Chương II
Năm lính hỏa bài của Đề Nắm chưa xuống đến nơi thì mấy cánh quân ở xa nhất cũng đã tề tựu đủ mặt, súng ống, giáo mác chỉnh tề. Cánh Sặt băng qua khu suối và đường đồi Dương Sơn, làng Sậy, làng Da, làng Thị. Cánh Yên Lễ qua làng Am, làng Dinh, làng Hạ. Sau mấy trận đánh, cánh của Thám không trở về làng Châu Ngô Xá, mà đóng quân lúc ở Ngàn Ván cho gần Cao Thượng và Tỉnh Đạo Nhã Nam, lúc ở trong rừng Lục Liễu để đón quân Tây đổ lên mạn Bến Tuần. Cánh Ngọc Lý đóng ở núi Lang Cao đến sớm nhất và cũng là cánh nôn nóng đi đánh đêm nay nhất vì ở gần Thiết Nam, núi Mỏ Thổ và có người làng vỡ bãi ở dưới ấy về phi báo rất nhiều điều, nhiều việc.
Lặn mặt trời từ lâu. Cánh quân nào cũng xuyên tắt những đồi, những rừng, những bãi, những lũng đi tới nơi cho chóng và cũng giữ kín hành tung của mình. Vì lâu nay những tên do thám cho Tây có người ở cả dưới tỉnh lên và người trên này, chúng hết sức nghe ngóng, tìm tòi, để lập công, lấy thưởng. Tuy giữ gìn như vậy, trong mấy đám quân vẫn có tiếng rì rầm, bàn tán.
- Trên Lạng Sơn, quân ông cai Kinh vừa đánh một trận to lắm, bắn chết cả quan Năm cai quản mấy cánh đi tuần tiễu. Chắc vì vậy Tây mới lại kéo lên Yên Thế...
- Cứ gì phải như vậy! Không chiếm được trên này cũng như không dẹp được quân Yên Thế thì không những Bắc Ninh, Bắc Giang, mà cả Phúc An, Vĩnh An, và Thái Nguyên cũng khó yên đấy!
...
- Đề Sặt lại thêm bảy tay súng nữa.
- Mười chứ bảy à? Tây lại treo giải thưởng lấy đầu Đề Sặt năm trăm đồng và đe thế nào cũng kéo quân lên triệt hạ cả làng Dương Sơn.
- Thế Thống Lịnh có được ông Đề Nắm trọng như Đề Sặt không?
- Dà! Dà! Chỉ biết ông Đề Nắm hay nghỉ và ăn uống ở làng Sặt. Thế là tin chứ gì? Còn trọng thì có thể Thống Lịnh cũng được coi trọng vì cách ăn nói khi bàn luận có vẻ là người sắc sảo, biết tiến biết thoái, rất là trí lự...
- Thôi, thôi, bác này!... Cánh ta hội quân thế này rồi đêm nay đi đánh ngay chứ. Vậy tối nay ở Hả có cho ăn uống gì không?... Hai cánh trên đây đến trước. Cánh Thám cũng xuyên rừng bãi đi tắt, nhưng kẻ đi trước người đi sau cách nhau hai ba thước đều lặng tăm. Nhiều người còn như nín thở để nghe ngóng và cố không cho bước chân chệch choạc, vấp váp, hệt như các thú rừng đã quen lõng, đi tìm mồi. Súng đạn, khí giới đều lăm lẳm, sát phạt. Túi gạo rang buộc gọn bên hông. Cả Thám và cai Cừ cũng mang gạo. Riêng Thám còn đeo một bầu nước nữa...
Trăng mồng sáu đã lên. Các cánh nghĩa quân họp ngay ở sân nhà Đề Nắm. Thống Lịnh chít khăn nhiễu Tam Giang, áo sồi nhuộm nâu. Đề Sặt đội mũ chỏm kiểu các quan võ, áo cánh lụa mộc thắt lưng chẽn nhiễu màu huyết dụ đang đi song song với Thống Lịnh, thoáng trông thấy Đề Nắm đứng dậy để ra cổng đón, thì Thống Lịnh vội lùi lại nói với Đề Sặt:
- Mời quan bác đi trước. Quan Đề Hả ra đón chúng ta kia kìa.
Đề Sặt xốc xốc thanh kiếm đeo bên sườn:
- Thì mời quan bác cùng vào!
Miệng nói, Đề Sặt xăm xăm bước lên. Thống Lịnh mỉm cười quay lại bảo quân mình:
- Ta cứ từ từ, chờ cánh sau...
Mặc dầu đã tới cổng ngoài, cai Cừ và Thám vẫn cứ để cánh quân của Thống Lịnh vào trước. Đề Thám đến bên cạnh, cai Cừ khe khẽ nói:
- Chú Thơm à, cánh ta cứ ngồi hàng cuối, bảo nhau giữ cho đúng phép tắc. Quan Đề Hả có truyền hỏi việc gì, thì cứ để cho Đề Sặt, Thống Lịnh và cánh Ngọc Lý lên tiếng trước. Chú và tôi chỉ nên nghe, nên coi, và khi nào thấy có điều gì thuận, điều gì nghịch, thì vẫn phải bàn trước với nhau rồi hãy trình lên. Chú Thơm ạ! Hoàng Hoa Thám, ra trận này không phạt được đầu quan hai, quan ba thì chí ít cũng phải làm thêm được mấy khẩu súng và mấy thằng lính Tây chứ!
Thám lại thấy nặng nặng trong lòng:
- Chú ơi! Chú cứ gọi cháu là Thơm cho mọi người vẫn gọi cháu tên ấy.
- Không được! Ta muốn cũng không được. Hoàng Hoa Thám hay gì nữa vẫn cứ là Thơm mà! Người dân Yên Thế đây đã gọi cái tên ấy, từ nay cháu xuất trận ở Yên Thế.
Thám lại im lặng để lại không nghĩ đến bao nhiêu điều bao nhiêu việc của đời mình, vừa còn suy tính tiếp những sự sắp xảy ra trong đêm nay và lâu dài nữa. Thám bảo cai Cừ cho mình lùi xuống đoạn hậu, đi cạnh bác Tần, nhắc lại bác cách tránh đạn, cách núp, cách bò, cách bắn nhất là cách cướp súng.
Đề Nắm ngồi ở giữa sân trên chiếc chiếu đậu cạp vải Tây điều. Phía dưới là hai hàng chiếu hoa và chiếu thường. Đề Sặt, Thống Lịnh và mấy người nữa ngồi chiếu hoa. Chiếu Thám và cai Cừ gần Đề Sặt cùng với sáu tay súng và hai mươi tay giáo, mác, thanh phạng ngồi xổm thành bốn hàng đằng sau.
Sáng trăng, những lính hầu vẫn cho thêm một nắm bấc vào đĩa dầu sở trên cây đèn gỗ cao non trước đặt kế trước chiếu Đề Nắm. Cũng vừa thêm sáng, vừa để các quan hút thuốc uống nước. Sau lưng Đề Nắm, cách chừng ba bước, bốn người chống súng và sáu người cầm giáo đứng trông quăng quắc ra cổng và cả bốn phía, mặc dầu cổng nhà, cổng làng và cả bốn điểm chung quanh làng đều có quân canh, tù và, mõ lăm lăm nổi hiệu. Thân hình cao dỏng, xương xương, da ngăm ngăm, dạo này có vẻ gầy và yếu, nhưng trông người Đề Nắm thần sắc và khí phách vẫn oai nghiêm. Tóc hơi điểm bạc xõa xuống vầng trán dô, lưỡng quyền cao, cặp mày luôn luôn rướn rướn trên kia vẫn làm cả mấy chục nghĩa quân hôm nay là lần đầu tiên được gọi đi trận đều hồi hộp, tuy đã nhiều lần, kẻ thì thường gặp chào "ông" ở đình ở chợ, kẻ thì vào hẳn nhà "ông" làm giúp, ăn cỗ những khi có công việc, kẻ thì vay thóc vay tiền tháng ba ngày tám, trong lúc không còn chỗ nào giúp đỡ mà chỉ còn biết đến nhà "ông", đều được cả hai ông bà mời nước, cho người xúc thóc đong ngay và nhất định không nhận bất kì đồ "lỡi" gì dù là chục trứng gà con so, nải chuối ngự, quả dưa hay con gà thiến!
Nhà Tần đã không hỏi vay mà được cả một rá gạo mang về. Bố Tần chuyên đi cày mùa và cáng thuê. Vụ ấy, ông lên bắp chuối, chạy thuốc khắp nơi không khỏi, tưởng đến thối mất chân. Mẹ Tần bế Tần đến hỏi, lại vào ông bà Nắm. Ông Nắm cho đầy tớ sang ngay làng bên xin thuốc một ông lang gia truyền, còn bà Nắm thì bảo con gái xuống nhà ngang lấy gạo còn ở cối giã lấy cho hai đấu.
Nhà giàu khác thì càng ngày càng như có của đổ vào. Đây nhà ông Nắm, thì lại như đổ của đi. Vì khách khứa gần xa, đám xá các nơi; vì giỗ chạp cưới xin trong họ ngoài làng; vì các người cùng túng đến nhờ vả, vay mượn... gần đây lại lấy cả trâu bò của ông bố trên Thuông về "phá tán".
Kéo cong cần ống điếu, hút một hơi, thở dài khói, Đề Nắm không để mọi người chờ đợi thêm, vào ngay công việc. Ông cho biết tin quân Tây lại lên, đánh Lạng Sơn, đánh rất to, và chiếm thêm nhiều đất phủ Lạng Giang. Nhiều nơi đã quy phục. Bọn nho lại lũ lượt ra huyện, lên phủ đón các quan Tây. Những làng đạo ở các vùng đông dân gần tỉnh gần đồn càng kéo chuông, mở lễ, cử quan chức, rào làng, theo Tây cứ rùng rùng. Dưới Thiết Nham đang làm lễ nhà thờ xứ, mở hội rất to, có cả cha xứ và quan Tây Bắc Ninh về ăn mừng. Chung quanh, làng nào cũng nem nép, đến cả ban ngày đi làm đồng cũng lo cũng sợ, vì có người nhà ở trên này bị cáo bị vạ vì đi theo nghĩa quân. Tin phi báo, quân của quan hai Mặt ngựa đã lên đóng ở núi Ba Cây và tráng đinh trong nhà xứ đã được phát cả súng... Một thằng trước được lính lệ nay làm cai nhất và một thằng chuyên đi làm mối lái trâu bò ruộng vườn, có họ hơi to với một Chánh Trương nhà xứ này lên làm trùm trưởng, quyền hành hơn cả Chánh tổng, cả tri huyện, dẫn các quan viên chức vị và tráng đinh trong họ khiêng cả một con bê thui, một con lợn quay và hàng gánh chuối, gánh dưa để đón quân lính quan hai Mặt ngựa...
- Giời...
Một tiếng thét, nhưng chỉ rít lên nghiến giữa hai hàm răng. Đề Nắm ngừng lại, kéo một mồi thuốc nữa...
- Vậy thì xin các quan đề, quan thầy, quan lãnh, các quan quản, thầy đội, thầy cai lại cho phép tôi dốc quân Yên Thế đi... đánh.
- Đánh! Đánh! Đánhaáánh!...
Những tiếng rít ở hàng nghĩa quân:
- Thưa quan bác... quân ta lại đánh... đánh ngay đêm nay, đánh như thế nào???
Chờ mọi người im lặng và Đề Nắm rướn đôi lông mày, bĩu bĩu cái miệng, gật gật đầu tán thưởng xong, Thống Lịnh mới lên tiếng. Đề Sặt liền giơ bổng khẩu súng lên rồi dộng dộng báng súng xuống chiếu, gằn từng nhời:
- Đánh ngay đêm nay, đánh tan cái nhà xứ Thiết Nham ấy đi chứ còn đánh thế nào nữa? Thế nào nữa!
Rất nhiều người phụ họa:
- Xin quan Đề Hả cho đánh Thiết Nham... đánh Thiết Nham...
Thống Lịnh cười nhếch mép, cúi đầu, gật gù:
- Thế quân quan hai Mặt ngựa đóng ở núi Ba Cây là quân bù nhìn, quân phỗng sành à?!!
Đề Sặt cười sằng sặc:
- Thì ta giương đông, kích tây quan bác ơi! Nếu không triệt cho được quân này thì các làng đạo Gia tô cũng như cờ được gió, cuốn chiếu cả mấy làng chung quanh theo đạo, theo Tây hết. Chả thế mà thằng trùm dưới ấy, nhắn nhời cho mấy người lên cấy ruộng bên Yên Lễ bảo với các dân làng Am, làng Sặt rằng: "Muốn làm ăn yên lành sung sướng thì ở làng theo đạo, theo Tây, muốn con cháu khốn khổ, khốn nạn, tan cửa nát nhà thì bỏ nhà đi với giặc, làm giặc!...".
Lại những tiếng nhao nhao:
- Đánh! Đánh! Phải triệt cho tiệt những quân cõng rắn cắn gà nhà!...
Cặp mày Đề Nắm lại rướn cao, nhưng nét mặt đăm lặng. Mấy người vội kéo kéo giật giật áo Thám, bấm bấm lưng Thám. Thám không nhúc nhích, không đưa mắt cho cả cai Cừ và cũng không nhìn cả Đề Nắm mà trừng trừng như thấy một cảnh tượng đang hiển hiện. Cai Cừ cũng vậy. Những cảnh tượng ấy là những việc, những người mười lăm, hai mươi năm trước đây ở trong Nam. Nhất là vừa mới qua khỏi chỉ mới non một năm ở mấy làng đạo xứ Nam Định làm đau xót, rùng rợn vô cùng đời bác. Bác gằn gằn cho Thám đủ nghe, cho mình Thám nghe:
- Không được! Không nên! Không được!... Không nên!...
Mọi người thoắt ngước cả mặt lên nhìn, khi cai Cừ nhích ra bên Đề Sặt, xoa xoa siết siết hai bàn tay, nhìn Đề Nắm, cất tiếng:
- Thưa với quan Đề và chư vị thống lãnh, xin phép cho tôi có một thiển ý. Đánh! Đánh! Phải, ta nhất định đánh. Ta nhất định đánh quân Tây, đánh giặc Tây. Còn như dân xứ họ Thiết Nham, người Thiết Nham là dân ta lương thiện làm ăn, chẳng may có kẻ làm cho mê muội, nó dụ dỗ, xúc xiểm nên mới theo giặc tác oai, tác quái. Ta chớ nên sa vào mưu ma chước quỷ, nhúng vào cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn... Cướp được súng, phá được làng thì dễ nhưng không thể nào bằng thu lại được lòng người, mở được tâm người. Nhất là ta đang dựng cờ tụ hội mọi người, đuổi giặc, lấy lại dân, lại nước...
Đề Nắm sững người, chớp chớp mắt và rướn cao thêm lông mày, quay hẳn đầu lại nhìn cái người gầy xương, đầu trọc quấn dải khăn sòng sọc màu đỏ, mắt sáng và ngược ngạo ít ai như thế; không có súng ống gì cả, chỉ một thanh phạng ôm bên vai.
- Ai vậy? Người Ngô Xá hay Long Cốt ?
- Không phải ạ!... Bác ấy họ xa với chú Thám, mới đem con đến ngụ cư dưới Trũng - Thống Lịnh nối nhời Đề Nắm, rồi tự hỏi "Thằng Thám được người như thế này mà mình chẳng biết gì cả!".
Đề Nắm gật gật:
- Ngụ cư! Ngụ cư! Thế thầy trước ở đâu, có được theo hầu quan lớn nào không?
Cai Cừ ngẩng cao mái tóc hoa râm và cặp mắt lên, trông thẳng vào mắt Đề Nắm và cũng như trông khắp các hàng chiếu và hàng quân:
- Bẩm quan Đề, kẻ hèn mọn con đời ông đời cha vốn người Yên Dũng đi tha phương cầu thực, lâu nay lại tìm về quê cha đất tổ, đi gồng thuê gánh mướn lần hồi, chẳng may gặp buổi loạn ly, vợ ốm chết bỏ lại một con thơ, nghe nói trên đây đất lành cò đậu, thì bố con đưa nhau lên để nhờ bóng các quan, các cụ trên này, chứ có được theo hầu các chức vị nào đâu!
"Không phải! Không phải! Nhà người không thể giấu nổi mắt ta đâu! Cứ như cung cách ăn nói này, thì nhà người phải là...". Đề Nắm nheo nheo mắt cười:
- À ra thế... ra thế! Thôi được! Thôi được! Nhưng chắc hẳn thầy phải đã tập luyện tinh thông võ nghệ, nên cánh Thám có cả súng Tây mà lại để thầy đi đánh "tay vo" với thanh phạng thế kia?
- Bẩm quan Đề, có súng ống, được phát súng ống càng quý, không thì dùng giáo mác gươm đao mà đánh Tây, đánh giặc. Khí giới lợi hại còn là ở cái tay của mình, ở cái chí của mình.
Tâm trí nhói hẳn lên, Đề Nắm nắm nắm bàn tay lại: "Ta đã đi nhiều nơi, tiếp ở nhà nhiều khách, nhưng chưa được thấy một khẩu khí nào như của người này! Hay là cơ trời đã chuyển cho ta trong cuộc hội quân này, giờ mới được gặp người giỏi". Đề Nắm càng nhìn sâu vào mắt cai Cừ, cao giọng:
- Thầy tên là gì?
- Bẩm... Bẩm tên là... Yên ạ...
- À... Yên... Thầy Yên này, như ý thầy thì ta phải đánh, nhưng không đánh vào xứ họ đạo Thiết Nham, thì phải đánh vào quân Tây... đóng ở đồi Ba Cây, đánh vào toán quan hai Mặt ngựa... như thế chứ?!! Như thế chứ hở thầy Yên?...
... Đề Sặt càng như bị một cục lửa bỏng thúc vào gan ruột.
- "Thế là Đề Nắm bỏ không đánh Thiết Nham khi nghe thêm cái thằng cha vơ chú váo này đây! Không! Không thể như thế được! Nếu không triệt hạ xứ họ Thiết Nham, không động đến cả cha xứ cũng như các dân bên đạo, thì cũng phải nhân cuộc nghĩa quân vừa đông đảo và nhiều súng ống mà đánh một trận to để vừa thêm thanh thế, vừa cho mọi người hả dạ. Rồi giết đi hay bắt được cái thằng Xào càng hay! Bắt thằng Xào đi, đưa lên Yên Thế, đóng cọc trói nó mà xẻo từng miếng lưỡi nó ra, bắt nó nói lại: "Này theo đạo, theo Tây thì làm ăn yên lành, sung sướng, này theo giặc, theo cướp thì cửa nhà tan nát, con cháu khốn khổ khốn nạn". Phải! Phải! Xẻo từng miếng lưỡi cái thằng chó mõ, đã đến cả bọn thợ cày làng mình và chầu ăn chầu uống ngày giỗ, ngày tết, thế mà nay nhảy lên bàn độc đưa quân Tây lên đây hét ra lửa!".
Vừa nhủ thầm, Đề Sặt vừa nhìn cai Cừ chòng chọc. Mà chỉ có Thám biết. Nghe Đề Nắm hỏi, cai Cừ lại đưa mắt cho Thám, lẳng lặng hồi lâu mới nói:
- Bẩm quan Đề Hả và chư vị thống lãnh, phép dùng binh thì tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu. Quân của quan hai Mặt ngựa những hơn sáu mươi tay súng lính Tây và lính nón đĩa, đạn dược từng bao, từng hòm, đã từng đi đánh các nơi và lên đánh trên ta, là quân mạnh. Còn xứ họ Thiết Nham tráng đinh chỉ có hai khẩu súng Tây với mấy súng kíp cùng giáo mác mà lại kém hẳn ta, là quân yếu! Vậy mà ta lại bàn định đánh vào quân của quan hai Mặt ngựa thì khác chi ta húc đầu vào đá.
"Nhưng trong chỗ mạnh chỗ khỏe này, cũng có khúc yếu, khúc hèn, nếu mà ta biết ta đánh, thì ta...".
Cả Đề Sặt, Thống Lịnh và những cánh quân khác đều chằm chằm trông cánh quân của Thám. Thám vẫn cau cau đôi mày, cặp môi bặm bặm với ý nghĩ trên đây.
⚝ ⚝ ⚝
Nghĩa quân chia làm ba cánh xuất trận. Một cánh đến đón đường núi Mỏ Thổ lối lên Cao Thượng. Một cánh áp bên kia sườn nhà xứ họ Thiết Nham và đường từ sông Cầu và tỉnh Bắc Ninh lên. Một cánh sẽ đánh thẳng vào trại quan hai Mặt ngựa. Mọi người đều nôn nóng không những chỉ ăn cơm thường bữa tối nay mà còn nắm cơm đi theo đề phòng còn phải đánh nhau với quân Tây đánh đuổi hay từ nhiều mặt tỏa xuống vây bọc. Đề Nắm đốc quân cánh này cùng cai Cừ, Thám và hai mươi tay súng, hơn ba mươi tay giáo mác.
Thám với năm tay súng người của mình và của cánh Ngọc Lý quen thuộc thung thổ đi trước để xem xét binh tình rồi vào trận.
Trăng lặn từ lâu. Trời sao mờ sương và khí đất, cây cối ẩm mục. Côn trùng rên rỉ. Đâu đâu tiếng nai, tiếng hoẵng. Sắp đến núi Mỏ, cánh quân của Đề Nắm tách ra, đi vòng chân núi để đến chỗ quân Tây đóng trại. Quãng này vốn không mấy người qua lại, lâu nay lại đồn có hổ về, nên càng hoang rậm. Tối bưng lấy mắt vậy mà cả bọn vẫn bước phăng phăng, chừng như cái lối mòn đã ngập cành lá mục nát không có chút gì làm vướng vấp, và những vệt sáng xanh nhập nhòe đôi chỗ lóe lên càng làm cho người đi rõ hướng.
- Bằng rày năm xưa chú cháu ta vẫn phải chạy đói, chạy tróc nã, phải bỏ Hưng Yên lên Sơn Tây rồi sang Bắc Giang đây!...
- Bằng giờ năm Thìn mẹ nó nở thằng cu Trọng và chú ta lần này kịch bệnh quá nhắm mắt không còn thể ở với cháu nhớn, cháu bé, với dòng dõi máu mủ của mình...
Ba năm... Hai mươi ba năm... Ba mươi năm... hơn ba mươi năm, chà, đúng bốn mươi ba năm!...
Cái cảnh bãi chợ tỉnh nhà, ông nội bị chém treo ngành... Những ngày bặt tin tức bố rồi bỗng được biết bố bị bắt đóng cũi giải vào trong kinh chờ án chém, nhưng sau được tha và trốn biệt, và hình như chết năm dấy loạn trên tỉnh Sơn Tây hay bên tỉnh Bắc! Bao năm chú cháu phải mai danh ẩn tích, luồn lót trong các chợ quán hết tỉnh này sang tỉnh khác. Thơm Thơm! À Thám, Thám! Chú những tưởng cháu đã mấy lần chết trên tay chú và thành nắm đất bên đường trong mấy kỳ dịch dã và đói kém có nơi ăn cả thịt người ấy. Chú Thêu à! Ai cứu chú cháu mình khỏi ngục tử tù ở phủ Quốc mà cả hai người đều bị tra tấn đến kiệt sức mà chỉ chờ không tháng trước thì cũng tháng sau cũng lại làm ma không đầu...
Trương Văn Thám! Kìa Trương Văn Thám, trong tay người là khẩu súng lắp nhưng năm viên đạn đấy! Ở bao da thắt lưng người lại có những hai mươi viên nữa. Bên cạnh người, kẻ trước người sau ngươi, là các tướng lĩnh nghĩa quân. Ngươi đã được đi trận... ngươi còn phải đi trận... ngươi còn phải lập công... Ngươi lập bao nhiêu công hay chẳng may có chết trận chăng nữa thì cũng...
Không phải là bóng tối mà như một quả núi gì sáng lóa vập vào mắt Thám. Thám không bàng hoàng, cũng không giật mình, càng quăng quắc mắt trông phía trước, môi bặm lại, tâm trí lại phác họa tiếp những việc, những cảnh sắp diễn ra trên quả đồi kia, trên cả đất Yên Thế, trên nhiều nơi nữa, mà Thám thấy không thể nào để một bọn người khác máu tanh lòng cậy quân mạnh súng nhiều muốn đánh cướp chiếm đoạt bao nhiêu hay làm gì cũng được!... Cũng như trước đây, không thể nào để ngự nữa trên ngai, trên sập cái triều đình vua quan lười biếng tham ác, sống dâm dật xa xỉ không còn biết đến các nông nỗi đói khổ, lầm than của dân, của nước đã đến cùng cực.
- Chỉ cướp thêm súng, chỉ bắn, chỉ dụ quan hai quan ba giặc Tây thôi à?!!
Thắm nhắc lại câu cai Cừ lúc nãy nói với mình, mắt càng quắc lên.
⚝ ⚝ ⚝
Đề Nắm, cai Cừ và hai mươi nghĩa quân đến sườn đồi phía Tây chỗ Mặt ngựa cắm trại. Bãi đây cây cối không to không nhiều nhưng sim mua mọc rậm và có nhiều mô đá, nhiều hốc hố! Thám dẫn toán mình phục cách đấy một quãng xa trong mấy bụi rậm từ đây trông sang bên kia rất rõ. Có ba vọng gác. Một ở mỏm đồi trước mặt nơi nghĩa quân chiếm lĩnh, một ở đằng sau dãy lều vải căng dưới những gốc cây, một ở mé đồi có lối xuống đường và đi sang các làng, gần nhất là khu nhà thờ xứ họ. Hai vọng tả, hữu cắt cho lính nón đĩa. Vọng sau lều quân lính Tây ngủ là đốc canh, có một lính Tây và hai lính nón đĩa. Cứ khoảng khắc hai tên trong bọn này lại đi vòng đến hai vọng kia để kiểm canh và hết một canh, thì một lính Tây và bốn lĩnh nón đĩa dưới lều lên thay phiên cho cả ba vọng gác.
Gió khuya mỗi lúc một mạnh. Đêm càng mịt mùng. Tiếng vạc bay qua càng làm nhiều nghĩa quân bồn chồn, thịt da giần giật.
Ở cái lều chứa các đồ lề và bọn lính phục dịch của Mặt ngựa, Nhất Cửu đang đắm mình trong một cơn như mê như tỉnh. Lúc ở nhà trùm Xào cùng hắn sửa soạn khiêng các đồ đi lễ Tây, Nhất Cửu đã nhất định không uống không ăn gì để giữ mồm giữ miệng với Mặt ngựa, vậy mà không thể giữ được. Trùm Xào bưng cả hũ rượu thuốc rót hai chén vại và kéo cái mâm tú hụ một đĩa thịt bê bì vàng thui và còn nhẫy máu tươi, thái nhỏ mỏng bay, trộn với đỗ tương rang giã thính, bày với một đĩa tương gừng và một đĩa khấu đuôi lợn. Thằng quỷ nọ gọi bưng lên tiết canh, nhưng Nhất Cửu phải gạt đi vì thấy ở sau liếp gian bên cặp mắt lươn của Mận cứ nhìn mình nhoi nhói sau khi nó đặt mâm quay đi, để lại cả một hơi da, hơi thịt, hơi yếm, hơi khăn, hơi tóc và cái lưng, cái bắp đong đưa mà cách đây gần chục năm rồi đã mấy lần Nhất Cửu tưởng như mãi mãi phải là của mình, ngày đêm phải ở bên người. Thì khốn nỗi nó nửa là em vợ, nửa là vợ bé của Xào đấy, nhưng cả anh chị nó đều có tiền. Thằng anh chỉ lướn phướn ở ngoài tỉnh, ở trên huyện, ở chợ nọ chợ kia, vậy mà có món kiếm bằng tiền người ta làm đổ máu mắt ra cũng không được. Còn con chị thì hơn đong kém bán và nuôi lợn. Nhà hai vợ chồng, năm đứa con và cô em dông dài nhưng bữa ăn nào cũng không thịt thì cá, cơm nhà quan cũng chỉ đến thế.
Vả lại con chị nó giữ nó ghê lắm! Cho dẫu Nhất Cửu có là chó dái nhưng ở bên đời, lại có vợ, thì nó không thể nào bán linh hồn cho ma quỷ để mất phép thông công...
Cái con Mận ba mươi mốt, ba mươi hai tuổi, da dẻ vẫn như mận chín kia đã nháy nháy cặp mắt lươn và gật gật cái khuôn mặt bầu bầu ra hiệu cho Nhất Cửu tìm cách ở lại. Lệnh của Mặt ngựa đã truyền dân xứ họ lại khiêng đồ lễ đến chỗ quân nghỉ. Có thần thông biến hóa hay mưu chước gì nữa, Nhất Cửu cũng không thể "moong" (3) được. Vả lại, nếu có được vào đóng trong này, thì một chó đói, chứ cả cái "con ba nhi" (4) toàn những chó đói kia, nó tha gì Mận và Mận cũng thừa hơi sức... cân "tư" (5)!!!
-----
[3] Mau quen: vắng mặt.
[4] Compaguic: đại đội.
[5] Tout: tất cả.
Thôi của không ăn thì còn đấy! Hôm nay không được, thì để hôm nào nó xuống tỉnh đi chợ, đi lễ, ta sẽ tìm nó. Và lần này, thằng Nhất Cửu sắm cho nó một thứ gì đấy, mà nó không chịu nhận, thì chí ít hai đứa cũng phải đi chợ, vào quán ăn tiêu cho thật ra tuồng!
Nhất Cửu đã phải đỡ luôn hai chén vại rượu thuốc của Trung Xào, lúc về, vào mâm với lính tráng, uống cả từng bát, vậy mà khi dọn bàn cho Mặt ngựa, hắn còn phải uống một góc chai rượu nước đặc của trùm Xào biếu quan, mà quan uống cũng phải bỏ mứa.
Nhất Cửu nằm lăn ra ngủ ngay khi có lệnh "Tắt lửa trại". Nhất Cửu mê và mê. Cơn mê thế nào lại có cả Mận và đúng là Mận đánh bộ cánh xuống tỉnh đi lễ, còn Nhất Cửu thì đóng bộ đi lễ chủ nhật vừa đầu kỳ "pây" (6).
-----
[6] Payer: trả lương.
Nhất Cửu thức giấc khi tiếng vạc bay ngang qua trại. Khát như khô rang trong người và đắng miệng như ngậm mật, Nhất Cửu loạng choạng, sờ sẫm bình toong nước, thì mả mẹ đứa nào đã tu nhẵn chỉ còn mấy giọt...
⚝ ⚝ ⚝
Rõ ràng thằng gác ở dưới sườn đồi không những không hề dám đứng yên, chợp mắt và để tâm, để trí đi đâu hết, vậy sao bỗng nó bị vật ngửa ra, và bị hai bàn tay dữ hơn móng vuốt hùm beo thít lấy cổ nó thế này, và khẩu súng nó đang cầm thì lại ở tay một người thích lưỡi thanh phạng vào mạng mỡ nó.
- Mày chỉ hơi quẫy là đi chầu Diêm Vương ngay! Khai ngay, khai thật ngay, khai thật ngay thằng bố quan hai nhà mày và thừng cai Nhất nhà mày nằm ở lều nào. Khai... rồi tao sinh phúc cho còn được về nhà với bố mẹ, vợ con!
Thám cưỡi lên ngực nó, lắc lắc đầu nó. Không dám để Thám hỏi thêm vì thấy chỉ chậm chạm một tí thôi cũng đủ tắc thở và bẹp ngực mất, thằng gác xanh mắt, cố lấy hết sức để cất lên rành rọt:
- Bẩm ông... bẩm quan... bẩm ngài... bẩm các quan. Bẩm... ở... ở cái lều to dưới gốc cây ạ...
- Thằng nào? Thằng nào?
- Bẩm các quan... quan Tây... quan hai Tây.
- Còn cai Nhất?
- Bẩm cai Nhất... cũng ở lều to bên phải... bên cái mô đá ạ!...
Thám lột áo nó, trói chặt nó, còn miệng nó thì tọng cả cái cạp quần của nó xé ra. Khi hai thằng lính đốc canh và đổi gác cho nó vừa đến thì cả hai đứa cũng choáng váng, bị vật ngửa như thế. Chúng không được hỏi han gì mà cũng bị trói, đóng hàm bịt miệng, vừa khủng khiếp vừa mừng tưởng đã rụng rời chân tay nhìn lại hai khẩu súng mình tuy bị cướp nhưng mạng mình vẫn còn và bên tai ù ù câu nói:
- Liệu sớm mà tìm đường về quê quán với bố mẹ vợ con làm ăn cày cấy, và phải bảo với bà con họ mạc dân làng một là không được theo Tây, không được đi lính cho Tây, không được làm việc cho Tây để hại dân hại nước. Hai là có ai có thể lên nhập với nghĩa quân thì lên, có khí giới thì cũng tốt, không cần mang tiền bạc gì cả, ba là người người phải làm sao tìm các cách che chở cho nghĩa quân, làm tai làm mắt cho nghĩa quân, của ít lòng nhiều đóng góp cho nghĩa lớn mau thành, nước nhà sớm lấy lại, thoát cảnh ngựa trâu nhục nhã.
Qua những búi rậm, bọn Thám đã lần đến chòi đốc canh, từ đây chỉ còn hơn hai chục bước là chỗ đóng lều quan hai Mặt ngựa và lều Nhất Cửu. Thám bảo bác Tần mang ba khẩu súng về nộp cho quan Đề Hả và dặn lại, khi nào thấy Thám nổ súng chỉ thiên, thì cứ từ chỗ có lều gần đó mà hạ lệnh cho các tay súng phía bên kia nổ dồn đạn và nếu đây bắn lại hỗn loạn thì càng bình tĩnh mặc cho quân các lều đổ ra mà bắn đón, bắn tỉa.
Dưới một gốc cây cụt, buộc túm một tấm bạt mở những các ô, phủ cả những cành lá cỏ tươi, thằng lính Tây đổi canh đúng là đang thiu thiu ngủ. Nó ngồi, giạng háng, đầu ngoẹo vào khẩu súng có lúc nghiêng nghiêng rồi lại dựng thẳng. Không biết là bao nhiêu lúc nó đã vùng lên, vằng lại để có thể bập nổ cò súng mà đạn muốn vào ai, vào đâu thì vào, sau khi lưỡi thanh phạng bổ trượt từ mang tai xuống vai nó, và hai cánh tay và hai bàn tay của Thám vẫn dữ như móng vuốt hùm beo thít lấy cổ áo, vật nó ra, nhưng vì người nó đã to béo, lại cao lớn, lại ở trong cơn mê hoảng, nên nó còn lồng lộn hơn cả trâu mộng bị ghì giữ lúc rạch dao thiến!
...
- Mẹ kiếp thế nào cái nồi cháo thịt nhà bếp nó để lại ăn sáng nay chả nhừ nhão các xương xẩu rồi. Phải làm một bát lấy lại sức không thì cứ say đến ngày mai mất!
Nhất Cửu liêu xiêu đứng lên, mắt hoa đầu nặng. Nhưng vẫn không để va chạm thứ gì, Nhất Cửu khom khom, lần lần ra khỏi lều, men men định đến cái rãnh gần đấy đái một bãi rồi hãy sang lều bọn nhà bếp. Chợt hắn sững người, hắn thấy gai lạnh sởn rợn. Gai lạnh sởn rợn không phải vì ra gió, vì quá rượu để đến nôn ọe! Có tiếng như rú như nghẹn và thình thịch ở chòi đổi canh. Đúng có bóng người mà không phải bóng quen, bóng thuộc, bóng thường. Ba bốn cái bóng nhấp nhỏm ấy đúng là đang vật nhau. Còn hai bóng khác thì - ma quỷ ơi là ma quỷ - đang quỳ, đang quỳ như ngắm súng vào lều của cả quan hai và lều hắn.
Nhất Cửu toan kêu lên để báo động. Nhưng nghĩ ngay mình mà tru lên thì lập tức không ăn đạn thì cũng ăn dao, ăn phạng. Hắn bèn cứ để nguyên không xắn quần xắn cung gì cả mà vẫn ngồi im để rồi chống tay lùi dần về lều.
Đúng lúc Thám bắn phát chỉ thiên thì Mặt ngựa choàng dậy. Con-la-láu-cá của nó lay lay chân nó, thở không ra hơi, u ú nói:
- Quan lớn! Quan lớn ơi! Chúng nó! Quân chúng nó!
Mặt ngựa quơ lấy súng ngắn bắn ba phát và thét truyền lính kèn báo động nổ súng ngay và chuẩn bị ra cả ngoài để xung trận.
Liền năm phát đạn phầm phập bắn vào lều, một viên sượt qua hàm Mặt ngựa. Mặt ngựa quệt vội máu rồi hô tất cả đám lính cậu bắn trả lại.
Hắn vừa khom khom ra khỏi lều với Nhất Cửu, thì một loạt đạn từ sườn đồi bên kia chíu chíu phạt sang.
- Đưa khẩu súng Tây vừa cướp được kia cho ta. Thầy Yên ơi, thầy lấy súng của ta mà bắn chứ!
Đề Nắm vừa gọi cai Cừ vừa nổ đạn với cây súng mới! Cai Cừ đón lấy khẩu súng của Đề Nắm đưa, nhưng bác không bắn vội, mà lăm lăm chờ trông thấy rõ hẳn một hai thằng Tây để làm một phát xuyên táo cho sướng, cho hả.
Phía đồi lối sang làng Thiết Nham, Đề Sặt nóng ran cả người khi nghe thấy đúng là tiếng súng của bọn mình đang bắn, và trong khu nhà xứ không biết bao nhiêu đuốc đã bật hồng. Những tiếng kêu, tiếng thét, tiếng gọi râm ran cả vùng. Mặc dầu cửa làng vẫn đóng, sau hào lũy chỉ thấy rầm rập tiếng người qua lại, Đề Sặt cũng nhằm vào một chỗ lửa sáng mà nổ đạn. Cánh Thống Lịnh đóng ở lưng núi Mỏ Thổ cũng chồm chồm chờ lệnh cho xuống đánh tiếp ứng, nhưng không hiểu ông Nắm còn suy tính sao mà vẫn cứ bảo nghĩa quân "Khoan khoan" để còn nghe ngóng binh tình cả phía trên nhà nữa...