ khoa lên, bọn người múa được lệnh nhảy lộn cùng với người quản nhạc thì tất cả các tốp đàn bà con gái đi theo đều dạt vào phía trong, díu lấy nhau, mắt nhắm lại, the thé: "Giêsuma! Giêsuma!" rồi cười rinh rích... Không phải chỉ có phường xứ họ sở tại, mà còn hai phường xứ họ Nghi Thiết và Mai Đình. Riêng quản nhạc xứ Thiết Nham vẫn mũ vẫn xà cạp như mọi người, nhưng mặc quần áo láng thâm hai vai đính ngù đỏ, bộ sênh tiền chấp hiệu kết hai dải tua kim tuyến... Mặt mày lúc trang trọng lúc hối hả, lúc say, lúc lắng cũng đặc biệt hơn. Nó đặc biệt cũng như các lớp múa cờ, dồn trống như cuồng như loạn mà y soạn lấy và luyện rất công phu cho phường của y, xứ họ của mình.

Bốn giờ chiều nay mới làm lễ rước kiệu Mình thánh để mở hội. Cha xứ Bắc Ninh đón sang từ ba hôm trước. Cơm chưa xong, cụ Chánh Trương và thầy già đi hầu bảo người vẫn ăn chay. Vì thế người dậy tắm táp xong vào phòng sách đọc kinh rồi mới dùng đồ nước và sửa soạn ra nhà thờ để rước Mình thánh ra kiệu. Trông coi chung là Chánh Trương nhà xứ. Nhưng đôn đốc mọi việc là Trung Xào cháu Chánh Xoan. Tuy vậy, người như có trăm tai, nghìn mắt. Không sự sai sót, sơ suất hay có chuyện gì mà người không biết, không quở trách, răn bảo.

Đồn rằng người là con út cụ lang thuốc giàu có và ngoan đạo nhất ở Nam Định bị triều đình xử trảm vì tội oa tàng các tượng ảnh quốc cấm và không chịu khai xưng gì cả! Được một bõ già cõng đi trốn, lớn lên người theo một cha Tây đỡ đầu cho ăn học ở các trường, các dòng đặc biệt, đỗ rất cao làm thầy cả được phong bảy chức thánh, mặc áo lễ tuổi trẻ nhất khoa ấy. Người đọc sách bằng chữ Latinh và nói tiếng Latinh làu làu như các cụ nhà ta hay chữ đọc Truyện Kiều và truyện Tam quốc . Tuy vậy người rất nghiêm. Nghiêm đây là nghiêm với các kẻ chức vị trong nhà xứ, với các thầy già trông coi kẻ ăn người làm trong nhà chung, nhất là trong việc tiền nong hay lễ tết. Nhưng đối với các con chiên thì người rất thương. Chả thế mà không ai xưng tội với người mà không khóc rưng rức từ lúc ở tòa giải tội ra cho đến khi đọc kinh ăn năn tội!

Nhưng người lại rất hách! Các quan ngoài đời, kể cả quan lớn tỉnh, gặp muốn chào người để cầu cạnh công nọ việc kia, người đều lánh mặt. Hình như từ ngày Tây về đóng ở Bắc Ninh và người ở sở kiện lên, người chưa ra khỏi nhà xứ, và chưa tiếp một quan triều nào cả. Đã có hai vợ chồng một thương tá và một tri phủ theo đạo từ lâu, đi lễ, bao giờ cũng đón vái người từ cửa buồng lễ trên nhà thờ xuống, mà cũng không được vào hầu người.

Quá Ngọ sang Mùi từ lâu rồi, trùm Xào chỉ chờ lệnh cha là mở cửa nhà thờ, mà vẫn cứ phải chạy đi, chạy lại, ngó vào chỗ này, gọi hỏi đám kia, quát tháo bọn chân cờ, chân kiệu, kiểm lại những cờ quạt, tàn lọng và thét chửi mấy người bắt phải nhặt nhạnh không được để một cọng rơm, một cành lá, một que đóm, rác rưởi mới vương ra đường.

Con đường vòng quanh nhà thờ sửa rộng thêm mỗi bên hàng hai thước. Các bờ, các rào các giậu của nhà ai cũng mặc, trùm Xào bắt cuốc, bắt phạt và làm cỏ vào tận sân nhà người ta và nhà người nào cũng phải đủ lệ bộ cổng chào kết hoa lá, cửa ngõ sạch như lau như ly.

Cái hồ có gò đất đã đóng bốn góc bốn bè tre cắm cờ, cắm đèn, chăng dây hoa, giữa gò lại còn dựng một cây thánh giá, chung quanh bày các chậu hoa lá, cây cảnh rất lạ và chăng dây hoa. Vòng đường quanh hồ mỗi cột cờ lại có một đèn lồng dải ngũ sắc bay phấp phới, mỗi khấc cột treo một đĩa đèn lắp bóng giấy xanh đỏ.

Trước cửa chính nhà thờ, từ sân đá bước xuống, ra đến khu vườn cảnh, cờ quạt tàn lọng san sát hết hàng nọ đến lớp kia với các hàng cây mới chặt ở các vườn, trồng lại như cây nguyên vẹn...

Nơi bục gỗ cha đứng dâng Mình thánh rồi rước vào trong nhà thờ từng thước, từng thước có lọng che và giai đinh mặc áo nâu, đội nón sơn, khoanh tay chầu chịu. Một màn phương du bằng những màn the mượn ở các nơi về, che rợp cả bục với bốn hàng cờ, rùng rình phồng phồng dưới một vòm cây cổ thụ bốn năm người ôm không xuể. Chỗ cha đứng, trải toàn chiếu đậu, trên phủ hai lớp chiếu hoa thửa từ mấy tháng trước ở Kim Sơn đưa lên.

Kéo kéo, ngắm ngắm một lần nữa lớp chiếu trải ở giữa cái nơi thiêng liêng nhất, quyết định cả một đời làm ăn và sự tiến thân không những của mình mà của cả con cháu mình kia, trùm Xào càng thấy như có kiến lửa bò trong người, tay lại gãi gãi, cào cào đầu như bị ong châm, bọ đốt.

- Mẹ kiếp, thời giờ hôm nay như cái đếch người ta ấy! Làm sao mãi nắng vẫn chưa xế cho râm mát đường từ nhà cha đi ra thế kia!

Hắn lại long tong với cái quạt nan bằng sừng, phất bằng lụa chạy về chỗ ông cậu. Trương Xoan ngồi ở trước bộ tràng kỷ kê giữa năm gian nhà la liệt những hoành phi câu đối, không để hắn bước lên khỏi bậc thềm, đã quát:

- Xào! Mày cứ như thằng quỷ giãy ấy! Ở đáy địa ngục nào chui lên vậy?

- Thưa ông... bẩm ông... con... con còn...

- Còn gì? Còn gì?

Xào lại tách bạch từng công, từng việc, từng nơi đã chu đáo, sẵn sàng. Trương Xoan cau mày nghe, gõ gõ cái quạt cũng bằng sừng, bằng lụa những nan cái khảm xà cừ, nhài bạc, xinh xắn chứ không thô như cái quạt của Xào. Xào giật thót người vì Trương Xoan bỗng gõ mạnh quạt xuống mép bàn, giật giọng:

- Kìa! Sao bay lại không đến chỗ con mẹ nhà mày hỏi xem những con gái thơ kinh chúng nó có thật thuộc... thật...

- Bẩm... bẩm... từ sáng con đã nghe chúng nó... chúng nó đọc không bản nào bị trắc, rất đều, rất thanh. Chả thế mà bọn thơ kinh mấy xứ họ xa đến, đứng nghe, cứ lặng ắng, rồi kéo nhau ra ngoài cổng, sợ ngượng!...

- Sao lại ngượng! Sao lại kéo nhau ra ngoài cổng! Bá Ngọ cái thằng này! Phải bảo con mụ nhà mày nó kéo lại, mời vào nhà uống nước ăn trầu chứ!

Trương Xoan chợt ngừng nói, nghiêng nghiêng đầu:

- Kìa! Cái gì ồn ồn ở cánh đồng cổng tiền vậy?

- Bẩm... bẩm... có lẽ bọn trẻ con và các người ở làng trên bảo nhau vào xem, nhưng đông quá, tuần tráng của ta ở ngoài điếm phải cản lại!

- Chúa quỷ Sa tăng lại lôi mày xuống đáy địa ngục thôi! Cứ để đám dân các làng vào!... Cứ để dân các làng vào... Có canh phòng hay ngăn giữ thì canh phòng ngăn giữ những thằng nào, đứa nào, quân nào có vẻ nhạo báng nhiễu nhương... À! Ở ngoài điếm mày có cắt thêm người để xét hỏi những kẻ vãng lai lạ mặt, khả nghi không?

Trùm Xào lại "có, vâng, dạ" không dứt lời, sau đó thì mặt tươi bưởi hẳn lên thấy cả thầy già và thầy giáo ở trên nhà đi ra, giỏ quạt vẫy gọi. Trương Xoan lấy giá quạt ẩy mạnh vào lưng trùm Xào:

- Bưng đồ nước lên! Bảo bõ già lấy bát đĩa Thạch Trúc mà đơm xôi chè. Quả dưa hấu to nhất con mụ nhà mày để dành bán cho quân Tây lên ấy, đem bổ ta ăn hôm nay trước thôi! Ta còn đáng ăn hơn cả quân Tây cơ!...

⚝ ⚝ ⚝

... Giữa lúc xế trưa ấy, một toán ngót trăm lính Tây và lính nón đĩa có một viên quan hai cưỡi ngựa và ba con la thồ hòm đạn và thức ăn uống đặc biệt đi từ dốc đê bến Ngọt ngoài sông Cầu tắt xuống đường gần chân núi Con Voi để vào làng trong. Những bóng người cao nghêu đội mũ nút chai lợp vải vàng, vai khoác toàn súng mới, bên hông đeo những bao da đạn chề chề, bước những bước dài nghiêm, nét mặt lầm lũi vã mồ hôi, trông càng hung dữ, ghê tợn. Những bóng thấp bé, đầu đội nón đĩa bỏ rủ miếng rèm vải để che nắng, tay súng đạn, quần áo, dáng dấp không mạnh, không khiếp bằng, đã thế lại nhiều người có vẻ tiều tụy thảm hại, nhưng vẫn không phải không dữ, không tợn.

Một gã người ta không phải không dữ không tợn ấy là đội Cửu. Từ trận cùng với Mặt ngựa ở bãi sông Cái bị quân nghĩa dũng đánh úp, không những đã thoát chết mà còn bắt được sáu người nghĩa dũng đem chém bêu đầu. Cái thằng đội Lệ ấy suýt nữa toi mạng vì lưỡi giáo của bác Ngọ phóng đã được nhắc lên làm cai Nhì, ít lâu nay lên cai Nhất, được thưởng bằng Cửu phẩm võ giai nên gọi luôn là Nhất Cửu.

Nhất Cửu không đi cùng hàng với lính ta và không khoác súng, mà chỉ đeo hai bên vai hai túi dết to phình, đi theo bước ngựa của quan hai Mặt ngựa. Nhất Cửu cũng được đội mũ như lính Tây và chống cái gậy song, đầu bít đồng, mỗi lúc hắn được truyền lại lệnh của trên hay nói gì với lính ta mà không có mặt quan Tây thì hắn lại giơ giơ, băm băm, dứ dứ lên đầu, lên mặt người ta. Kể ra hắn thừa sức bắt một thằng lính của hắn gánh hai cái túi dết kia. Nhưng trong túi đây toàn là những của quý, đồ quý của Mặt ngựa, nào thuốc lá, rượu, bánh kẹo thượng hảo hạng từ bên Tây đưa sang và của Hà Nội, nào xà phòng thơm, khăn tắm, dao cạo, v.v... nên hắn vừa coi hơn tính mạng mình, vừa cũng đôi lúc vụng trộm chấm mút hay hưởng thừa thứ quan dùng mứa.

Mặc dầu Nhất Cửu luôn luôn khúm núm, ra vẻ ngờ nghệch, sợ sệt ở cả trước mặt quan cũng như bọn chúng, nhưng mấy tên lính Tây cứ đặt cho Nhất Cửu một cái tên: Con-la-láu-cá, mà tất cả chúng đều gọi như thế, trừ có Mặt ngựa.

Con-la-láu-cá ấy vẫn liền liền bước ở bên lưng con ngựa nâu sẫm, và chỉ cần mong các thái giám hay cung tần được một lệnh truyền của đức Hoàng thượng. Mặt ngựa gọi lấy thuốc lá, rượu, hoa quả, bánh kẹo. Nhưng mãi không thấy Mặt ngựa có vẻ gì gọi hỏi mình, Con-la-láu-cá càng bồn chồn nhất là từ trên một sườn đồi, hắn ta trông thấy ngọn tháp chuông nhà thờ Thiết Nham mà hắn được biết hôm nay đã mở hội. Bạn thân chuyên đụng lợn, đụng cày trước đây ở dưới tỉnh của hắn là trùm Xào đã hẹn hò với hắn, cho cả người báo tin cuối cùng rằng xứ họ sẽ mổ hai con lợn, một con bò và thui một con bê. Nếu Mặt ngựa có đi câu lơn qua đây, dù đóng quân ở lại một đêm hay chỉ nghỉ chân chốc lát, thì xứ họ cũng trù liệu tùy theo ý thích của quan và theo sự môi giới của hắn!

Thì cơ hội đã tới! Mặt ngựa ghì ghì dây cương cho ngựa dừng lại ở lưng đồi, đăm đăm trông về phía nhà thờ rồi cả phía trên Thái Nguyên, trên Lạng Sơn. Chợt được cái phút cặp mắt xanh lét của Mặt ngựa nhìn mình, Con-la-láu-cá liền khum người và giơ giơ tay:

- Xếp! Phe mỳ, Son-đa, Coút-xê, boong boong la bà (1) .

Mặt ngựa nheo mắt, cười một nụ cười vừa bao dung vừa tinh quái, rồi bằng tiếng Pháp với cách nói, câu nói mà một kẻ nói tiếng Tây bồi và hiểu tiếng Tây không được như tên Nhất Cửu lính hầu của hắn hay bất cứ người nào chỉ biết ba tiếng Me xừ, xếp, uẩy và noong (2) cũng phải hiểu:

-----

(1) Quan chỉ huy, tối đến lính ta ngủ ở nhà thờ đây kia (Fait nu it soldat coucher maison boong boong là bas).

[2] Monsieur: vui, non.

- Được rồi, tao sẽ hạ lệnh đóng quân ở cái đồi có ba cây kia nhưng tao cũng chiều theo ý mày, cho riêng mày với bốn thằng lính bản xứ vào làng có nhà thờ đó để gặp gỡ bà con anh em họ hàng, làng mạc của mày rồi phải kiếm về những thức tốt nhất cho tất cả chúng mày ăn uống thỏa thích để bồi lại sức khỏe.

Rồi đúng như lòng mong đợi của Con-la-láu-cá, Mặt ngựa gọi lấy Cốtnhắc. Con ngựa quan cỡi đã cao lớn, Mặt ngựa cũng cao lớn. Sợ quan xếp phải cúi mình phí sức, Con-la-láu-cá cố kiễng kiễng chân dâng lên cái chai bèn bẹt, nút xoáy đỏ ối như bằng vàng, bọc trong một khăn vải mỏng hơn lụa. Mặt ngựa xoáy mở nút, tợp luôn ba tợp, không để sớt một giọt, nhưng cũng lấy khăn quệt mép rồi khà một tiếng.

- Càng nắng, càng nắng ở cái xứ quỷ quái này càng thấy rượu ngon!

Toán lính lại lỉnh kỉnh cất bước. Mặt ngựa dường như không để ý đến những chuyện trò trong đám quân nọ mà dòi dõi nghĩ tiếp những công việc. Thế là viên quan năm mới đổi về cai quản đạo quân binh này nhất định dùng bàn tay thép để bóp nát các đám nổi dậy chống cự. Kỳ họp vừa rồi của ban tham mưu, y không những kịch liệt chỉ trích sự khinh suất mà còn tỏ ra rất bất bình về một số sĩ quan bị y coi là nhu nhược. Vì danh dự của quân viễn chinh Pháp, và cả vì yêu cầu của công cuộc chinh phục, cho nên một khi gót giày đinh và bánh xe đại bác của nhà binh Pháp đi đến đâu, lập tức các nơi đó đều phải quy thuận, nếu không sẽ bị giày nát, bị trốc trụi.

Bởi vậy, chuyến lên các vùng trên này, đặc biệt là vùng Yên Thế, không phải để thăm dò, mà phải là dẹp tan, là quét sạch...

Nếu như lúc này Mặt ngựa ngồi ở bàn giấy hay phòng riêng thì phải tự thưởng tiếp luôn mấy cốc rượu mạnh nữa.

Hà hà... không nhờ có cánh quân của ta ứng chiến kịp thời và rất mạnh, thì mấy thằng nhãi ranh kéo lên bằng pháo thuyền ấy còn là chết nữa ở trận tiến lên Cao Thượng! Nhưng cũng phải coi chừng thật đấy, Anbe ạ! Mày đừng nên đánh giá quá cao sự gan dạ, sự từng trải, nhất là quá ỷ vào ngôi sao bản mệnh của mày! Trong cuộc hành quân này, mày chỉ được lệnh kiềm chế ở mặt dưới. Không phải là ban tác chiến coi nhẹ mày đâu, cũng không phải là mày bị mất một dịp lập công thêm để lại được bội tinh và chờ gắn lon mới. Mặt trận phía Bắc với vùng Yên Thế đây theo sự nhận định của cả các quan chức bề trên và các quan chức đương nhiệm thì là đất không lành và người không ngoan ngoãn nó sẽ làm quân lính vất vả lắm đấy! Bởi vậy mày...

Mặt ngựa nheo nheo mắt trông những bọn người ở phía xa xa đang đi đến khu nhà thờ. Hắn cũng thấy có một sự rạo rực lạ lạ vì những tiếng trống, tiếng chũm chọe của phường "Tùng choạc" nghe đã gần lắm.

- Dù sao tối nay ta cũng phải có một bữa ăn và một giấc ngủ lấy sức. Mà phải cắt bọn đốc canh rất chặt chẽ, không thì những con trâu của ta kia không điên vì rượu, vì gái của đêm hội, mà chết vì bội thực, hay là phải khiêng về "nhà phe mỳ" để cấp cứu vì đi tả!

Chợt Mặt ngựa phải nâng vội ống nhòm lên để trông cho thật kỹ:

- Ma quỷ! Chúng nó ở trong làng nhà thờ định dong cờ trống kéo nhau đi đón ta hay làm trò gì thế kia?!!

Con-la-láu-cá xớn xác, nghển nghển trông theo. Mặt ngựa cau mày:

- Lệnh truyền cho mày và hai thằng lính bản xứ kíp đến bảo chúng nó phải quay ngay về. Và cho phép chúng mày vào trong ấy mua các thứ về để chúng mày ăn bữa chiều nay và sáng mai.

⚝ ⚝ ⚝

Xào chạy vội xuống sân, tíu tít:

- Quan hai chỉ cho đằng ấy và lính vào thôi à? Thế thì để tớ thưa với cụ Trương phải thân đưa bò, lợn ra chỗ quan đóng mới được mà đằng ấy xem xứ tớ cũng được phát súng, cũng oách như lính của quan tỉnh vậy. Có động dạng hay đi dẹp đâu thì xứ này...  xứ này...

Trương Xoan chờ Nhất Cửu và trùm Xào lên đến bậu cửa, dũi dũi chân vào cái chổi lúa, chắp tay vái vái xong, mới lừ mắt nhìn họ rồi hất hàm nói:

- Xào à! Quan dong quân đi đường xa, nắng như hôm nay chắc mệt, nên đóng quân ở ngoài đồi nghỉ ngơi cho tĩnh và cũng là giữ gìn các phép tắc cho lính mình. Bay phải cùng thầy Nhất sắp xếp các thứ cho dư đủ để quan và quân lính mời bữa cơm tối. Xem vườn nhà nào có bao nhiêu chuối, bưởi thì trẩy hết để ta đem hầu nước trước...

"Nay quan dong quân, đến đóng ở đồi Ba Cây là để án ngữ cả mặt trên, mặt dưới vì đang đánh dẹp trên kia, và cũng nhân ngày xứ ta mở lễ rước thánh, quan thầy cho xứ ta thêm thanh thế. Chả thế mà cha xứ Bắc Ninh căn dặn phải trang hoàng sao cho nhà thờ mới và ngày hội thật linh đình để làm sáng danh đạo Chúa hơn nữa".

Nhất Cửu và trùm Xào đang cúi cúi nghiêng nghiêng để bàn định công việc đón đưa Mặt ngựa chiều nay và sáng mai, thì thấy ngoài cổng nhốn nháo, lạ quá. Hai tên lính xách tay thước giải một mụ người cao lớn, đầu trọc vấn khăn trắng, đeo tay nải, vào sân. Nhất Cửu giật mình đánh thót: "Con mẹ Ngọ! Con mẹ Ngọ đi đâu và làm sao mà bị bắt vào đây thế này?"...

Giời đất! Thằng chó dái! Cha tổ bố thằng chó dái! Bác Ngọ gái cũng song sốt, nhưng vẫn làm như không hay biết và ngạc nhiên gì cả. Bác tiến vào trước và khi đến bực thềm, bác lên ngay tiếng trước khi hai tên tráng chào Trương Xoan:

- Bẩm quan Chánh Trương, bẩm các ông, xứ họ, con về dưới quê qua đây, thấy trong làng xứ nhà tấp nập mở hội rước lễ, con cũng vào xem. Mới đến điếm Cầu Ngòi thì các chú gọi lại khám người, vặn hỏi rồi bắt giải đi...

- Quê nhà ngươi ở đâu?

- Bẩm quan Chánh Trương... ở Quế Dương ạ...

- Thưa cụ Chánh... nó quê ở Quế Dương, nhưng là người Trũng Mỗ, hàng xóm nhà nó đều theo Đề Nắm, chuyến con lên chợ tỉnh, gặp nó gánh thóc lên làng Hả hôm tế cờ khao quân - Một tên tráng vội ngắt lời bác Ngọ.

Bác Ngọ lắc đầu, dẽ dàng đáp:

- Tôi túng đói đi than, đi củi, vay được gánh thóc phải đem bán để mua khoai, mua sắn, độn lót cho qua ngày ba tháng tám, mà chú lại phô như vậy!...

Trương Xoan nhíu nhíu nhìn như xoáy vào cặp mắt của bác Ngọ sao mà sắc sảo, tinh tường, và thật là một kẻ sừng sẹo. Sau cái giây phút tái hẳn mặt đi, thằng chó dái bừng bừng cả người. "Chuyến này phải cho con mẹ nặc nô, giặc cái này đi tù mới được. Đồn quan ba Đáp Cầu đang cần người cắt cỏ ngựa, người quét dọn chuồng xí. Phải cho con mụ vào thay mấy thằng tù rạc ốm sắp chết".

"Cha tổ thằng chó dái! Thế nào mày chả phô chuyện của ta với thằng cụ mày ở đây và tìm cách làm hại ta! Muốn tra khảo, giam giữ hay giải đến đâu, con bà mày đây cũng chẳng hốt. Con bà mày không chịu quy phục hay tòng đạo nhà chúng bay đâu!".

Bác Ngọ lại phải giở tất cả những gói củ gấu, hạt dổi, thuốc dấu và lộn đít tay nải cho Trương Xoan và Nhất Cửu xem xét. Bác cũng không van nài gì thêm khi Nhất Cửu truyền cho hai tuần tráng phải giải ngay bác xuống tỉnh để tra cứu trong đêm nay.

Theo ra khỏi cổng làng, những đàn bà trẻ em tò mò đã chán, quay cả lại chỗ hồ vườn thánh để chờ cha ra rước Mình thánh Chúa lên kiệu. Lần này bác Ngọ bị trói, một tên tráng vác tay thước cầm dây thừng dong đi. Một tên khác, người nhiều tuổi và có vẻ chững chạc hơn đi theo, tay chỉ cầm một roi song đỏ đầu bịt đồng.

Mặc dầu bác Ngọ nhất định giữ mình không nao núng nhưng khi ra đến ngã ba đường to, phía trước mặt là tỉnh Bắc Ninh, phía sau lưng là Yên Thế, bác Ngọ vẫn phải quay lại trông những núi rừng, đồi bãi trập trùng, xanh ngút trên kia. Qua khỏi cái cầu tre, quãng quãng lại có một bọn người gồng gánh ngược xuôi nhìn mình ra vẻ ái ngại, thì bác càng không thể nén được xúc động. Phải, toàn những người lạ chứ nếu là người quen của ta ấy, thì bác quyết giật phăng dây trói và kêu lên để anh em phang cho hai thằng đi áp tải bác gãy gối tối mặt rồi cùng bác chạy trốn.

Lại một cầu tre nữa.

Sang khỏi quãng đồi này, ba người đi vào con đường tắt ven đồi. Nắng càng hầm hập. Từ những bãi rậm, tiếng "bắt cái tép kho cà" của những gà rừng càng lanh lảnh, vang vẳng. Mùi bùn, mùi cây cối ở những quãng ẩm thẫm sực lên. Bác Ngọ gục gục một bên mặt xuống vai dụi mồ hôi, vừa nhuốt nhuốt ừng ực như cả nước bọt cùng sự mệt nhọc và đau khổ. Lại đến quãng nắng chang chang. Đường đồi đất đỏ như táp lửa thêm. Bác Ngọ thở rền rền:

- Thưa thầy với chú à, con là đàn bà, là nữ nhân nam hóa cho dẫu có phạm tội nặng bị đi phát vãng hay xử chém thì thầy với chú giải đi cũng thương tình. Huống hồ con... quả thật là con... Con từ hôm qua, chưa được một hột cơm vào bụng. Sáng nay phải đi sớm để kịp phiên chợ huyện bán mấy thứ này đi lấy đồng mua quà bánh thăm các ông chú, bà bác để hỏi vay thúng thóc, quan tiền rồi mau mau về nhà với con cái... Con bị chằng trói như thế này mà bụng đói, miệng khát, vai lại đeo nặng thì đến chết mất!...

- Con mẹ này, chết, chết, chết cũng mặc mẹ mày! Tên tráng người vập vạp, mắt ti hí, da xám lì bì, kẻ đã phô gặp bác Ngọ gánh thóc cho quân Đề Nắm ở làng Hả, liền văng tục, và giơ tay thước lên đầu bác Ngọ.

Tên cầm roi song sơn đỏ chau chau mày, bước lên hỏi:

- Gì thế chú?

Thằng nọ lại văng tục, chửi:

- Con mẹ nó kêu đói, kêu khát, kêu khổ đòi cởi trói không thì chết!... Này chết! Này chết!...

Cái tay thước rình rình giáng xuống vai, xuống lưng bác Ngọ. Bác Ngọ né né:

- Giời đất! Con có dám đòi thầy, đòi chú gì đâu. Con chỉ dám xin thầy, xin chú nới trói cho con... xin thầy, xin chú!

Tên cầm roi song khua lên như đỡ hộ cho bác Ngọ và gật gật đầu:

- Thôi, chú cởi cho nó bên cái tay đeo nải! - Y lại quay sang phía bác Ngọ - Như thế phải gắng đi nhanh lên! Đến bờ sông ta sẽ cho nghỉ, uống nước.

Bác Ngọ rồi có đi nhanh thật. Sắp ra khỏi con đường ven bãi rậm, xuống một quãng khá dốc thì bác đứng khựng. Một tiếng "ối" rồi tiếng "ối" thất thanh nữa. Cái tay thước của tên da xám bì bị giật phăng đi. Khuỷu tay bác vừa đánh thúc vào mạng mỡ xong thì bác bóp nghiến vào bọng đái của nó. Nó lăn quay ra ôm bụng, quằn quại, vừa giãy giãy bắp chân bị phang giập hẳn đến đầu gối. Cái tay thước lần này giơ lên đầu tên cầm roi song, và tên này cũng bị cái thúc ghê gớm vào mạng mỡ.

- Ta thương tình bác, nên không bắt ăn cái tay thước này vào đầu, vào chân. Cứ phải đứng nguyên đây, đứng nguyên ở đây, rồi sau có về báo tin thì bảo ta sinh phúc cho cả hai người, và tất cả các người từ rày phải kiềng mặt con mẹ Ngọ này, kiềng mặt các người trên ta nhé!!!

Tên cầm roi song đỏ, chắp tay run run vái lia vái lịa. Bác Ngọ đã mất hút trong bãi rậm và sang quả đồi bên kia rồi mà y vẫn run bắn người, mắt nảy đom đóm, không thể sao ngờ được cái cơ sự khủng khiếp ghê gớm nọ.