Chương III
Ngay trưa hôm ấy, ở chợ Thương tỉnh Bắc Giang, chợ Nhất tỉnh Bắc Ninh và ngã tư Bích Động huyện Việt Yên là huyện sở tại quân Tây đến hôm qua, người ta thấy đóng cọc bêu đầu và niêm yết tội trạng của những kẻ nổi lên theo giặc cùng những tên giặc vừa bị trừng trị ngay tại trận đêm qua. Cáo thị của đạo quan binh lại khuyên mọi người càng phải nên an cư lạc nghiệp và trông đấy mà suy nghĩ.
Những kẻ bị bêu đầu này thật ra chỉ có một nghĩa quân bị thương nặng phải trú lại ở trong xóm, còn toàn là những dân xóm quanh vùng và mấy người lạ mặt khả nghi bị bắt khi quân Tây truy đuổi nghĩa quân và lục soát các làng lân cận.
Cũng ngay trưa hôm ấy, không cần phải có báo cáo của bên tỉnh Bắc, Hà Nội cũng biết đầy đủ chi tiết về các sự việc xảy ra. Một mặt khẩn sức cho cả quan binh và quan tỉnh bên Bắc phải sớm và bằng bất cứ giá nào dẹp các toán nghĩa quân, và chặn đứng sự lan tràn của giặc họa ra các vùng đã vào khuôn vào nếp. Một mặt Hà Nội lại cho quan khâm sai triệu tập các quan tỉnh ngoài Bắc về tường trình tình hình các địa hạt trị nhậm, phải cam kết thực hiện tốt các chương trình của Hà Nội đề ra về công việc trị an và mở mang nền bảo hộ. Phải, Hà Nội lại thấy còn phải chật vật trên các đất đã đánh chiếm được này. Quả là tai hại! Tai hại! Nếu như các nơi có văn thần, nhân sĩ dòng dõi cổ cựu được tước lộc danh vọng của triều cũ như Phạm Văn Nghị ở Nam Định, Nguyễn Cao ở Bắc Ninh, Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Nguyễn Quang Bích ở Hưng Hóa Tuyên Quang, dấy lên hưởng ứng chiếu Cần vương, đang chống lại chính phủ bảo hộ, thì cũng đã đáng ngại. Nhưng giờ đây lại thêm nhiều vùng, nhiều đám, mà kẻ khởi xướng chẳng nhận được chiếu chỉ hay chẳng phải là tông môn gia giáo quan quyền gì mà cũng dấy loạn! Cả trên Mường, trên Mèo, trên Mán, trên Thổ Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn; cả ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình, Tuyên Quang, Phú Thọ. Và đang ở cả Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Giang, Sơn Tây sát lưng, sát nách Hà Nội. Riêng ở Bắc Giang, đặc biệt là vùng Yên Thế, hầu như không làng nào không nổi lên một Đề, một Lãnh, một Thống, một Đốc mà chẳng cần sắc phong hay nhận được một chiếu chỉ gì của Hàm Nghi!
Bọn quan lại bản xứ bẻm mép gọi đấy là cái đám giặc cỏ! Không! Không thể được! Phải coi thật là các đạo quân, các toán quân mà nếu "chúng nó" được tổ chức hẳn hoi và có người chỉ huy minh mẫn, có tài và có trí thức quân sự thì sẽ thành những mối nguy cơ ghê gớm, tác hại khôn lường!...
Quan năm Mũi khoằm cai quản các đạo binh tỉnh Bắc tuy không coi thường cái nhận định trên đây, nhưng hắn cũng rất bực giận vì sự chủ quan và sơ xuất của Mặt ngựa. Nhất là hắn dưới quyền của tướng Brieu de é blax đang chuẩn bị đánh chiếm hẳn Yên Thế. Bởi vậy khi giải ba thằng lính chết hụt đến thẩm vấn, Mũi khoằm chỉ vừa trông thoáng chúng vào sân mà đã lộn cả ruột! Thằng giập miệng, thằng vêu đầu, thằng sứt trán. Cả ba thằng đã bảo nhau lấy đá, lấy gộc mà ghè xả vai khụy u chân, mà bổ vào mặt vào người mình. Bước chân cứ lả đi, chúng kêu rên đã chống cự hết sức với quân Yên Thế. Đã thế lại phải nghe Mặt ngựa nói xin cho chúng đi nằm nhà thương, thì Mũi khoằm liền khạc, nhổ phì một cái mà quát lên truyền lệnh tống ngay mấy đứa khốn kiếp nọ xuống nhà phạt, ở xà lim tối riêng biệt, ăn cơm nhạt, cùm hai chân, rồi sẽ ra tòa án binh xử tội về canh gác... lơ là và để mất súng...
Không cho Mặt ngựa trình bày, dẫn giải thêm nửa câu, hắn đã hất hàm đuổi Mặt ngựa ra khỏi bàn giấy và gọi tên quan ba và bọn quan ở phòng tham mưu đến để nghe và có ý kiến thừa hành quyết định của hắn.
⚝ ⚝ ⚝
Suốt dọc đường, từ bến đò sông Cái bên kia Hà Nội lên tới cổng tỉnh Bắc Ninh, không một làng sở tại nào và cả những làng ở xa, nhưng có dính dáng đến họ hàng nội ngoại của ba quan lớn tỉnh, hay có người nhà được đi hầu cận ba quan lớn tỉnh, hầu cận của quan công sứ không lo lắng, bận rộn tất bật vì công việc nghênh đón. Được đi hầu các quan thì càng tất bật, bận rộn, lo lắng nhưng mà nhiều người bọn này lại cũng lấy làm hãnh diện. Nhất là những bọn hào lý, cũ cũng như mới, được ba quan lớn tỉnh hay các quan tri phủ tri huyện tin dùng và lăm le lên các chức vị khác nữa sau cái chuyện này.
Mặc dù đã sức rất khẩn lại còn cho gọi các hào lý lên hẳn huyện, hẳn phủ mình để hỏi han và dặn bảo các việc, tri huyện Gia Lâm và tri phủ Từ Sơn vẫn chưa thật yên lòng. Từ ba hôm nay ở công đường phủ Từ Sơn cũng như huyện Gia Lâm tấp nập chưa bao giờ như thế! Nho lại, lính tráng và hào lý cứ như đèn cù ở ngoài cổng, ở các trại. Còn quan thì ngồi rất nghiêm giữa công đường luôn luôn cho lệnh gọi các người vào trình báo công việc, nhiều lúc lính trà và lính hầu đã bưng khay đồ nước đến trước mặt, định nhấc chén, nhấc bát, nhấc đũa rồi mà lại đặt xuống! Có món để nguội phải hâm đi hâm lại.
Sáng nay, trời đã rạng sáng, ở cả nhà tri phủ Từ Sơn cũng như nhà tri huyện Gia Lâm, vợ con hai quan lớn đều phải dậy theo ông nhà ta. Bà nào cũng thân xuống bếp xem xét đồ nước để quan ăn sáng nay có thật làm đúng như các thức mình dặn và đã sẵn sàng chưa. Biết chắc thế nào ba cụ lớn tỉnh và cụ lớn công sứ có qua đây sớm nhất cũng gần trưa, nhưng có một sự giời xui đất khiến, tình cờ lạ lùng mà các quan dừng lại nghỉ chân mà vào phủ đường thì ôi thôi, thế nào mọi người chả kháo chuyện đi các nơi và bảo nhau: "Đúng là mả tổ nhà ông phủ Từ Sơn đã đến ngày đại phát!". Nghĩ thế nên tri phủ Từ Sơn nhất định không nghe vợ khề khà ăn thêm mà gọi pha chè ngay để súc miệng rồi đi.
Hai lính lệ áo nâu, nón sơn đen, hôm nay chỉ dám thắt lưng vải nhuộm màu mận chín, chứ không là vải điều như mọi khi, đã đem võng đến chực sẵn trước thềm. Vợ tri phủ Từ Sơn kéo kéo, vuốt vuốt thêm khăn áo cho chồng rồi đỡ chồng vào võng. Đã nằm xuống chiếc chiếu trải thêm nệm căng lọng lưng rất êm rồi, nhưng giật mình trông vẫn thấy là chiếc đòn gỗ sơn then mà đầu là đầu rồng sơn son vàng đẹp như đầu đòn kiệu thánh, tri phủ Từ Sơn vội nhỏm dậy, thét:
- Mả bố hai cái thằng này! Hãy hạ võng xuống nào!
Cả hai đều ngạc nhiên, luýnh quýnh nghiêng vai, lấy tay nâng đòn cho quan bước xuống:
- Đi lấy cái đòn sơn then đầu cong thường thôi!
Vợ tri phủ cũng nhột người:
- Chết! Chết! Chúng bay vô ý vô tứ quá! Không biết hôm nay là đi đón các quan lớn tỉnh à?...
Tri phủ Từ Sơn nằm nhích rất cao để còn xem xét. Mùa nước lũ mưa to vừa qua, tuy vùng này không bị lụt to, lụt lâu nhưng đường sá nhiều quãng cũng hư hỏng. Tuy đã đôn đốc thật ráo riết, nhưng dân phu mấy làng nghe đói từ phía làng Đình Bảng ra đến Yên Viên nhất là ở bên sông Đuống, bỏ lên vùng trên nhiều quá, nên cũng chỉ sửa đắp lại được phần nào, và những đồng ruộng ngập úng vẫn chịu bỏ hoang, quang cảnh vẫn xờ xạc. Tuy vậy, đây vẫn chưa đến nỗi như nhiều vùng lụt lội, dịch tễ, loạn lạc khác phải đem bán cả tàn tán cờ quạt của làng đi lấy tiền chia nhau đong gạo, mà vẫn còn giữ đủ để đưa bày cắm ở các cổng chào bái vọng.
Quá làng Đình Bảng, đến đầu tổng Nghĩa Lập, tri phủ Từ Sơn thấy dốc Lã cũng phấp phới cờ, giăng giăng tàn lọng, mấy bọn kéo xe, hàng nước họp rất đông và lại còn có cả mấy làng Phù Lộ, Phù Ninh, Phù Chẩn cũng đưa các đồ lên dựng cổng chào cắm cờ, cắm tàn, cắm lọng, liền cho gọi tất cả mấy bọn hào lý lại khen. Nhưng khi bọn này vái chào trở về chỗ trực, y vẫn căn dặn hai viên chánh tổng hai khu đó:
- Chớ có để sơ suất gì khi các quan lớn tỉnh và các quan bên Hà Nội trẩy qua đây! Các quân phu cáng kéo xe Lã Côi có tiếng là hỗn lắm đấy! Các thầy phải bảo ban và trông coi bọn đinh tráng tuần gác hết sức nghiêm ngặt, để ý luôn luôn đến những quân lưu manh kia và những kẻ vãng lai lạ mặt. Cả mấy quân làm thuê gánh vã vùng dưới kia cũng vậy.
Tri huyện Gia Lâm còn dậy sớm hơn. Người đã có tuổi, vốn bị bệnh suyễn, hôm nay gặp tiết trời ẩm nặng, nên lại khò khử mệt bã. Bà vợ đã phải lấy nửa thìa nhung sao tán như bột chế vào một chén nước đem bưng cho ông uống và bón cho ông ăn không được đầy bát cháo thịt gà hầm với hạt sen, lại càng thương ông đã trị nhậm ở một huyện đầu trâu trán khỉ lại gặp phải thời làng lắm cái nhiễu nhương, nhất là đang ho hen thì các quan lớn lại trẩy qua địa hạt, mà lại là quan Tây đầu tỉnh mới về trọng nhậm!
Lại chính tay bà vận quần áo và đóng khăn cho ông, dắt nâng ông ra cửa lên võng. Vì cái bệnh nó hành, ông không nằm được, phải kê độn hai gối bông để nửa nằm nửa ngồi, mà ra bến đò nghênh đón. Cả ba lính lệ phu cáng và theo hầu cũng đều khổ sở vì buổi nay bận rộn mà quan huyện lại phải ngày con nước. Người quan tuy gầy yếu nhẹ thênh nhưng lại làm họ thấy nặng hơn hòn đá và rất lo, rất ngại. Họ vừa phải cân nhắc từng bước chân trên con đường vừa rải lại đá dăm và đất cát pha, vừa phải nghe ngóng những tiếng khò khè chỉ rình sặc lên của quan huyện, vừa phải nén những căm giận sự cay nghiệt của huyện bà, đã không cho họ lấy một bát xôi đỗ đen ăn lúc lòng không dạ đói thì chớ mà cũng không để cho họ còn kịp uống bát nước chè xanh và ăn mấy củ khoai với bọn nhà bếp, mặc dầu họ trông thấy hẳn hoi mấy củ ở cái sảo để ngoài đầu hè có cả đĩa muối vừng.
Đường từ bến phà lên dựng đủ hai cổng chào. Những đá tảng lớn kê lại hết. Đất, cát, sỏi và đá dăm rải dày hàng tấc. Cỏ rác không một cọng vương vãi. Nhưng ma quỷ! Sao lại đông người thế kia? Người! Người! Toàn những đám người lếch nhếch, nhem nhuốc, quấn túm cái thứ rách rưới, con bồng, con dắt, chống gậy, ôm bị; không phải chỉ có ông già bà lão mà có cả những đàn ông, con trai mặt mày vêu vao, tóc tai bù xù, nằm ngồi la liệt từ chân dốc ở bến phà lên, suốt tới cổng chào lớn nhất ở đầu đường cái!...
Người sặc ho không phải quan huyện mà là đội lệ:
- Bẩm quan lớn, để như thế kia thì là cho dân đi lĩnh chẩn mất! Con phải cho gọi cả mấy thằng phó lý và trương tuần ở tại đây, nọc chúng ra mà đánh ngay mới được.
Đội lệ chạy lại chỗ dừng võng, chắp tay vừa ho vừa nói. Tri huyện Gia Lâm vuốt vuốt ngực, cau cau mày giây lát, rồi lắc đầu:
- Đừng! Đừng! Thôi! Thôi!... Nhà ngươi bảo với chánh tổng và lý trưởng rằng ta truyền phải dụ ngay những kẻ kia phải vào cả trong chùa làng đang có đám chay, sức cho nhà chùa nấu thêm vạc cháo và có khoai thì cho khoai, có sắn thì cho sắn để họ đi nơi khác, rồi ta sẽ lấy thóc ở kho hoàn lại số gạo ấy cho.
Nghe các hương lý dụ bảo và thấy cả quan huyện cũng dõi theo bọn mình, những đám lếch thếch nọ dùng dằng lúc lâu rồi kéo nhau qua đường đê, vào trong chùa bên kia đường.
- Bẩm... Bẩm quan lớn... phà đang sang... phà đang sang... Phà sắp cập... Cập bến phà...
- Bốn năm nguời cả hương lý sở tại và nha lại huyện nhà cuống quýt chạy xuống trạm đón vái chào và báo tin. Tri huyện Gia Lâm đành xuống võng, ra ngoài. Trời hừng nắng. Nhưng vẫn nặng nặng, làm người mỏi mỏi, rởn rởn. Mỏi mỏi, rởn rởn vì cái tiết trời ẩm thấp sau trận mưa lấp lỗ rươi. Tri huyện Từ Sơn bước những bước mà thịt bắp chân như sắp nhũn ra vì mỏi mệt. Ô kìa! Phà chỉ còn cách bến hai con sào nữa. Cả mọi người trên phà đều nhổm nhổm về phía sau cỗ xe song mã mà hai bên, tả thì quan tuần phủ, hữu thì quan án sát đang đứng túc trực, lăm lăm bước lên bến trước để vái chào xin cho phép mới đánh xe lên bờ.
Cả tri huyện Gia Lâm, các hương lý sở tại và phu phà cùng nhiều người khác đã xuống đón. Không chỉ phu phà và các tuần tráng lội quá mép nước, mà cả các chánh tổng, lý trưởng. Tri huyện Từ Sơn thì đứng lăm lăm ở một bờ đá, người đã còm cõi lại mặc áo dài, quần ống sớ, giày tụt ra, hai tay giơ giơ để cùng mọi người đón lấy thành phà, giữ cho không xô vập, trông càng thảm hại! Hầu hết quân hầu và lính tráng đi theo đều dàn ra hết mạn phà cùng bọn phu khi phà từ từ cập bến, đón lấy những cây sào và đỡ chắn những hốc cho phà không bị chút chòng chành, xô vập.
Mặc dầu phà đã sát bờ đá, hai sạp ván bắc rất khít, sóng nước chỉ oàm oạp ở ngoài xa, tuần phủ Bắc Ninh vẫn chưa dám cho lên xe. Y vẫn cùng quan án sát khom khom chờ viên thông ngôn ra lệnh cho người xà ích đánh xe cụ lớn công sứ cho ngựa chuyển bánh.
⚝ ⚝ ⚝
Nhưng kìa cụ lớn công sứ đâu?!!
Cụ lớn công sứ không đi chuyến này à?!!
Hay người ngồi trên xe kia là cụ lớn?
Không! Không! Cụ lớn sao lại là đàn bà thế kia?
Đúng! Thật đúng! Thật là một đàn bà! Thật là một đàn bà! Một bà Tây!
Mặt bà, lông mày nhỏ như sợi chỉ, thoa phấn, má hồng, môi son. Áo bà phong phanh, để hở cả cổ, cả ức, gần tới vú. Vú bà phồng lên dưới lần sa màu hồng hồng viền mấy mép chỉ thêu. Bà đội mũ. Cái mũ cao cao tròn tròn như mũ các hoàng hậu nhưng lại bằng dạ hay nhung đen, không thêu, không đính hình phượng, hình mây, hình hoa gì cả, chỉ cắm có một cánh lông dài như lông chim phượng mà là phượng trắng rung rung lất phất. Không thể rõ bà già hay trẻ. Da dẻ bà vẫn mỡ mướt duy đuôi hai con mắt đã chếp nếp và mắt bà khi liếc nhìn thì cứ như dao biếc. Bên cạnh bà có một cái gì như là cái hòm, mà là cái hòm bằng đồng chứ không phải cái hộp, phủ khăn nhung màu cánh trả. Và một con chó - là chó hẳn hoi chứ không phải là con mèo - lông xồm xồm xám xám, tai rủ, lưỡi đỏ lo le, nằm to hó trên một cái nùn - Không! Không phải cái nùn, mà là cái nệm hay cái gối, cũng bọc nhung màu cánh trả.
Phà đã im thít như tận mặt đất. Đôi ngựa kéo cứ nghển nghển cổ, gõ móng xuống sàn. Viên thông ngôn chờ cho mấy hàng cờ dàn thật thẳng hai bên và cả tuần phủ, án sát và các tri huyện, tri phủ đã đứng thật đúng thứ bậc ở mép bến, liền trịnh trọng đến chỗ bực lên xuống ở cửa trái xe, đứng nghiêm, giơ cánh tay ngang mang tai rồi cúi đầu nói một thứ tiếng gì mà khi y thoạt cất lên thì bà mỉm cười, gật đầu, nói lại mấy tiếng như chim hót.
Xà ích cũng vào trạc thông ngôn. Nhưng áo y bằng thứ vải trắng hồ bột trắng lốp, cúc đồng đỏ như vàng, hai mép cánh tay áo, vai áo viền những đường hoa văn, hoa thị bằng kim tuyến. Y không chít khăn, mũ đội như cái cối tán thuốc của nhà ông lang, cũng trắng lốp và viền các đường kim tuyến. Đang giữ túm dây cương ngựa, đứng ở trước xe, thấy viên thông ngôn đã đến xin lệnh bà lớn, và bà lớn đã thuận, y liền đứng nghiêm, cúi đầu rồi toan giật cương cho ngựa bước.
Nhưng bà lớn xua xua tay. Bà đứng dậy, bảo viên thông ngôn và xà ích để bà xuống xe. Cả hai người nọ đều sửng sốt. Nhưng sau nghĩ ra là bà cẩn thận, vừa phần đã ngồi lâu, nên bà muốn đi lại cho đỡ chồn chân. Khi bà ôm cả con chó con lông xồm xồm xám xám vừa nhón tay nâng váy lên chưa bước khỏi bậc cuối cùng thì hai người nọ đã đứng chực hai bên đỡ váy nâng lên theo, vừa khuỳnh cánh tay để bà vịn. Bà nhún nhún rồi núng nính bước từng bước, vừa phe phẩy cái quạt bằng lông rất mềm rất mướt. Bà chưa lên khỏi bờ, tất cả các quan đều xô đến đón vái chào.
Tuần phủ, áo gấm màu cánh trả hoa cúc phủ sa thâm ôm cái nón lông đen chóp bạc tiến ra trước. Thứ đến án sát, áo gấm màu Tam Giang cũng phủ sa thâm và cũng nón lông chóp bạc ôm trong tay. Tri huyện Tiên Du cùng hàng với tri huyện Gia Lâm, đi sau tri phủ Từ Sơn. Hắn này vừa bắt gặp cặp mắt nhìn của viên thông ngôn thì càng như mở cờ trong bụng, nhưng vẫn cứ phải làm ra vẻ tự nhiên để tránh sự chú ý của hai quan lớn tỉnh.
Vừa làm ra bộ thân thiện, vừa vẫn giữ vẻ kiêu kỳ, khinh mạn của bề trên, bà lớn thỉnh thoảng vừa đi, vừa vuốt đầu con chó, vừa mỉm mỉm cười, quay nhìn bọn quan khom rom đi theo mình, nói một câu khen bâng quơ với viên thông ngôn. Đến đầu dốc, trước bực cửa xe song mã đã quay ngang đón đợi, bà lớn đứng lại. Cặp mắt xanh lơ của bà đưa nhìn một cách tinh quái vô cùng, không bỏ sót một thứ gì khiêng, gánh đang đi lên làm thành quãng đuôi đông nghịt, dài dặc lộn nhộn vì người nào cũng muốn được bám liền sau xe ngựa, nhất là được bà lớn thỉnh thoảng để mắt tới sự trân trọng, sự vất vả và cả sự hỉ hả của họ.
Hai cái "quang nhì sướng" của con trai Vinh Phát vẫn được bà lớn chú ý nhất, và cũng lại đi liền nhất sau xe ngựa. Hai thồi này của Vinh Phát bố mới thửa ở một cửa hàng có tiếng của phố Hàng Trống. Thồi to quá khổ. Thùng thồi vừa sâu vừa rộng, bốn cái chóe hạng đại và hai quả phù tang cũng hạng đại xếp vào vẫn thừa chỗ. Trong ngoài, gỗ đã quang dầu lại còn viền những đường chỉ hoa văn sơn then và sơn son. Nắp thồi cao gần tới đòn khiêng, hoàn toàn sơn son thiếp vàng đủ cả mây ngũ sắc, chim loan, phượng và các hình quả quý! Đòn khiêng thì như đoàn kiệu thánh, đầu phượng đuôi loan. Những quý vật còn bọc bằng lụa, bằng nhiễu, bằng gấm, vóc màu hồng, hoa đào hay cánh sen, ngọc bích. Không ai đoán ra hết được là những thứ quý vật gì.
Người thì bảo trong ấy toàn sâm, nhung và các thứ bào ngư, nấm xào, tay gấu, nấm hương... Người thì bảo bọc ấy, súc ấy toàn gấm vóc. Người thì bảo chóe ấy, quả ấy xếp những hộp ngà, hộp nạm xà cừ đựng toàn các đồ trang sức bằng vàng, ngọc thạch và ngọc trai.
Người thì bảo... có cả thuốc phiện, thứ thuốc bạch cống cũng chuốc ở bên Tàu sang.
Cặp mắt của viên thông ngôn và đặc biệt của hai người bồi, bếp theo hầu bà lớn đều chăm chắm vào bọn tám người khiêng hai cái "nhì quang sướng" của Vinh Phát con ở trên Yên Thế vừa về Hà Nội sắm sửa làm lễ phẩm để rồi đây sẽ làm nhà, mở cửa hàng ở Bắc Ninh, chuyên bán cho các quan Tây to, các trại lính Tây và đấu thầu những công việc phải trường vốn và có vây cánh thế lực. Và cả ba người biết rất rõ mọi thứ quý vật trong những gói, những bọc, những súc, những chóe, những quả đựng trong các hộp nọ. Duy có mấy thứ thì cả ba người đều chịu không thể ước lượng được là bao nhiêu, và đều e ngại lỡ ra nó bị suy suyển thì thật tai vạ vô cùng cho mình, hay một trong bọn họ chính là kẻ bớt xén hay được chấm mút nhiều hơn thì thật quá đểu, quá đểu!
Vinh Phát con cứ làm ra vẻ không quen thân gì với cả ba người nọ. Vẻ mặt hoan hỉ với cái cười không ai hiểu vì sao hắn cười, như của bẩm sinh, trời phú cho cái tính dễ dãi, xởi lởi của hắn. Bởi vậy từ quan tuần phủ đến quan án sát đều rất nghi và thấy ngại ngại tên này. Và có cả sự căm căm, bực bực nữa. Nhưng dù sao vẫn cứ phải chịu đựng, và rồi ra sẽ còn phải chịu đựng nhiều cái gai ngạnh quái quỷ của hắn nữa, nhưng, vì thời buổi, vì thời thế nên đành phải làm thinh!
Cũng như đối với ba tên thông ngôn, bồi, bếp kia! Cũng như đối với các cha cố lạnh lùng, hãnh tiến và cao đạo vô cùng sống ngay trong bản hạt. Tất cả những cờ lọng tàn tán đã dàn ra hai hàng ở bên đường. Nép nép vào một gốc cây trước một trạm đón bày đủ hương án và các cờ biểu thờ thần, hai quan lớn tỉnh và bọn tri phủ tri huyện lại lom khom chờ bà lớn lên xe thì vái lạy và cho lệnh nổi nhạc dàn bát âm và nổi trống ruổi quân.
Viên thông ngôn và xà ích lại lăm lăm ở hai bên bà lớn. Khi bà vừa nhón tay nâng váy thì cả hai vội đón theo, cúi rạp đầu như muốn bà ấn cả đầu lẫn người mình xuống để lấy đà bước lên khỏi hai bực xe. Vẫn phe phẩy cái quạt lông mềm mướt như thử quạt của Tây Vương Mẫu hay của ông Phúc, ông Thọ trong tranh, bà lớn không ngồi xuống nệm vội mà đứng thẳng, nhíu nhíu cặp mắt mi mòng mọng lại mỉm cười vừa vuốt vuốt đầu con chó.
Bỗng như từ những hang hốc hay âm ti địa ngục mở cửa ra, những đám người không chỉ ở trong chùa đổ đến mà còn cả những người ở dưới chân đường, ở các gốc cây, các điếm đê, các lều, các quán chạy bu đến cả phía trước, cả đằng sau đám quan tỉnh và bà lớn.
- Đói ơi là đói! Ới ba quan lớn tỉnh ơi!
- Chết đói mất thôi! Ôi các quan lớn ơi!
- Đói quá! Mùa màng thất bát, hết lụt đến hạn thế này thì chết đói hết thôi!
- Chờ mãi chẩn bần mà chẳng thấy đồng tiền bát gạo nào cả! Giời ơi là giời!
Tiếng kêu, tiếng gọi, tiếng mếu, tiếng rên, tiếng ho với cả tiếng khóc, tiếng nguyền rủa thân phận số kiếp của mình nữa như ong như ri rùng rúng, râm ran cả một vùng. Tất cả bọn các quan và hương lý như bị trời sập, sét đánh. Bà lớn phút giây như chết đứng và không thể sao hiểu được lại có cái cảnh tượng này. Bất giác bà nhắm mắt lại, kêu tên Chúa cực trọng. Đặt con chó xuống gối nhung giơ tay làm dấu thánh giá, rồi mới mở mắt đồng thời với một nụ cười. Bà giơ cái quạt lông phẩy phẩy bốn phía rồi cúi vốc ở cái giỏ to hơn giỏ cua, bằng mây đan quang dầu, những vốc tiền Tự Đức mới xuất kho, mà vung xuống đường, xuống chân đê, xuống ruộng và xuống cả đầu các quan đang tiến đến nhớn nhác, lo sợ, kinh hoàng vô cùng trước cỗ ngựa nhớn nhác và con chó cứ nhổm nhổm mà sủa gâu gâu.
Phải! Lại thêm một sự khủng khiếp vô cùng trong cảnh hỗn loạn này. Vì có cả tiếng hét, tiếng thét, tiếng rú thất thanh, ằng ặc, ứ ứ, hừng hực, hức hức vì giành giật nhau, tranh cướp nhau, đè ngửa nhau ra, cỡi lên ngực nhau, bóp cổ nhau. Có cả trẻ con sơ sinh, ốm lả. Có cả tiếng cụ già ho hen ngã dúi ngã dụi. Có cả tiếng người hấp hối hờ gọi con cháu mau mau đến đỡ mình dậy để đi cướp lấy một, hai đồng tiền bố thí hay không thì cứ bỏ mặc ông, mặc cha đấy mà cướp cho bằng được giữa đám ma đói cùng cảnh đã cùng kiệt này lấy đồng mà đong bát gạo, bát ngô cầm hơi cho vợ, cho con...
Tuân theo cả ý bà lớn, xà ích chỉ dong ngựa đi chầm chậm. Phần sợ đường xóc, phần giữ gìn cho khỏi lộn xộn, vì các khiêng, các gánh, các hòm đồ đạc nặng quá, nhiều quá, nên cả tuần phủ và án sát đều đành chịu cái khổ, cái nhục đằng đẵng theo hầu bên cỗ xe nghềnh ngàng nọ.
Tri huyện Gia Lâm lại càng thấy khổ nhục hơn. Y có con ngựa to, đẹp, rất quen thì không được đi. Cũng như có bộ yên cương rất êm, rất sang thì không được thắng. Có võng cáng rất tốt thì không được nằm. Đã thế lại phải áp tải bọn phu đồ cùng với thằng Tàu và hai tên bồi bếp vừa ăn mặc nhố nhăng, vừa nhởn nhơ nghênh ngạo đúng là kiểu quân thất phu, bần tiện... Cực nữa là ông đang cơn hờn, đờm dãi như sắp thút nút lấy cổ, lấy ngực, trong người mỏi bã, lúc thì nóng ngột, lúc thì lạnh toát.
Trên bến phà ban nãy, lúc đám dân đói đổ đến làm ông tối tăm mặt mày, nhưng khi diễn ra cảnh bà lớn tung tiền thì ông bủn nhủn hết chân tay. Rồi tới lúc xà ích giật giật cương quất roi thả cho ngựa chuyển bước, đám dân vẫn chạy bu theo xe, thì ông càng thót người lại, lo sợ đến phát cuồng phát điên. Nhưng cuối cùng xe bà lớn đã bứt được khỏi lũ ma lũ quỷ nọ, giờ đang thênh thênh trên đường cái, thì ông lại phải chịu cái tội đi áp tải này...
Sực nghĩ đến câu nói châm chọc và khinh thị của viên tri phủ Từ Sơn người của quan kinh lược mới cất nhắc lên nói với mình về cái việc khinh suất nọ, và vẻ mặt cùng dáng dấp nhún nhìn, phả phê và rất xu nịnh của hắn, tri huyện Gia Lâm lại ho sặc sụa.
Vinh Phát con thấy vậy liền cười, trọ trẹ bảo viên bồi bà lớn:
- Ông Xuân à, cái bệnh của quan huyện ta chỉ hút thuốc phiện là khỏi thôi!... Cái thuốc phiện là tốt lắm! Cái thuốc trên tôi mua là thuốc của quan Lường chợ Chu mua từ Vân Nam sang đây!
- Giời ơi! Thời thế này là thời thế của mấy quân này vậy!
Khi xe bà lớn đến một quãng nào, bà thấy lạ lạ hay hay lại hỏi, thì quan tuần phủ nghe viên thông ngôn dịch xong lại vội dẫn giải để viên thông ngôn tâu trình. Qua bến phà sông Đuống, sang bên tả ngạn, bà lớn lại thấy mấy đám người lếch thếch van lạy, bèn tung tiền ngay ra phía sau xe hay vào một mé đường để họ nhặt, rồi bảo chuyển bánh ngay. Qua Yên Viên, gần đến dốc Lã, viên xà ích chột dạ vì thấy hình như ở hai bánh trước có sự trục trặc, liền cho ngựa đi chậm hơn để lắng nghe, lắng nghĩ.
Mặt trời sắp đứng bóng. Trong chợ Vân không có một người nào. Hai hàng bánh đúc, bánh ngô ra cả đầu dốc để bán cho bọn phu cáng, kéo xe, và thợ thùng đấu ngồi tếu ở dãy quán nước lúc đó vì nhiều người đi đường được tin các quan lớn tỉnh sắp trẩy qua và ở các trạm đón gần đấy các hương lý và tuần tráng rất là rục rịch nhộn nhịp.
- Kìa cố Ngô hát nữa đi chứ!
Cả mấy người phu cáng, kéo xe còn trẻ và mấy người thợ thùng đấu lại bưng nước bưng điếu mời một ông già tóc bạc như cước, rậm rì xõa xuống quá vai, lưng đen sạm sần sùi như đóng vảy, xương sườn, xương sống nổi lần từng đốt. Đóng cái quần cộc rách bươm phải buộc túm hai ống chân và hai cánh tay áo lòa xòa để đỡ trần trụi, ông cụ gật đầu cười ngây như một đứa trẻ. Rít xong mồi thuốc, thở khói phào phào nhưng không uống nước để chiêu giọng mà phất mạnh một cánh tay áo buộc lòa xòa ở bên hông rất gọn, rất đẹp như kép tuồng lên ngựa. Ông cụ nhảy cò cò mấy bước rồi khòa khòa tay và làm điệu như múa.
- Tình bằng có cái trống cơm... khen ai khéo vỗ ố mấy bung, bung bập bung... - Tới đây ông cụ hất đầu cho mái tóc tung lên, ngẩng mặt, ngả người, nhấp nháy mắt và lại cười ngây với khinh không hay với một ai nào đấy vô hình đang ngắm đang nghe mình.
- Xe song mã đã đến kia rồi!
- Các quan tỉnh đã đến kia rồi!
Tiếng reo ran lên và người ta ùa ra.
Bốn con ngựa của quan lớn tỉnh, quan tri phủ và viên thông ngôn vừa xuống khỏi dốc, xà ích cúi đầu xin phép cho dừng xe, nhảy xuống để đóng lại cái chốt bánh bên phải. Mặc kệ mấy hàng hương lý và tuần tráng dàn ra bên đường để ngăn giữ không cho mọi người tới gần cỗ xe, ông cụ Ngô cứ lừ lừ bước và cũng vẫn như chỉ nhìn khinh không, nhìn một người vô hình nào đó. Gâu gâu,... sực thấy một hình thù quái dị tiến lại phía mình, con chó bông lông xám, tai rủ, lưỡi đỏ lo le liền hất hất cổ lên sủa. Ông cụ Ngô cũng lại như không trông thấy cả bà lớn và con chó của bà, lại ngẩng mặt cười ngây. Thì cả bà lớn và bông xám liền giật mình vì ông cụ lại hất cái cánh tay áo lòa xòa bên hông, tay bưng đầu gối, nhảy xích cò cò và như múa.
- Tình bằng có cái trống Tây, khen ai khéo vỗ ố mấy bung... bung bập bung... Một bầy tang tình con nít...
Bà lớn vội trấn tĩnh ngay, cười cười và vẫy quạt cho viên thông ngôn:
- Cái người già khốn khổ kia làm trò gì hay là sắp điên vậy?
Viên thông ngôn phải lấy hết tài sức khéo léo làm ra vẻ rất tự nhiên, tươi cười:
- Bẩm bà phu nhân, nó múa hát chào mừng phu nhân đấy ạ ạ ạ... À... à... nó múa hát các điệu này là điệu rất vui trong những ngày hội hè, dân sự vui chơi đình đám.
- Một bầy tang tình con nít... ố mấy lội... lội sông đi tìm... Em nhớ thương ai đôi mắt ố mấy lim dim... lim dim.
Phải! Đôi mắt của ông cụ Ngô cũng lim dim nhưng vẫn nhìn khinh không và cái người vô hình nào đấy. Tuy vậy cả bọn quan tỉnh, quan phủ, quan huyện đều thon thót trong ngực. Chỉ lo đôi mắt ấy quay lại nhìn bà lớn hay nhìn con chó của bà.
Xà ích đã chốt lại bánh xe, bước thoắt lên, và cúi đầu xin phép cho ngựa chạy. Cái roi da dài kết một túm tua sợi bên màu vàng vừa khoa phất trên đầu ngựa, thì con bông xám cũng hất hất cổ, lại sủa mấy tiếng. Bà lớn nhẹ thênh cả người, bốc vội mấy nắm tiền vung hất lại đằng sau, vào bãi đất mé trong quán.
Những đàn bà con trẻ và mấy ông già bà lão nhếch nhác đã chen sấn cả hai hàng tuần tráng, chạy đi nhặt. Ông cụ Ngô cũng nhặt được hai đồng nhưng không nhặt thêm mà cứ xích cò cò chạy theo xe vừa hát vừa nhảy. Bỗng ông dừng lại quay người, cười rú lên rồi vung mạnh cánh tay ném cả hai đồng tiền xuống cái ao ở đằng xa, cười sằng sặc...
- Tình bằng có cái trống Tây, khen ai khéo vỗ ố mấy bung, bung bập bung... Một bầy tang tình con cún... cun cún mới lim dim...
Bác Ngọ gái và bà cụ đồ Mốc đáng lẽ ăn xong hai đĩa bánh đúc thì quẩy khăn gói đi ngay. Nhưng thấy có quan tỉnh sắp trẩy qua nên cũng nán lại xem. Nhác thấy ông cụ Ngô và nghe giọng quen quen thì ngờ ngợ. Bà cụ phải ngồi nghĩ, ngồi nhớ thêm. Tới khi ông cụ sằng sặc cười và ngẩng nhìn cười ngây, thì bà cụ không thể nén được nữa, chậm chậm đến trước ông cụ chắp tay cúi mình:
- Thưa cụ, cháu hỏi thế này không phải, cụ là cụ là cụ Nghê, cụ Nghê ở phố phủ?
-... À à... Ngô nghê gì nào! Nhà bá người đâu, ở đâu?
Ông cụ đứng sững giây phút, chăm chắm nhìn lại bà cụ đồ rồi bỗng mắt sáng lên rất dữ dội như bắt gặp một sự gì lạ lùng vô cùng:
- Chị Tơ! Chị Tơ! Anh Mộc đang đi hát cho gánh nào vậy?
Bà cụ đồ nước mắt dàn ra, nức nở mãi mới cất được lên nhời:
- Thưa cụ... thưa... thưa cụ... con là con dâu bà con... con dâu ông con... con là vợ Mạc, vợ đồ Mạc ạ...
Ông cụ nghiêng nghiêng đầu như để nghe cho thật rõ, thật rõ hơn. Sau đó ông cụ thần mặt, lẩm bẩm:
- Vợ Mạc! Vợ đồ Mạc!... Con dâu nhà Mộc!... Con dâu kép Mộc... con dâu nhà Tơ... con dâu đào Tơ!
Ông cụ đờ đẫn:
- Cụ trùm Tống chết rồi. Vậy thì chị... chị ấy, anh ấy đi theo gánh nào vậy mách cho ta đi theo với...
...
- Tình bằng có cái trống cơm... khen ai khéo vỗ ố mấy bung, bung bập bung... Em nhớ thương ai, đôi con mắt ố mới lim dim...
Lần này đôi mắt vừa sáng lên dữ dội nọ ngây hiền hẳn đi mà lim dim nhìn người đàn bà gầy gò ốm yếu, đứng khép nép ngậm ngùi, nước mắt càng giàn giụa, càng thổn thức ở trước mặt mình, mặc kệ cả đám đông đã xúm lại, họ rất đỗi ngạc nhiên không sao hiểu được.
- Cụ ơi! Hôm nay con về Hà Nội cải táng rồi giỗ đầu cho ông đồ nhà con. Nhà cụ ở đâu cho con đưa cụ về, con xin phép các ông các bà, mời cả các ông các bà và cụ lên trên con uống tuần rượu nhạt với chư ông chư bà trên con...
Bác Ngọ gái rõ chuyện, và chợt nhớ rằng đúng ông cụ này đã có lần đi tìm người nhà cũng làm than, luồn rừng Yên Thế, có ghé vào nhà bà cụ đồ và nhà bác ngủ lại ăn cơm, bác liền te tái quẩy khăn gói đến, nắm lấy tay ông cụ, nói ríu cả lưỡi:
- Cụ ơi, thế nào cụ cũng phải lên với chúng con.
⚝ ⚝ ⚝
Mặt ngựa ốm, phải nghỉ lại ở Đáp Cầu. Viên quan một vừa trẻ vừa mới được lên lon càng như ngựa con háu đá, lại có Nhất Cửu dẫn đường nên càng đốc lính đi nhanh. Toán này đi toàn đường tắt. Qua chợ Nếnh, Bích Động, Nhất Cửu đưa Tây xuyên qua mấy làng Nội Ngang lên Trũng. Cả vùng đồi và rừng rậm ở giữa làng Bằng Cục và Phúc Sơn đều bị sục sạo đốt phá. Chỉ nghe những loạt đạn nổ từ xa, bà cụ Bờ lưng cõng thằng cu nhà Cừ, tay vịn vai thằng lớn nhà Ngọ, bên vai tay nải đồ lề quần áo tiền nong của mình, lại còn đeo cả cái bị của nhà Ngọ, giục thằng Nghẹ anh cứ cái lõng rẻo bờ suối mà lên phía trên. Mẹ thằng cu Trọng cũng lưng cõng con, vai đeo bị và tay còn dắt cả thằng Nghẹ em và con bò đen của nhà bác Ngọ.
- Quái! Hay nhà mẹ con con mẹ này dọn vào đồi trong kia?!! Hay lối vào nhà mẹ con con mẹ này không phải lối này?!! Lăm lăm tay súng tay gậy với ba tên lính nón đĩa, Nhất Cửu sục sạo một xóm nhỏ dưới chân đồi, quát cho một tên châm lửa đốt cái nhà có cây rơm to nhất và rào rấp cũng kỹ nhất, đoạn xồng xộc chạy sang quả đồi trước mặt. Không! Đúng là lối vào xóm nhà bác Ngọ nhưng ba tháng nay bác bận quá không cuốc cỏ, phạt cây, đã thế bãi đồi lại qua một mùa mưa toàn những trận rất to nên các cây lá hôi, lưỡi rắn, và không biết bao nhiêu giống cây khác mọc thêm um tùm.
- Mà lại cả nhà vợ chồng thằng Thám cũng chẳng thấy lối lung cổng ngõ đâu cả là làm sao thế này?!!
Cũng vẫn đúng là rẻo đi vào nhà vợ chồng Thám, nhưng từ ngày Thám cùng các trai tráng lên hết trên kia, thì các bờ giậu và đường ngõ cũng bỏ hoang, bỏ rậm. Đã thế, để trông nom lẫn nhau, chạy đi chạy lại với nhau gần cận hơn, nên cả mẹ con cu Trọng và bác Ngọ gái cùng hai nhà hàng xóm đều quây lại chung một hàng rào rấp toàn gai bồ kếp rất dày rất hiểm và lại mở lối đi tắt thông nhà nọ sang nhà kia, nhiều lối giáp ngay vách. Vì thế thoạt trông Nhất Cửu ngạc nhiên và lấy làm lạ quá thể.
Chợt nó reo lên và bắn luôn ba phát đạn, hai viên vào cái gian tường cay mới lề đất bùn nhà bác Ngọ và một viên vào gian nhà ở bên cạnh có giàn hoa lý mới bắc: nhà vợ chồng Thám.
Nghe tiếng súng, vợ Thám đứng lại rít răng:
- Nó vào ngõ, nó bắn rồi!
Cả bà cụ Bờ cũng xuýt xoa, chửi rủa.
Lửa khói liền bốc lên phần phật. Bà cụ Bờ thấy như có lửa cháy thật và đang táp vào mặt mình. Ruột gan cả hai người bỗng xoắn lại, và đau buốt hơn cả dùi nung đâm suốt, khi thằng Nghẹ anh tru lên:
- Bà ơi! Bà ơ! Nhà ta cháy rồi, nhà ta cháy rồi!
Thằng Nghẹ em cứ trằn trằn tụt xuống, quẫy quẫy đạp đạp:
- Về nhà đi, về nhà đi!... Về nhà với mẹ cơ, bà ơi!...
Như sửng sốt vì thằng Nghẹ anh quay lại và thằng Nghẹ em thì quẫy khóc, con bò đen bỗng văng mạnh chiếc thừng như muốn giằng khỏi tay mẹ cu Trọng, rồi nghển nghển vươn vươn cặp sừng nhọn, phì ra một tiếng thở rền:
- Bò ò ò ò...
Tất cả bà cụ Bờ và con bò đen đến bây giờ thì sửng sốt thật. Bác Ngọ gái ở đâu bỗng xồ đến, vồ lấy cả thằng Nghẹ em và thằng cu Trọng ôm vào lòng. Bác vẫn cái khăn vấn vải mộc trắng vểnh đầu như ngọn mũ đâu mâu, áo cánh nâu cộc chật căng, cái sống nâu ngắn hũn, một cánh tay vừa cắp thằng bé, vừa cặp một đòn xóc đen bóng nhọn lẻm. Đứng trước gốc lim, con bò đen thở phì phì, mắt vằn lửa, ngẩng đôi sừng múp nhọn thót nhìn lên trước mặt và như đặc biệt nhìn bác Ngọ gái!
- Bỏ nhà đấy! Bỏ hết nhà đấy! Lên cả với ông Nắm, với bố thằng cu Trọng thôi!...