← Quay lại trang sách

Chương VI

Không cần phải nghe cai Cừ và Đội Vinh về kể các chuyện dọc đường của mình, Đề Nắm và các thống lãnh cũng biết rất nhiều chuyện, nhiều việc của cánh quân Đội Vinh, đã giáp chiến với quân Tây liền hai trận như thế nào. Bởi vậy trong bữa cỗ đón mừng và cũng là buổi lễ nhập quân tụ nghĩa lịch sử, trong rừng Yên Thế lại mở hội ở mấy làng nghĩa quân đóng đồn, dựng trại. Vui nhất là làng Thuông. Con trâu Thông bố năm trước bị ngã què, những tưởng phải đem thịt, nhưng lại chữa khỏi nay lại thêm một con, trông còn khỏe, còn tợn hơn bố. Bọn trẻ trâu đánh đàn cho trâu bố, trâu con ra đồng cùng hơn chục trâu đực khác chăn ở trước bãi ngoài cánh rừng Đề Nắm đóng, và cũng thổi nấu nghi ngút với các thứ kiếm được từ đêm trước: ếch, cá đi soi, gà chim bẫy được, măng, mộc nhĩ, khoai môn đi kiếm và còn cả tương, cà, thịt, cá khô thức ăn của nhà lấy trộm đem góp "hội". Xóm thằng nào làm cỗ cứ làm cỗ, xóm thằng nào kết lá đánh tranh đào hào, đào hầm và mở lũy, đóng rào cho trại mình cũng thế. Cu Trọng, cu Nghẹ Lang, Nghẹ Cõn, cu con bố Cừ và nhiều thằng ở dưới đình Vồng, Bằng Cục, Trũng Mỗ, Long Cốt theo bà, theo mẹ lên đây vỡ bãi, vỡ nương, làm ruộng mới đều nhập bọn với các trẻ trâu làng Thuông, nên đám hội của chúng đều ồn ĩ, tấp nập...

Mặc dầu có mấy đứa hơn hàng năm tuổi, và lại khác làng nhưng cả cu Trọng, Nghẹ Lang đều là chánh tướng, phó, tướng trông coi công việc lập doanh trại, vừa "đề phòng quân Tây đánh úp", vừa nghe ngóng sẵn sàng điều binh xuất trận. Nghẹ Cõn ta "đi" hội với con bò đen cũng ra vẻ hùng dũng và sát khí đằng đằng. Nhưng vì còn bé, người còm nhòm, nên sung vào đám hỏa đầu quân, chuyên làm thịt chim, thịt ếch với mấy đàn anh nổi tiếng tháo vát nhất trong việc này mà cánh Thuông đích danh tiến cử.

Cu Cừ được đặc biệt canh trại. Cu ta ngồi lên một gốc dẻ cũng đắp ụ đất, ôm một cành cây khòng khoèo làm khẩu súng.

Nghĩa quân vào mâm từ giữa giờ Tỵ đến gần giờ Mùi mới ăn trầu uống nước, ai về trại ấy. Còn nghĩa quân trẻ trâu thì chỉ loáng cái đã xong bữa rồi khi người đi làm đồng về thì chúng hò nhau đánh trâu vào rừng cho trâu ăn và còn chơi tập trận.

Một sự rất lạ là Thám thấy hôm nay cai Cừ rất ít uống rượu, nhiều khi cả người cùng mâm hay các ông Đề ông Lãnh mâm bên rót cho, thì còn để Đội Vinh, cai Tề và Phúc đỡ chén.

Tuy cũng hơi ngạc nhiên vì sự trầm lặng của cai Cừ, nhưng nghĩ đến chuyện nhà của Đội Vinh, nên các ông Đề, ông Lãnh và cả ông Nắm cũng không muốn ép. Và tối hôm ấy Đề Nắm chỉ mời Đội Vinh và cai Cừ uống nước chuyện trò với mọi người đến lúc trăng lên một lúc thì để hai người vào trong làng có nhà bác Ngọ gái, bác Tần gái ở nhà. Đề Nắm còn bảo nhỏ hai nghĩa quân gánh một đùi lợn, một hũ rượu với một mâm xôi và trầu cau về nhà bác Tần gái, bác Ngọ gái.

Bọn cu Trọng, Nghẹ Lang, Nghẹ Cõn và Cừ lại tót ra bãi. Bà cụ Bờ lại ngồi đánh chão dưới một chân cột hàng hiên. Bác Tần gái xay thóc dưới bếp. Bác Ngọ gái và mẹ cu Trọng làm gạo cho nghĩa quân nhờ cối và sàng sảy nhà bên cạnh.

Thằng cu Tốn hôm nay bị sốt, bác Tần đặt nằm ủ chăn ở gác giường thức giấc, không thấy mẹ òa khóc. Nó càng nức nở vì người đón nó đã không phải là mẹ, cũng không phải là bác cai Cừ, mà là một người còn cao lớn hơn cả bố nó, chít khăn trắng, chỉ mới hỏi, chuyện trò với nó một lúc buổi tối hôm qua và buổi sáng nay.

- Chú đây mà! Chú đây cháu Tốn à?!!

Bác Tần gái chạy vội lên nhà, không kịp chít lại khăn sắp xổ tuột, tíu tít chào mọi người vừa chạy đến đón con:

- Chú Vinh đấy mà! Chú Vinh nhà ta, chú Vinh của con hôm qua về nhà... với bố... đấy mà!

Thằng bé vẫn hưng hức nhưng lại lấm lét nhìn Vinh. Hình như nó đã nhận ra người bế nó, ôm nó, thơm nó và xé thịt gà hết cái tỏi này, tiếp cái tỏi khác cho nó ăn và bữa chiều qua và bữa sáng sớm nay, xới rất ít cơm mà gắp toàn thịt lợn nạc rim bón cho cháu.

Chợt Vinh ngước trông lên bàn thờ anh. Một thủ lợn luộc vẫn y nguyên bày giữa cái mâm gỗ sơn then với mâm cơm cúng và trầu cau hương hoa. Bác Tần vội phô:

- Quan Đề Nắm cho quân bưng sang từ buổi trưa đấy. Cả nhà vẫn chờ bác Cừ và chú đấy.

Đội Vinh vội châm ba nén hương cắm tiếp vào bình nhang, bảo cai Cừ:

- Thế thì bác phải uống rượu thêm, uống bữa này thật say mới được!

Cả bác Ngọ gái và mẹ cu Trọng nghe tiếng người nói râm ran ở nhà bảo nhau tạm thu dọn các thứ và đóng liếp lại. Từ ngoài cổng, bác Ngọ bô bô nói vào:

- Tối nay hai chú phải ngủ nhà với các cháu, không thì chúng nó đếch nhận chú cháu đâu! Quan Đề Nắm lại cho gánh từng gánh xôi thịt thế kia thì mấy con nái sề này "cà lảm" đấy!

Bác Tần đặt thằng con đứng xuống đất. Đội Vinh đến dắt tay nó. Nó ngượng nghịu rụt rụt tay lại, định níu lấy mẹ, nhưng mẹ nó đã bưng mâm cơm trên bàn thờ xuống.

- Xin phép bác Cừ và chú nó cho hạ mâm, thái thêm thịt và hâm lại các thứ để bác và chú uống rượu. Tốn à! Con ở trên nhà với bác, với chú cho mẹ xuống bếp.

Bác Tần gái và mẹ cu Trọng khăng khăng không ngồi ăn cùng lại đi xay thóc làm gạo, để bác Ngọ gái ngồi bên giường, sau hàng cột gian giữa uống nước, ăn trầu, tiếp chuyện. Tới lúc nghe chừng hai người đã ngà ngà say và có ý muốn tâm sự với nhau, bác Ngọ gái xin phép lại sang làm gạo với mẹ cu Trọng. Thằng Tốn đã quen hẳn chú Vinh, hơn nữa, như thấy có một hơi hướng đặc biệt ở cái người mình gọi là chú, cu ta ngồi nhích hẳn lên đùi chú, cầm bát đầy thịt và thức nấu nhón nhén ăn vừa chăm chăm nhìn chú.

- Bác Cừ à! Bác phải uống đi chứ! Hình như mấy bữa nay, bác có điều gì buồn nghĩ ngợi ấy?!!

- Khà khà!... Sao cậu lại nghĩ rằng tôi buồn? Chính mấy hôm nay tôi thấy phấn chấn lắm! Phải, tôi phải phấn chấn lắm chứ! Quan năm năm sao bị hạ này, Tây lại bỏ thành Tỉnh Đạo này! Nhất là chú đã về... đã đưa cả quân mình lên hợp với Yên Thế.

- Chắc tâm sự của em, chỉ có bác đoán biết được và tin ở em?!!

Đội Vinh mắt hừng hừng nhìn vào mắt cai Cừ. Cai Cừ gật gật đầu:

- Tôi biết mà! Tôi biết! Nhưng tôi vẫn e ngại cái bả vinh hoa, phú quý.

Đội Vinh tròn mắt:

- Cái thằng Vinh này tiền tài quyền chức nào mua chuộc được?!! Lại còn thêm cái thù bất cộng đái thiên đây - Đội Vinh ấp ấp tay lên chiếc khăn sô - Ngay khi thằng quan năm Phả Lại nó giao cho hơn năm chục tay súng. Và em bắt mối được với mấy cơ ngũ nữa, thì em càng như có lửa trong ruột, trong gan, ăn mâm cơm đầy thịt đầy cá, có kẻ hầu, người gác, mà như thấy nuốt gai, nhai mật, ngủ trên chăn, dưới đệm mà tủy xương nhức nhói, đêm nào cũng căng mắt vì nghĩ đến nghĩa nước, tình nhà... Giời ơi! Nhục ơi là nhục, nhục mình đã không thể sao chịu mà nhục nước lại càng không sao chịu được!... Ấy vậy mà ba lần tôi phải đem lính người mình đi đánh nghĩa quân, cũng triệt hạ đốt phá bắn giết làng mạc mình đấy!

Hai người lặng đi hồi lâu rồi lại rót đầy hai bát rượu. Chợt cai Cừ e hèm như để lấy giọng rồi mới nói:

- Cậu Vinh à, nghe nói cậu cũng... và người ấy đã có con với cậu. Vậy cậu thử nghĩ...

Đội Vinh tợp gần hết nửa bát rượu, mặt càng tái:

- Con ấy là con đĩ! Cái giống nhà nó là cái giống đưa người cửa trước, rước người cửa sau.

- Thế nào? Thế nào?... Cậu cứ bình tĩnh...

- Tôi không thể nào nhìn lại mặt nó. Tôi không thể nào nhận được con cái của cái giống ấy. Bác biết không: thằng anh nó giờ đi hầu bàn cho bọn quan binh; con em nó có mang với tôi được ba tháng mà nó mồi chài cho một thằng quan binh đi lại lúc quân Tây vây đánh, tróc nã tôi. Hôm tôi lên Phả Lại, thằng anh nó nhắn lời bảo tôi, nó vừa đẻ con trai, nhưng nó đẻ thì nó nuôi, nó sẽ nuôi thằng này đến khôn lớn, cho đi ăn học, và "bác" nó sẽ lo liệu đường công danh cho cháu, chứ không để nó làm con thằng giặc, thằng tù!... Sau này ấy, tôi mà gặp cả cái thằng bác và cái thằng cháu này đi với quân Tây, thì phát đạn hay phát phạng đầu tiên là để hai đứa nó!

- Không được! Không được! Hổ phụ không thể để con thành cẩu tử. Cậu cứ phải nhận cái giọt máu của mình, rồi cho người đi tìm con, bắt con về mà nuôi dưỡng! Trước ngày chú Tần chết, chú ấy bảo cả tôi và thím ấy có gặp chú thì phải khuyên can...

Bát rượu tợp hết, Đội Vinh rít lên:

- Sốt rột quá! Nóng ruột quá! Phải mau mau mà kéo nghĩa quân về nếu chưa đánh Hà Nội được, thì cũng phải đánh úp Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả Lại, chứ không thể để Tây ngồi yên và cứ kéo nhau đi đánh dẹp các nơi mãi thế này!!!

Thằng cu Tốn ngồi ngả người trên đầu gối Đội Vinh đã ngủ từ lúc nào không biết, tay vẫn cầm bát đũa. Đội Vinh cúi nhìn, vội đỡ cháu nằm xuống chiếu, kéo chân nắm tay cho cháu, và vẫn gối đùi mình. Cai Cừ châm thêm ba nén hương cắm lên bàn thờ, khi quay lại thì thấy Thám và hai tay súng bước lên thềm. Đội Vinh vội rót rượu ra ba bát vẫn để không trên mâm, đưa mời Thám trước. Thám cúi đầu, đỡ bát, xin vô phép. Khi cai Cừ trở về chỗ cũ, cũng đưa bát mời cả Thám và hai tay súng đi theo, Thám cáo từ lần nữa rồi trình nhời của quan Đề Nắm cho mời hai người gà gáy tan canh mai thì lên đồn chính ngay.

Vừa có tin phi báo quân Tây kéo lên đóng thêm rất đông ở đồn Bỉ Nội. Thế nào chúng cũng lại lên vùng trên đây vây đánh...

Bà cụ Bờ vẫn cặm cụm ở ngoài hiên. Các chuyện trong nhà cụ đều nghe biết hết. Trăng đã chiếu vào tận bực thềm. Trời sao vằng vặc. Nhà cửa, đồi bãi vườn tược quang đãng, đẹp lên khác lạ. Bọn trẻ bỗng òa về. Thằng kêu đói, thằng kêu khát, thằng gọi u ơi, bố ơi. Chúng nó không vào chỗ cai Cừ và Đội Vinh ăn uống mà xúm xít quanh bà cụ Bờ.

- Bà để con làm cho.

- Bà ơi! Mai cả bốn bà cháu đi chơi chợ nhả?

- Bà ơi! Con vật với thằng bên Lèo chỉ vào sới loáng một cái là cậu đã trắng bụng.

- Bà ơi, chú Bờ ngày xưa theo các đô đi vật khắp tỉnh Sơn Tây, sang cả bên Bắc nữa nhỉ?!!

Cả cai Cừ và Đội Vinh thu dọn lại bát đũa, sắp một mâm mới với mâm xôi của Đề Nắm cho người gánh sang lúc tối, và thái thêm bốn đĩa thịt thủ:

- Nào thì bây giờ bà cháu cụ đóng mâm mới. Bỏ đấy! Bà cứ bỏ đấy! Bà phải vào ăn với các cháu thôi!... À mà các bá, các dì ấy đã về cả kia kìa...

Đội Vinh và cai Cừ lại phải uống rượu tiếp bác Ngọ gái, bác Tần gái.

Chỉ có mẹ cu Trọng không uống! Bà cụ Bờ bữa nay cũng phải uống hết bát rượu cùng bác Ngọ gái...

Gà vừa gáy sáng, Đội Vinh choàng dậy, thấy mình đang bế thằng cu Tốn nằm giạng háng, gác một đùi lên ngực mình...

⚝ ⚝ ⚝

Suốt phía bắc Trung Kỳ, đặc biệt ở các vùng rừng núi, cũng như ở các vùng Bắc Kỳ có địa thế hiểm yếu, đường thủy đường bộ cách trở, hết cuộc nổi dậy này tiếp đến cuộc nổi dậy khác chống lại quân Pháp càng ngày càng mở rộng, càng ác liệt.

Tại Yên Thế, sự thiệt hại của quân Pháp phải báo cáo về Pari không những chỉ làm bọn quan chóp bu ở Hà Nội nhức đầu, mà cả bọn đứng đầu thuộc địa và Chính phủ Pháp cũng phải choáng váng. Như thế, không nơi nào ở Bắc Kỳ chiến sự lại diễn ra dữ dội, làm quân Pháp thiệt hại nặng nề như ở đây, kể ngày hạ xong thành Hà Nội, tiến hành các cuộc chiếm đóng, đánh dẹp trên toàn xứ này, với sức mạnh tự cho là tuyệt đối áp đảo của mình, quân đội viễn chinh Pháp chưa bao giờ và ở đâu vấp phải một sức kháng cự như thế.

Đạo quân đánh dẹp Bắc Ninh, Bắc Giang lại tăng thêm quân, thêm quan. Toàn là những quân, những quan đã đi các trận ở rất nhiều nơi và có rất nhiều kinh nghiệm về đánh trên các vùng nổi dậy mạnh nhất. Trong đám này có viên quan tư thuộc hạ của viên quan năm Phả Lại, rất căm sự tráo trở của Đội Vinh. Y đã tốn khá nhiều trí, nhiều lực từ khi lĩnh nhiệm vụ tiễu trừ nghĩa quân Đông Triều và nhận cho Đội Vinh về hàng. Cùng với tên này, còn có hai viên quan ba vừa được lên lon, rút ở Hưng Hóa, sông Đà và Lạng Sơn về, cả ba được lệnh phải truy diệt ngay quân của Đội Vinh và đánh mạnh để dập bớt uy thế của nghĩa quân Yên Thế. Kế hoạch trận này, bộ tham mưu ở Bắc Ninh nghiên cứu rất kỹ đồ án của quan năm Mũi khoằm và giao cho tên quan tư Phả Lại cùng hai tên quan ba nữa thực hiện, phụ giúp thêm có quan hai coi đồn Bỉ Nội.

Để hơn một tháng nghiên cứu và chuẩn bị, sau những cuộc hành quân lẻ tẻ, vây đánh, bắn phá mấy nơi gần Nhã Nam, Cao Thượng, tới sáng sớm hôm ấy trời đẹp, cho các binh lính và phu dõng ăn uống thỏa thích và còn dự trữ thêm hai bữa nữa, quan tư Phả Lại và quan ba Mặt ngựa mới ra lệnh xuất trận. Cánh chính, quan tư Phả Lại và Mặt ngựa chỉ huy. Cánh phụ hai quan ba ở Hưng Hóa và Lạng Sơn về đảm nhiệm với quan ba coi đồn Bỉ Nội.

Ngay chập tối trước hôm ấy, Đề Nắm và các thống lãnh đã được mấy nơi phi báo. Ai nấy thở phào như được xả hơi vì phải nghe ngóng, chờ đợi, giữ gìn tung tích các đội quân ở các lõng và các làng gần đồn chính của mình.

Đề Sặt lên tiếng trước nhất, đòi trận này để mình và Đội Vinh đánh cánh quân Tây chính ngay khi chúng tiến lên vùng này. Thống Lịnh và Bá Phức ngỏ ý xin Đề Nắm cho đi phục đánh chặn ở mặt Nam nếu quân Tây kéo lên đi đường Yên Lễ, làng Am hay Ngô Xá. Đề Trung và mấy thống lĩnh khác cũng xin cho mình được vừa đánh cánh quân chính, vừa giữ đồn trại trên Hữu Thượng cùng Đề Nắm.

Mọi người đều ngạc nhiên thấy Đội Vinh vẫn không nói năng gì cả, mặc dầu sự bồn chồn cứ phừng phừng sắc mặt, nhất là cặp mắt như vằn lửa, hai thái dương đường gân luôn luôn giật giật. Thân hình đã cao lớn, ngồi bên mép sạp trước mặt Đề Nắm có cây đèn dầu trẩu cháy ngùn ngụt, mặc cái áo dạ màu lá cây sẫm và cái quần đùi nhuộm màu mận chín, thắt một dây lưng da to kềnh hai bao đạn và khẩu pạc hoọc báng gỗ bóng lộng, trông Đội Vinh có vẻ một "Đức ông", một "Hộ pháp" rất lạ lùng. Đã thế, đằng sau Đội Vinh lại dàn hai hàng tay súng quần áo gọn ghẽ, đứng chăm chắm với sắc mặt cũng đầy sát khí, nên càng làm cai Cừ thêm suy nghĩ.

Đội Vinh và hơn ba trăm lính cơ ngũ của mình và các bạn hữu, đồng tâm đồng chí với mình, bỏ quân Tây kéo lên gia nhập nghĩa quân Yên Thế... dọc đường thì đánh ngay Tây canh phòng, ngăn cản với các đồn, các toán lính... tới nơi tụ nghĩa lại càng tỏ ra quyết liệt, mặt nào, phía nào giao cho đóng giữ cũng nghiêm mật, không để Tây lấn bước và khi nào cũng nổ súng một cách gan dạ, vững chắc. Như vậy trận này nhất định sẽ phải lập công lớn. Nhất là đối với Đội Vinh! Phải, Đội Vinh còn phải đánh Tây như thế nào nữa chứ, trước mặt nghĩa quân và các thống lãnh Yên Thế?

Đề Nắm cũng nghĩ gần như cai Cừ. Bởi vậy khi Thống Lịnh và Bá Phức hoan hỉ nhận ngay lệnh đánh giữ mặt phía Nam có đồn Bỉ Nội thì ông tươi cười hỏi Đội Vinh:

- Vậy ngài Đội cũng đi mặt này với ông Thống và ông Bá... Chà chà, thằng Mặt ngựa lại lên lon, trận này mà gặp ngài đội không khéo lại thêm lon trắng, không thì cũng...

Đội Vinh vội nghiêng mình, cúi đầu:

- Ấy là còn phải nhờ khí thế của quan Đề Nắm cùng chư vị thống lãnh và các nghĩa quân. Chứ tiêng tôi thì...

- Riêng tôi thì cũng... quá ngũ quan, trảm lục tướng như Quan Vân Trường nhỉ.

Tiếng cười sang sảng của Đề Nắm và những ánh mắt nhìn của nhiều người càng như men bốc rửng cả gương mặt chữ điền, đầu chít khăn nhiễu Tam Giang chữ bát của Đội Vinh. Đội Vinh thêm náo nức vì thấy có cai Cừ cùng đi, nhưng hơi băn khoăn vì thấy Thám ở lại cánh trung quân với Đề Nắm. Cả Thống Lịnh với Bá Phức cũng có câu hỏi thầm như nhau, trong khi ấy cai Cừ nghĩ càng quý thêm Đề Nắm vì cái trí lực tin người, dùng người và tính kiên quyết trong mọi công việc khi khẩn cấp...

⚝ ⚝ ⚝

Sau hàng loạt đạn cối và súng tay của cánh quân quan tư Phả Lại cho giội về phía Bắc, nhưng đáp lại lúc thì im lặng, lúc thì lẻ tẻ, lúc thì cũng dồn dập của những tay súng nghĩa quân bắn trả, Mặt ngựa gật gật đầu:

- Thằng cú vọ Phả Lại đã đụng độ với quân thằng Thám rồi. Coi chừng! Phải coi chừng đấy, mày ạ!

Thế rồi, lại qua hàng loạt đạn súng cối và trường nổ mỗi phút một dữ dội mà phía bắn lại càng nghe thấy gần hơn và đặc biệt, càng tới tấp, râm ran, thì Mặt ngựa cau cau mày, ồ lên một tiếng:

- Có lẽ không phải! Có lẽ không phải quân thằng Thám bắn, mà... mà... Phải! Phải!... Mà là quân của thằng Đội Vinh khốn nạn, thằng Đội Vinh khốn nạn...

Cú Vọ không cho ngừng lại một phút, hạ lệnh mở rộng nữa hàng quân và súng cối càng phải giội đạn liên tiếp, liên tiếp:

- Đúng, ta gặp thằng Đội Vinh man trá, phản bội ở mặt này rồi! Đức Chúa Trời, tôi phải cho tất cả những thằng lính của nó và nó tan xác. Tan xác không còn một đứa!

Tiếng hô của các tên quan một và đội chỉ huy pháo binh càng rít, càng gầm. Vẫn chưa hả, Cú Vọ còn định cho gọi thêm hai cánh quân phụ chuyển đến bọc ngay lấy cả vùng này, để dập bằng những trận bão đạn ghê gớm hơn nữa.

- Đúng lối chỉ huy của thằng Cú Vọ rồi. A ha! Chuyến này ta chơi lại mày chính bằng súng của mày đây. Khi đi đánh dẹp Đông Triều mày mới là quan hai. Được chuyển đi chỉ huy đánh dẹp nghĩa quân, bắn giết và bắt về làm tù tội tất cả những người thân thích của nghĩa quân, rồi nổi tiếng là một quan binh cần mẫn, sừng sỏ, mày lên quan ba, rồi quan tư, những tưởng triệt được các cơ ngũ nghĩa quân của ta, dồn ta lên rừng, lên núi, sống cùng cực thì dụ ta về hàng là lên sao vàng, cai quản cả đạo binh Phả Lại. Ngờ đâu...

Đội Vinh lại ra lệnh nhằm khu đoán là quan tư Cú Vọ đang chỉ huy bắn xả từng loạt đạn. Cả Thống Lịnh và Bá Phức đều hồi hộp. Hai người càng bừng bột hơn thấy quân Tây vẫn chỉ nổ súng từ xa mà chưa tiến thêm được bước nào. Đã thế, ở những bìa rừng và sườn đồi gần tầm đạn của Đội Vinh, có vẻ hơi nhộn nhạo vì như có lính hay quan bị đạn phải khiêng, phải cáng về phía sau để chạy chữa.

Cai Cừ càng căng hết đầu óc vì nghe ngóng, suy tính. Ở góc cây cách chỗ Đội Vinh một mô đất cao chấm ngực, cai Cừ luôn luôn nghển trông các mặt, các phía đạn bắn tới, các động tĩnh trong các bờ bụi quân Pháp ẩn núp và đặc biệt chỗ đặt súng cối có quan nhà binh chỉ huy.

Chợt ở một cụm tay súng dứt lặng, nghe chừng có sự di chuyển và cụm này chính là cụm mà Đội Vinh nhằm bắn mạnh nhất.

Từ lúc nghe tiếng súng bắn trả của một đội hình vừa có sự luyện tập hẳn hoi, vừa rất tinh khôn gan góc, quan ba Mặt ngựa cũng biết ngay là quan tư Cú Vọ đã vập phải tên đội phản bội của hắn. Khi tiếng súng hàng loạt của bên nghĩa quân càng tới tấp thì Mặt ngựa như đắc chí:

- Chà chà! Cái thằng giặc quái quỷ nhà quê này định có bao nhiêu đạn dược cuỗm đi được sẽ dốc hết để chơi quắn bài này chắc! Tốt! Tốt lắm!

Thế là đúng phút cụm súng mà Đội Vinh cho là ở chỗ Cú Vọ vừa ngừng bắn, thì Mặt ngựa mới ra lệnh cho lính của hắn mở lửa. Thấy phía cạnh sườn của mình bị bắn và bắn khá mạnh, cai Cừ vội xin Thống Lịnh và Bá Phức cho bắn trả và phải giữ vững mặt này. Vừa lúc cai Cừ vượt qua mô đất sang mạn cây chỗ Đội Vinh, thì thấy Đội Vinh đã cùng hơn hai mươi tay súng của mình vọt sang ngọn đồi phía trước.

- Chúng nó không rút đâu! Không phải chúng nó rút đâu! Cậu Vinh ơi! Quay lại!

Tiếng súng lại ran lên. Những làn đạn xả ngang qua lối mòn của ngọn đồi bên kia làm đất đá bờ bụi mù mịt. Cả Đội Vinh và các anh em nghĩa quân đều không nghe thấy tiếng gọi và cũng không một ai quay lại trông nhìn gì cả. Đội Vinh quyết luồn qua cụm rừng, bám sát nữa cánh quân của Cú Vọ. Không! Bám sát nữa toán quan lính bộ hạ của Cú Vọ. Bám sát nữa Cú Vọ mà bắn.

Lại một sườn đồi.

Lại một sườn đồi.

Vừa tới lưng đồi có thể bắn xọc thẳng vào chỗ Cú Vọ vì chính mắt Đội Vinh đã thấy nhấp nhô cái mũ lưỡi trai vàng vàng của Cú Vọ giữa ba cái mũ khác cũng vàng vàng nhưng ít khoanh hơn và ghép thêm vành bạc... thì các làn đạn ở cả phía sau Đội Vinh, phía trước mặt Đội Vinh đều xốc tới, làm thành hai hàng rào như mưa. Nhiều nghĩa quân ngã vật. Đội Vinh hô mọi người nằm rạp, không bắn trả lại và chuẩn bị đánh giáp lá cà. Đạn càng như đan lướt trên đầu nghĩa quân.

Đạn rít, đạn xé, đạn cào chung quanh người nghĩa quân. Đất, sỏi, cây, cỏ, lá cùng mù mịt, cứ từng cơn xoáy từng đám dày đặc vì các quả trái phá nổ tung tóe.

Không biết bao nhiêu đạn sượt qua đầu, qua mặt, qua người Đội Vinh.

Đội Vinh ngất đi vì một mảnh trái phá vằng rứt cả một mảng đầu tóc.

Hai nghĩa quân vội chồm đến, ôm lấy Đội Vinh cho hai người khác bò bò dìu Đội Vinh xuống cái lõng chạy sang một bìa rừng phía sau. Đội Vinh không hề hay biết. Và lúc hay biết là lúc Đội Vinh thấy một nghĩa quân gục chết chỉ cách mình một mô đá, và chỉ có mình nằm giữa một bãi cỏ ràng ràng giữa hai quả đồi trụi đang rậm rạp quân Pháp có cả tráng dõng giáo mác cầm tay và mấy người ta đi theo sục sạo từng bụi sim, từng rãnh cỏ nước, từng hốc hố từ dưới đồi lên và chung quanh các bãi và các đường mòn.

- Sao ta lại nằm ở đây? Sao lại đưa ta đến đây? Sao ta lại xuống như là vùng dưới đây? Vùng này là vùng nào?

Có tiếng reo, tiếng gọi nhớn nhác tíu tít dồn đến và cả tiếng quân Tây xì xồ trước mặt, sau lưng Đội Vinh. Đội Vinh toan nhỏm dậy thì mặt mày đã sa sầm và có một cảm giác như thấy có lẽ "mình" về gần làng của Tần, làng Trũng kia kìa... phía sau cánh rừng dài mà có lẽ người nghĩa quân dìu Đội Vinh đi lạc vào rồi mất phương hướng, và rồi kiệt sức chết cũng bởi trúng đạn nặng quá!...

Bỗng trên sườn đồi và bờ bãi chung quanh, quân lính Pháp cùng mọi kẻ đi theo đều như rởn khắp da thịt tâm trí thấy một người thân hình cao lớn, mình thắt lưng trễ xệch hai bao đạn rỗng, đầu quấn khăn nhiễu Tam Giang máu rỏ tong tong, đứng vụt lên và cất tiếng:

- Ta là Đội Vinh ở Đông Triều về đây, bọn ngươi không được đụng đến ta mà đưa ngay ta xuống đồn Bỉ Nội... Ta có việc!...

⚝ ⚝ ⚝

Trong trại lớn giữa rừng rậm gần Thác Thần, mọi người đang bàn tán ồn ào, bỗng lặng bặt khi một nghĩa quân cùng một cụ già thở hổn hển vái chào Đề Nắm rồi nói như nghẹn, như khóc:

- Ông Đội Vinh hàng rồi!

- Ông Đội Vinh hàng rồi! Tây cho người đưa ngay ông Đội Vinh về Hà Nội rồi!...

- Thế nào? Thế nào?

Cả hai người làm mật báo ở dưới đồn Tây cùng nhắc lại mấy câu trên.

Đề Sặt sin sít hàm răng:

- Đội Vinh ra hàng chứ không phải bị bắt?

Thống Lịnh và Bá Phức kêu giời:

- Chết thôi! Chết thôi! Bị thương và lạc đường như thế nào mà phải ra hàng?

- Bị bắt đấy thôi, chứ sao lại ra hàng?

Nghĩa quân đứng túc trực ở trong trại và ngoài sân:

- Phải! Phải! Ngài Đội bị thương nặng, không quen đường trên đây, người đi theo lại không thông thuộc, nên bị bắt đấy thôi!!!

Những nghĩa quân thân tín của Đội Vinh ở trong đám các nghĩa quân túc trực trại, các thống lãnh:

- Nhất định là ngài Đội bị thương nặng, mất súng, chạy lạc đường rồi bị bắt!

Cai Cừ vẫn lạnh câm nét mặt, đầu cui cúi. Thám đứng sau lưng Đề Nắm càng quăng quắc cặp mắt voi. Thám trông vời vợi ra một mảng trời cao ngoài sân:

- Nếu bị thương và bị bắt giải về Hà Nội thì Đội Vinh còn có cơ sống... Chứ nếu Đội Vinh ra hàng chuyến này thì chết mất! Hàng là chết! Hàng là chết!

Chưa bao giờ cai Cừ và Hoàng Hoa Thám thấy tâm trí đau thắt và nhức nhói như lần này, như bây giờ.

⚝ ⚝ ⚝

Bữa tiệc này, ngoài các quan nhà binh lên đánh dẹp Yên Thế, có một bọn khách đặc biệt. Đặc biệt vì chính họ lại là chủ vì nhất nhất khoản chi tiêu, ăn uống, bày biện gì cũng đều ở họ chăm lo, mà chăm lo chu đáo không thể nào tưởng tượng được. Phải, vợ chồng Tạc-tà, chính tên là Tác-ta-ranh, nhưng từ ngày sang An Nam, mở Oten ở Hà Nội, thì người ta gọi như thế, - vợ chồng Tạc-tà và lão Sét-nay đã làm quan tư Phả Lại, quan ba Lạng Sơn, quan ba Mặt ngựa và quan hai khố xanh lên tiếp chân quan ba đồn Bỉ Nội cùng tất cả sĩ quan phẩm trật thấp hơn được mời đến dự tiệc mừng thắng trận này đều phể phả chưa bao giờ được như thế.

Chưa ngồi vào bàn ăn, chỉ mới nghe bọn cai đội kháo nhau về việc sửa soạn mà bọn quan nọ đã vui, thích, náo nức điên lên được. Không kể ba con dê, hàng chục con ngỗng và hàng mấy lồng chim ngói đang thành những món ăn gỉ ăn gì của Tây mà đích thân Tạc-tà vợ bảo bếp nấu nướng và người phụ là mụ Ba Béo lại còn gọi thêm thợ cỗ làng Phù Lưu và Đình Bảng cùng mụ, làm thêm mấy món "cỗ bát" sở trường nữa để quan khách thưởng thức... Rượu! Rượu từng hòm, từng thùng, từng khiêng. Toàn rượu từ Tây mới đưa sang và toàn là những rượu quý, rượu phải chuốc, rượu nổi tiếng của Pháp. Rượu của Tạc-tà vợ!

Nguyên món thịt sốt vang, ngỗng quay và chim rán chưa đọc bản "mơ nuy", mới nghe kháo thôi, mà lắm kẻ đã cảm ơn Đức Chúa Trời, cảm ơn đã cho "một con gió lạ thổi bọn vợ chồng Tạc-tà và Sét-nay" đến trong lúc này đây.

Mụ Ba Béo vừa là chân chạy hàng cho Tạc-tà vợ, vừa là người của Sét-nay. Từ ngày Sét-nay xin được nghị định của Hà Nội cho phép mở mang đồn điền ở hai huyện Yên Thế và Hiệp Hòa lấy lão lục sự Tám chồng kế của mụ làm quản lý, thì mụ lại như chắp thêm vây, thêm cánh mở thêm rất to cửa hàng, nhưng không buôn bán như kiểu Vinh Phát con, mà chỉ lấy tiền mua đất, làm nhà cho thuê, tậu ruộng và cũng sẽ mở đồn điền... Ngoài hai thợ cỗ theo mụ, có Mận và trùm Xào, ả nhận mụ làm mẹ đỡ đầu, gã nhận mụ là bà chị đồng tông lưu lạc tội lỗi bao năm, nay chị em mới nhận nhau, và trùm Xào đã kéo trở về với Chúa.

Lục Tam, trùm Xào và Nhất Cửu đứng trông nom bày biện.

Trùm Xào nhờ lính của Nhất Cửu vào một làng trong, mượn sáu tấm hoành phi và bốn cũi bát đĩa.

Hoành phi kê thành hai dãy bàn, phủ dưới lần vỏ chăn, màn cửa, phủ mặt bằng khăn ăn của Tạc-tà vợ đưa từ Hà Nội sang gửi nhà Ba Béo để chuẩn bị cho một cơ ngơi sẽ xây hẳn trên đồn điền, nơi đây sẽ là dinh cơ thứ ba của mụ.

Bao nhiêu bát, đĩa, soạn, liễn sứ "nội phủ" của hai nhà thờ họ mượn được ấy đem ra đựng các món cỗ ta, nhưng Tạc-tà vợ truyền cứ đựng cả các món ăn Tây, chỉ có rượu thì uống các cốc, các ly pha lê của mụ thôi! Trong bụng, Tạc-tà vợ còn nhẩm tính sẽ mua lại các đồ sứ này mang về Hà Nội cho tủ buýp phê của mụ và sẽ dọn trong bữa ăn có các khách đặc biệt muốn biết thế nào là "bếp Tầu", "ăn Tầu"...

Sực nhớ ra, Nhất Cửu mách Tạc-tà vợ cho đi mượn thêm song bình, độc bình, chóe, chậu sứ, lọ và kiếm hoa để cắm, bày cả chung quanh bàn tiệc và phòng ăn.

Quan hai chính đồn Bỉ Nội thay bộ quần áo mới, chải tóc, giày da đánh bóng, đứng cửa cùng vợ chồng Tạc-tà, Sét-nay và quan ba Mặt ngựa vừa như là người đến trước chuyện với nhau, vừa như là chủ đón khách.

- Ông Sét-nay à! Ông cho chúng tôi biết Hà Nội đã thông báo đi các nơi tin thằng khốn kiếp quỷ quái Đội Vinh lại ra hàng và quân Yên Thế đã bị đánh dẹp phải không? Tốt! Tốt! Nhưng rồi đây các ông phải mau chóng ra báo, nhiều tờ báo, ở cả trong Sài Gòn và Hà Nội, ở cả Hải Phòng nữa, để mở rộng thông tin khắp cõi Đông Dương này, về Pháp và đi các thuộc địa chứ. Và cũng để mở mang cả sự làm ăn của các ông!

Nghe Mặt ngựa nói, Tạc-tà vợ cười rinh rích. Tạc-tà chồng đung đưa cái thân hình béo tốt chỉ cười cười. Sét-nay hai tay ngoặc vào hai bên mép quần đeo "bờ ten", đi đi, lại lại, gật gù:

- Phải, thế nào chúng tôi cũng phải ra báo! Trước nhất vì công cuộc viễn chinh trọng đại và anh hùng của nước Đại Pháp phồn thịnh mà các ông đã lập được những chiến công hiển hách.

- Chớ! Chớ! Chúng tôi chỉ là những người nhà binh bình thường, phụng sự tận tụy, và mong được làm trọn bổn phận của mình, không hơn không kém!

- Thế mới là và chính là tinh thần một quân nhân của nước Pháp, mà người Pháp đã có truyền thống của nước Pháp đã sinh ra Napolêông...

Tạc-tà chồng càng đung đưa, nghiêng ngó cái đầu, cười mủm mỉm. Tạc-tà vợ vẫn phe phẩy cái quạt lông trắng, chấm chấm hai gò má cho đều mặt phấn, uốn éo gọi Mặt ngựa:

- Thưa ngài quan ba, chuyến khải hoàn này thế nào ngài chả về Hà Nội xả hơi. Vậy xin ngài lại cho cửa hàng tôi được cái hân hạnh lại hầu ngài một bữa Cốt nhắc và thịt nướng sở thích của ngài.

Mặt ngựa giơ hai bàn tay xòe rộng lên quá vai:

- Cảm ơn, rất cảm ơn! Nhưng tôi đang lo sau bữa tiệc mà phu nhân Tác-ta-ranh làm "nhạc trưởng" này, thì đến bao giờ chúng tôi mới hết dư vị, mới lại hết đói, muốn ăn, muốn uống...

- Đức Chúa Trời ơi! Ngài quan ba rất lịch sự quá khen, quá khen, quá...! À mà thưa ngài - Cái thân hình gầy gầy và lả lướt của mụ Tạc-tà nghiêng nghiêng, và cái giọng rất chi mơn mướt - Và rồi đây các giặc cướp trên này bị dẹp hẳn, mà ngài vẫn ở ngoài Bắc này, nhất là lại ở Bắc Giang đây, thì thế nào tôi cũng phải mời ngài có một dịp, cố bớt chút thì giờ ghé qua đồn điền của chúng tôi, nghỉ lại cùng nhà tôi đi lên trên kia, đi săn mấy buổi, để tôi được phép khoe mấy món ăn làm với thịt thú rừng đấy!

- Thưa phu nhân Tác-ta-ranh, xin lỗi phu nhân, lại thịt nướng! Thịt nướng!

- Bí mật! Bí mật! Đến lúc ấy ngài sẽ phải sửng sốt!!! Nhất định phải sửng sốt!

⚝ ⚝ ⚝

Buổi chiều, quan ba Mặt ngựa bảo quan hai giám binh coi đồn Bỉ Nội phái một toán lính khố xanh đưa Tạc-tà vợ và Sét-nay đi dạo chơi như hai vị Mạnh Thường Quân nọ ngỏ ý. Tạc-tà chồng lại quá chén nên ở lại nhà. Theo hầu ông chủ, bà chủ của mình là Lục Tam và trùm Xào. Hai con ngựa đã cao lớn, lại thắng yên cương mới, Tạc-tà vợ và Sét-nay cỡi, đi chậm còn hơn người đi bộ. Từ ba giờ đến năm giờ, trông ngắm cả mấy vùng đồng ruộng đồi bãi đã được nghị định của toàn quyền cấp cho khai khẩn, tính phang phác ra một số tiền phải bỏ ra để mở mang những khu trồng trọt những thứ có thể xuất đưa về Pháp hay bán cho nước khác như các cây hương liệu, cà phê, dứa, v.v... rất hợp với thổ ngơi ở đây, ngoài việc phát canh, thu tô ngay một phần ruộng đất mà cả những người nghèo đói ở các tỉnh dưới xuôi lên cùng những người địa phương đã vỡ vạc nhưng không có một thứ giấy tờ gì chứng nhận quyền sở hữu, Tạc-tà vợ và Sét-nay càng thấy trong người thêm phấn chấn, song sóng bước ngựa, cười nói chao chát, như một cặp nhân tình đang say nhau.

Trở về đồn để lại dự bữa tiệc tối, Tạc-tà vợ và Sét-nay bảo trùm Xào và Lục Tam ở lại cùng ba người lính khố xanh để biểu dụ dân của mấy chòm xóm đông nhất ngụ trên đất này.

⚝ ⚝ ⚝

Chẳng ai muốn rước cái đám chó ngao quỷ sứ này vào nhà mình cả. May sao có vợ chồng mụ Xoa mới lên và nhà lại làm ngay trên một bãi đất gần đường cái, và mụ lại là em họ trùm Xào, nên để mụ đón về nhà là tiện nhất.

Từ ngày xảy ra cái vụ thằng bé con mụ Xoa bị cánh cổng đẩy sập giập đầu và vợ cai Cừ thì bị trai tráng xứ họ Phanxicô đến ở xỉa dòng chết ngay tại trận, thì lão Xoa bố như phát cuồng, lắm hôm đang ngủ giữa trưa bỗng choàng dậy, kêu thét, gọi cả tên Cực trọng, văng cả "ếch nhái", vớ được con dao vót nan khoa dao vót nan, vớ được bùi nhùi thì châm bùi nhùi đốt múa vung vãi, không vớ được cái gì thì giật cả cột hàng hiên, kể cả chân bàn và cứ nhằm mụ Xoa và gọi mụ là "con mụ quỷ ám làng trên" mà đuổi đánh. Cũng một trưa nắng oi ả tháng sáu năm ấy, bố Xoa vùng dậy, cởi hết quần áo, ôm một quả mít mật đã chín nứt lấy ở cây nhà xuống bổ ăn, rồi nhổ một cột cổng bảo là thiết côn, vừa đi vừa múa ra bến sông tìm "con mụ quỷ ám làng trên" để giết...

Mụ Xoa tự mình kéo xác bố chết đuối lên bãi, nhờ trai họ chôn cất. Mấy tháng sau mụ lên trên tỉnh, hơn năm sau về nhà với một đứa con gái có mang với một tên lính tập cha vơ chú váo bên đời. Cả bà con trong họ ngoài làng tức điên lên được, nhất định trình cha và đòi rút bằng được phép thông công của mụ và đuổi mụ đi khỏi xứ họ...

Trùm Xào phải thu xếp cho mụ lên đây, ghép cho mụ một anh người ngồ nghề tính hâm hâm, ăn uống như ma nhưng được cái nết rất chịu khó, chẳng có bố mẹ anh em xa gần gì cả, chuyên đi các đám, các hội, các nhà có công việc xin bổ củi, gánh nước, rửa bát, và nhà ai có bất kỳ công việc nặng nhọc, bẩn tưởi gì mà gọi đến làm cũng làm ngay. Anh này phải cố học mấy bản kinh rồi chịu phép rửa tội và biết xưng tội. Nhờ lấy được chồng, lại được cha làm lễ hôn phối cho hẳn hoi, mụ Xoa lại được đi nhà thờ, xưng tội và chịu lễ. Rồi cũng nhờ bờ bãi trên này rộng, các bà con ở các nơi xiêu tán lên làm ăn từ trước giúp đỡ, nên vợ chồng Xoa Ngồ nay đã có ba gian nhà gỗ rừng, và sân, bếp, cấy hơn năm sào ruộng, đi luồn rừng cũng kiếm được cái ăn. Và được một mụn con gái!

- Cái con mụ này, thóc ngô và tiền chạy rừng, mày đổ hết vào cái lọ rượu kia, nên nhà cửa mới như thế này chứ!

Trùm Xào bước lên thềm trước, thấy chỉ kê có mỗi cái giường và cái chõng cũng đóng bằng cây que đi rừng kiếm về và chiếu là mấy bao cói, mấy vỉ buồm khâu ghép, còn chẳng có thứ gì! À, còn cái bàn tre to hơn cái chõng bán nước ngoài chợ nữa! Trùm Xào quát lên:

- Chúa quỷ Sa tăng lại lôi mày xuống đáy địa ngục thôi!

Mụ Xoa cười:

- Thì lại có bác kéo em lên chứ gì?!! Bác tính năm nay nhuận hai tháng ba, đến ngô khoai độn cũng thiếu nữa là... Còn bố nó đi được gánh nâu, gánh măng nào thì vào cả cái tiền thuốc cân ở nhà Vinh Phát cho cái con này này... Thôi được, để em có xuống đáy địa ngục thì em phải hỏi cái thằng quỷ nào cứ để cái con ma ốm ma đau nó có phải ở dưới ấy không, để em lôi nó lên mà tuốt xương nó ra!...

Lục Tam không vào nhà, ngán ngẩm bảo trùm Xào:

- Thôi ở đây có mấy bếp đi đạo thì ông trùm bảo đến cả. Mà kìa! Họ đến cũng đông rồi kia. Có gì ta biểu dụ họ ở ngoài sân này thôi. Tôi đứng nói chuyện cũng được.

- Ai lại thế? Để tôi bảo con mẹ Xoa Ngồ nó đi mượn cái chiếu về trải ở hiên, ta ngồi vậy.

- Đừng vẽ chuyện!

Lục Tam phe phẩy cái quạt lụa nan sừng, nhài bạc, theo dõi những người ngoài cổng đi vào. Được! Rồi đây con mụ em họ thằng trùm này thuê làm nặc nô đi thúc thuế đòi tô rất tốt, còn là trưởng ấp, còn trưởng ấp phải là ông chú họ anh em thằng Tần và Đội Vinh. Đất đai vùng bên này thế mà tốt hơn vùng Bỉ Nội, Dĩnh Kế, Trũng Mỗ đấy. Ta phải kéo hết người làng tổng họ nội cũng như họ ngoại lên trước mới được.

Tuy chỉ nghe tiếng, nhưng ông cụ Đám Minh họ nhà Tần vừa tới ngõ, Lục Tam đã nhận ra ngay.

- Kìa cụ Đám!

Cụ Đám Minh ngạc nhiên thấy sao lại có người như quen biết mình và chào mình trước, nhất là người ấy lại là người và cùng quan chủ ông, quan chủ bà Tây đầm dong ngựa đi kinh lý đồng ruộng trên đây nghe nói sẽ mở đồn điền rất to, chiêu dân lập ấp rất khẩn trương. Tuy đã có tuổi, nhưng vóc người và gương mặt cụ Đám vẫn sức lực, quắc thước. Đã thế, bà con ấp trại lại nhường cụ cái cối đá thủ ở một mé sân ngồi, nên trông cụ càng bề thế. Mấy trai tráng và người đàn ông không chịu đánh bệt đít xuống sân hay ngồi trên những cột tre, đòn kê, cành củi ở dưới đất, mà đứng nhấp nhô sau lưng ông cụ.

Khác hẳn với trùm Xào nói năng nhồm nhoàm, mắt mũi nhấp nháy, chỉ được mấy câu cộc lốc chẳng ra đâu vào đâu về quân Tây đã đánh dẹp xong các nơi, và trên đây nên bảo nhau an cư lạc nghiệp... Lục Tam vừa làm ra vẻ đĩnh đạc mà hiền từ, có quyền thế mà biết ăn ở nhân nhường, cư xử có trên có dưới, có trước có sau:

- Tôi cũng có mấy bà con người hàng tổng mới lên Hiệp Hòa xin ở đồn điền của bà chủ Tạc-tà đấy! Mấy bếp dưới nhà đang bị đứt bữa, trong lưng không có một đồng, một chữ nào, thế mà kẻ được cấp tiền đong thóc lấy lương ăn, kẻ tậu bò, mua sắm cày bừa, có kẻ chạy chữa thuốc thang cho bố cho mẹ. Bên đây đồng bãi lại tốt hơn, tôi sẽ nói cho nhiều bếp trong họ ngoài làng ở tổng tôi lên vùng bà con làm ăn. Tiền nong, thóc gạo trâu bò bà con không phải lo lắng gì cả. Tôi sẽ nói với quan chủ cấp vốn cho, vụ sau, vụ sau nữa trả cũng được. Bà con cứ yên tâm làm ăn. Ở đất đồn điền thì giặc cướp không lo, hào lý nhũng nhiễu không sợ, rồi đây ngày một mở mang; bên đời cũng sẽ có đình, có chùa, bên đạo cũng sẽ có nhà thờ, nhà xứ; nấp bóng quan chủ, ta có công việc gì dưới quê, dưới nhà thì nhờ thế trên này, đi vào cửa nào mà chả lọt, đến đâu mà chả xuôi...

Lục Tam làm như không biết gì về sự tình của Tần và sự việc của Đội Vinh, và nếu như có biết thì đó là phận sự của người khác, nhất là đối với gia đình cụ Đám Minh!

- Tổng tôi ở ngay cạnh tổng cụ bà nhà đấy ạ. Tết tới, sang xuân, cụ có về dưới ta chơi, mời cụ quá bộ rẽ vào tôi ạ...

Lục Tam thăm hỏi mấy bếp nữa, chào cụ Đám rất trân trọng rồi mới đi ra cổng với trùm Xào đang bô bô khoe con một con dê nữa sẽ biếu riêng quan đồn Bỉ Nội để khao lính đồn nhà...

⚝ ⚝ ⚝

Cai Cừ và Thám đành phải để bác Tần gái cõng thằng cu về nhà để mấy hôm nữa thì cúng tuần bốn chín ngày bác giai. Cai Cừ để bà cụ Bờ cùng về, Thám cũng cho mẹ thằng Trọng về theo, còn thằng Trọng ở lại chơi với thằng cu nhà cai Cừ và anh em thằng Nghẹ Lang, Nghẹ Cõn. Bác Ngọ gái chăm lo cơm nước cho cả bọn. Sau khi quân Tây rút, anh em bà con trong làng chôn cất bác Tần và cúng ba ngày bác xong, bác Tần gái mới về và ở lại cúng tuần thêm hai lần nữa thì phải đưa ngay hai thằng cu lên trên kia để tránh Tây cho tới hôm nay. Chỉ trong vòng nửa tháng, bao nhiêu sự việc dồn dập, bác Tần gái càng như có lửa đốt trong ruột, trong gan; phần lại thêm chuyện Đội Vinh lạc đường phải ra hàng, phần nhớ nhà và càng nghĩ ngợi về cái chết của chồng, nên bác Tần nhiều lúc như mất hồn, ngồi lẩm nhẩm không ai biết là nói những gì, bỏ cả ăn uống và cõng thằng cu đi tha thẩn các chùa, các miếu vắng!

Trên đường về nhà hôm nay, bóng chiều đã xế, rõ ràng có người đi bên cạnh chuyện trò, mà bác Tần gái vẫn cứ thấy như đi một mình, và không phải chỉ mới hơn nửa tháng mà đã hàng nửa năm, lâu lắm đi xa, cách biệt hàng tỉnh hàng xứ! Thốt nhiên đã đến chỗ cây khế mọc hoang ở một cụm rừng, mọi khi bác đi móc được giỏ cua, tát suối được mớ cá tép, hay bác trai soi được cá, bác lại trèo lên lấy đầy khăn vuông cả quả xanh lẫn quả chín về nấu, về kho và chia cho các bà con. Bác Tần gái xót xa không sao chịu được vì nó cũng cháy trụi như các cây lưu niên ở vườn bác, mà quái lạ, lần trước bác cũng đi qua sao như không trông thấy gì cả.

Lần này, sao cảnh tượng nhà bác cũng khác lạ hẳn đi và từng vật một bác mới lại nhận ra, biết rõ rằng nó đã cháy, đã trụi, đã bị chặt, bị phá, đã tan, đã nát... đã mất hẳn...

Ba cây mít dai bố nó lên mãi làng Châu nhà mẹ cu Trọng đánh về trồng đã cao bằng đầu thằng cu, phải làm hàng rào và chăm nom chỉ kém có thằng cu.

Hai cái hũ sành để làm mắm, làm tương của cụ Khán Tích cho. Bãi bí ngô và bí đao ở dưới chân đồi trước cổng vào nhà năm nay được mưa, nguyên ngọn và hoa mấy nhà ăn không hết. Bãi mía! Bãi mía. Và ba gian nhà tường trình lề bùn ruộng phẳng nhẵn, sáng sủa, kèo cột cũng bằng gỗ rừng nhưng là gỗ tốt, ngâm kỹ, bác giai chỉ với con dao, mấy cái tràng đục và nhờ hai cụ trong làng cho mực thước và đục mộng cho mà im như thuê thợ ở Thu Hồng làm. Được bà con đánh tranh lợp cho cũng kín đáo.

Tất cả, tất cả, không còn gì, chúng vừa ăn, vừa đập phá, đốt sạch. Cái nhà nay chỉ còn trơ bộ khung cháy thui, trông lại càng lạ, càng thảm hại làm sao!

Mặc mẹ Trọng cõng thằng cu nhà mình về nhà bác Ngọ gái với bà cụ Bờ để thu dọn thêm cho bác đưa con cái về, bác Tần nằm vật ra chõng, lắc đầu, vật vã mình mẩy và nấc nấc. Mẹ Trọng đã thổi cơm, nấu canh xong, sang gọi thì bác Tần choàng dậy, ngơ ngác nhìn, ú ớ hỏi cái gỉ cái gì ấy. Mẹ Trọng càng xót xa, lay lay vai bác Tần:

- Bá phải ăn cơm chứ! Bà cụ Bờ cùng tôi rồi sang cả đây. Nào để tôi thắp hương rồi đi...

Mấy bà mẹ và bà cụ ở các bếp đồi trong kia nghe tin bác Tần về sửa soạn cúng bốn chín ngày bác giai liền kéo nhau đến hỏi thăm và cho thằng cu quà. Người nải chuối, người mấy cái bánh lá gói luộc mai đi chợ bán sớm, người không thể tìm đâu được bánh kẹo gì thì bưng cả niêu tôm rang con đi tát được cho thằng cu Tốn ăn cơm sáng mai. Nếu không có mấy cụ bảo phải về, bảo khuya rồi, để bác Tần đi nghỉ kẻo ốm, thì nhiều bà còn nhiều chuyện nữa với những gói trầu cau giắt ở thắt lưng mới giở ra ăn có mấy miếng.

Trăng mười chín bịn rịn đã lấp ló sau cây dẻ ở mé đồi. Tưởng bà con đã về, mà mình càng thấy mỏi thì đi ngủ được, ai ngờ mắt vẫn cứ như căng và trong người lại càng rộn rạo. Sực nghĩ đến ông cụ Đám Minh chú họ chồng mình có tin mấy hôm nay bị cảm, không đi cày được, bác Tần liền kéo thằng cu Tốn nằm nhích lên nữa bên bà cụ Bờ, rồi len lén đứng dậy. Đã định gọi bà cụ để dặn mấy câu nếu thằng cu thức giấc, nhưng lại thôi, bác Tần đùm nải chuối và ba cái bánh lá vào vuông khăn ra đi...

Đúng nhà Mùi vẫn đang giã sắn khô để kèm với gạo nấu cám cho con lợn nái mới đẻ được tám con.

- Ông thức hay ngủ hở thím?

- Ông vừa lại xông nước lá tre, lau láy xong rồi ngủ yên. Nghe tin bác về từ hồi chiều, nhưng bấn bíu quá chưa sang thăm bác với cháu được.

- Thế ông thuốc thang ăn uống thế nào?

- Ông bảo cứ thổi cơm cho ông ăn, ông ăn được là lại khỏi, lại khỏe chứ đừng thuốc thang gì cả.

- À mà cháu Mùi đâu?

- Cháu nó bên làng gần chợ Vân, ở đợ cho nhà ông Trương cũng người tỉnh ta. Chả là năm kia mới lên, nhà hết lương ăn, ông ấy cho vay bốn thúng thóc. Năm ngoái chưa lo trả được, năm nay cháu đi trâu cho ông ta một vụ và ông nhà ta sang cày bừa cho nhà ông ấy hơn mẫu chiêm, rồi ông ta sẽ trừ cho hai thúng và cho mượn trâu về làm mùa.

Có tiếng hự hự trên chõng sau chỗ bác Mùi ngồi. Bác vội quát:

- Lại khóc gì vậy?

Cái bé Hợi càng tấm tức. Bác Mùi toan phát cho mấy cái, nhưng bác Tần giơ tay ngăn.

- Đòi gì thế nào? Còn cháo kia kìa! Mai khỏi sốt rồi hãy ăn cơm... ăn cơm với ông.

- Cơm cơ!

- Thôi! Thôi! Bác xin phép ông... xin phép ông vậy... Cháu ăn bánh rồi ăn cháo cho chóng khỏi.

Ánh trăng đã thật. Qua khung cửa và hàng hiên, gió mát lùa vào theo. Bác Tần chợt giật mình vì đến bây giờ mới nhận ra kỹ người em dâu họ của mình. Trán dô, da đen sạm, răng lợi chìa cả ra, bác Mùi, mặc cái áo rách của thằng con cắt cụt tay và cái quần rách cũng của con trai ngắn quá đầu gối. Người bác gầy ơi là gầy, ai khỏe chỉ một tay xách bổng. Vì tháng ba ngày tám, bữa khoai bữa sắn, được bát tấm, thưng gạo phải nhường cả cho bố già, rồi cả bố lẫn con bé đều ốm sốt, còn mỗi mình làm các công việc ngoài bãi trong nhà, và ăn uống lại bóp mồm bóp miệng nên người bác mới thế này! "Thím Ngũ góa chồng đã năm sáu năm rồi đấy!", Bác Tần tự nhủ, bóc thêm cái bánh nữa:

- Thím cũng ăn đi!... Bánh cụ bà dưới Gia Bình gói bán, vừa ngon, vừa rẻ! Thím này, hay ở bên này hay ốm đau thì ông và thím đưa hai cháu sang ở bên nhà tôi... Đất bên tôi cũng rộng, mà chung quanh toàn bà con như mình, thêm họ, thêm hàng cho vui. Nhất là ông năm nay đã già rồi lại yếu!

Bác Mùi im lặng. "Như thế thì quý đấy! Nhưng còn chỗ ruộng vỡ được bên kia đồi, hơn mẫu đất, cấy được cả hai mùa thì gánh sang bên bác được sao? Thằng Mùi này chỉ sang năm là cũng đi cày được với ông rồi!".

Tưởng bác Mùi đang xiêu xiêu và còn suy tính, bác Tần thấy vui vui trong dạ.

- Thím nhớ nhé, cúng tuần bốn chín ngày bố thằng cu Tốn xong là tôi đi vay giật thêm mấy nơi, lấy tiền về Hà Nội, xem tin tức chú Đội Vinh ra sao. Thế nào ông cũng đi với tôi. Nghe cái hôm chú Đội Vinh đưa quân lên trên đây nói một câu với bác cai Cừ về nhà tôi, về cái nghĩa anh em, mà tôi thấy... - Bác Tần bỏ dở câu nói vì nghẹn ngào, nhưng rồi cũng nói tiếp - Vậy thì chú cũng như cha... Phải làm sao cho chú Đội Vinh được gặp ông, và ông được gặp cháu, rồi chú ấy có mệnh hệ thế nào... cũng đỡ ân hận, dù chỉ được nói với nhau một câu hay trông thấy mặt nhau chốc lát...

Có tiếng ho sặc lên và giường rung cót két. Cả hai chị em nọ đều xớn xác:

- Ông dậy rồi! Chắc đòi uống nước đây, tôi lại đi hâm nồi cháo chắt cho ông uống.

Bác Tần bổ lên nhà trước, xốc lưng cụ Đám lên:

- Ông ơi! Ông ơi! Người ông sao mà lại nóng như lửa thế này?!!