← Quay lại trang sách

Chương VII

Trận lên đánh Yên Thế này, chỉ vừa mới phong thanh lọt tên chức người cầm quân thôi, cũng đã làm cả mấy viên quan to trông coi đạo binh đóng các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Phúc Yên phải suy nghĩ. Rồi khi được tin chính thức cuộc hành quân đã mở và nhiệm vụ rõ ràng của mình là thế nào, thì các binh lính đều xôn xao bàn tán.

Đúng là quan sáu Gồ cầm quân.

Phải! Đúng là tướng Gô-đanh làm đốc binh trận đánh.

Và trận đánh điểm chính là đồi Cao Thượng mà nghĩa quân Yên Thế đang đóng giữ, công nhiên đóng giữ, có đủ cả tướng Đề Nắm cùng các thống lĩnh sừng sỏ của mình.

Đường bộ đi thẳng từ Phủ Lạng Thượng Bắc Giang lên Cao Thượng khoảng mười ba cây số.

Đường bộ đi tắt từ Bắc Ninh lên Cao Thượng qua các vùng như Tam Tầng, Bích Động, Mỏ Thổ hay núi Voi, Sàn Rãnh, Kháng Giàng, v.v... cũng chỉ trông khoảng hơn hai mươi cây số.

Đồi Cao Thượng không cao lắm, nhưng trấn giữ hết các ngả đường từ Yên Thế đi các tỉnh: sang Vĩnh Yên, Phúc Yên, lên Thái Nguyên, Lạng Sơn, về Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Đông hay qua đây thì xuống mấy phủ huyện đường xuôi như Hiệp Hòa, Yên Phong, Từ Sơn, Yên Dũng, Võ Giàng, Quế Dương, v.v... Rừng cây và đồi núi ở phía sau và chung quanh Cao Thượng không là đại ngàn nhưng rậm rịt. Các làng mạc không to lắm nhưng nhiều lõng rất hiểm hóc: Phía nam, trước mặt Cao Thượng, phía đông, phía tây Cao Thượng nơi nào đã thành làng thì ruộng đồng đều tốt, dân cư đều đông, hào lũy, bờ bụi, cây cối tre pheo, đầm ao dằng dịt... Khi biết, cứ một người trong làng có thể chống giữ với các kẻ đánh cướp ở bên ngoài dù đông hàng trăm và mạnh ác hết mức.

Đã thế, dưới chân và chung quanh đồi Cao Thượng, mặt nào có làng xóm thì làng xóm đều rào rấp như thế, mặt nào là ruộng bãi thì trống trải. Xa xa lại cũng là các quả đồi, các khu rừng và làng xóm dân cư nhiều đời tụ hội làm ăn với nhau, có tiếng là dân nghịch.

Làng Cao Thượng ở phía tổng Mọc, tổng "Mục Xá". Tổng Mọc ruộng đồng đã tốt, lại có chợ. Chợ Mọc tuy không to bằng chợ tỉnh trên kia (từ ngày quan Nguyễn Cao lên xây thành Tỉnh Đạo và mở mang trại ấp, chợ Nhã Nam còn gọi là chợ tỉnh) - và chợ Mọc không mua bán trâu bò, không có người ở phía trên, phía trong đem thịt hươu nai, mật ong, mật gấu, cao, nhung, xương, gạc, v.v... đến bán, nhưng lại rất đông các hàng vải sợi, tơ lụa, các hàng xén ở các chợ Tam Sơn, Giầu, Đình Bảng, Chờ, Me, Gióng, v.v... lên bán, và người làng các nơi về đong lạc, đỗ tương, đỗ xanh, hạt dẻ còn đông hơn chợ tỉnh trên Nhã Nam.

Có khá đông người dưới vùng Từ Sơn, Bắc Ninh lên làm hàng và buôn bán. Họ ở hẳn trong mấy làng chung quanh chợ Mọc.

... Mặc dầu đã nghe tin quân Tây lại lên đánh Yên Thế, mấy bà hàng vải, mấy bà đi đong vẫn thập thò ở cổng làng và đầu đường lối ra gần chợ. Chả nay là phiên chính. Bán, đong vừa sẵn khách, vừa nhiều thứ. Sáng mai lại có thể về dưới chợ nhà mua sắm hàng lên bán tiếp. Nhưng buổi này hầu như chỉ có người chạy.

- Bá ơi! Gánh đỗ đi đâu đấy? Để cho em nào?... Kìa, để cho em nào...

- Kìa, bà với bá cũng chạy ư? Em đưa vải lên đây, có mấy người cũng hò hẹn, nhưng em chỉ "ư" với bá với bà thôi.

- Bà ơi! Cả sồi và lụa bà dặn mua, em đều đưa lên đây. Mớ sồi này mà đem nhuộm, đem chuốt, thì còn đẹp hơn Kiều ấy! Bà may sống áo mặc đi chùa, ai trông chả phải bảo...

- Bảo gì? Bảo gì?!! - Tiếng hỏi gắt yêu.

Tiếng cười hi hí:

- Trông bà trẻ hơn con gái mười tám ấy!

- Thôi!... Thôi! Để mai mốt tôi ra chợ tôi lấy! Tây lên đã gần đến núi Con Voi kia kìa!...

- Gánh đỗ xanh và cả gạo nếp nữa, bá ơi! Để cho tôi đong nào...

- Thì phiên sau... đến phiên chợ sau, Tây rút, tôi bảo cái gái nhà tôi nó gánh ra cho bà đong.

- Thế gánh này bây giờ gánh đi đâu?!

- Có việc! Còn có việc!...

Nhiều người trong các làng đã đổ ra. Kẻ đưa bà con nhà mình chạy lên; kẻ hỏi tin tức bà con mình có ai ở lại; kẻ hỏi Tây kéo quân đi những ngả nào, ngả nào, có đông không, nhiều súng ống không; hay có những dân nào đi theo?

- Úi lêu ơi! Úi lêu ơi! Nó đi từ gà gáy nửa đêm ấy. Sắp xuống dốc núi Con Voi, trong này mới biết. Hốt quá! Hốt quá!

Nhiều xe súng lắm! Trông dằng dặc, ghê ghê, cứ như xe ma xe quỉ năm động âm dịch tễ kéo nhau đi ấy.

Cánh đồng này, tiếng bê nghé gọi mẹ, đường làng xóm kia, gà vịt quang quác trong lồng. Đàn bà con mọn, trẻ con dắt díu kêu gọi nhau qua các quãng đường lớn... các tốp đinh tráng vác giáo, cù nèo, bồng mã tấu, bồng gươm ở các làng đã phân đi canh gác ở những con đường tắt đến đồi Cao Thượng, đón giữ, khám xét những kẻ lạ mặt, khả nghi trà trộn đi với dân đây. Làng nào cũng rào rấp lại cổng ngõ. Ở mấy quả đồi và cánh rừng xa đồi, không những chỉ có nghĩa quân mà rất nhiều trai tráng và trung niên tự sắm lấy khí giới gia nhập sẵn sàng ứng chiến.

⚝ ⚝ ⚝

Đề Nắm ngồi trên một gốc cây thông mà nghĩa quân ngả lấy gỗ để đóng vội giường phản, bàn ghế cho mấy vị thống lãnh nằm ngồi. Trước mặt Đề Nắm là một hàng ụ đất có hố nấp kiểu chữ chi. Từng hàng, từng lớp ụ và hố, từ ngọn đồi xuống dưới chân đều có hào nối thông nhau. Hố nào, ụ nào cũng có cây, có bụi, có gỗ đá, có cỏ gai, cành rào kết lại che chắn. Ở các mỏm đồi, đặt làm vọng gác, làm chòi bắn, cũng kín đáo, hiểm hóc, chắc chắn như thế. Mọi thứ ống nhòm hay mắt người tinh tường đến mức nào chăng nữa, hay dẫu cho đến rất gần, rất sát và đã đi dò, đi tìm cẩn thận, tỉ mỉ cũng khó mà có thể nhận ra những ụ, những hố và những tay súng ở đây. Đã thế những tay súng lại lựa toàn những nghĩa quân có tiếng là gan dạ, thiện xạ, đã qua tất cả những trận từ ngày đầu Yên Thế nổ súng chống cự mà súng thì toàn súng mới, súng tốt.

Nhất thế khoa danh bách thế hùng.

Mắt chăm chăm nhìn về phía đoàn chắc cánh quân chính của Tây sẽ tiến đánh, Đề Nắm càng thấy tâm trí nặng nặng thêm và càng bồi hồi lạ lùng, nghĩ đến câu thơ này. Trời đã hửng nắng. Ngọn núi Lang Cao, núi Dành, núi Mỏ Thổ và những sườn đồi, sườn núi tiếp giáp đều mở ra như cắt lên nền trời mà phía bên kia là cả một vùng đồng ruộng rất tốt. Các cánh rừng, dãy núi ở đấy tuy không rậm như phía trên, nhưng các khe, các lũng không phải là không khúc khuỷu, hiểm trở. Rồi đây nghĩa quân mà mạnh, tràn được xuống cả dưới đấy, thì thanh thế biết bao! Đồn trại của nghĩa quân sẽ phải đóng cả ở núi Mỏ Thổ, núi Con Voi, núi Quảng Phúc và phải chiếm cả núi Nham Biền nữa để chặn đường Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, uy hiếp cả Hà Nội.

Phải, quan Tán Cao dưới suối vàng mà được biết nghĩa quân Yên Thế đã đánh chặn quân Tây, hạ được cả quan năm, khiến chúng hai lần chiếm được nhưng rồi phải bỏ thành Tỉnh Đạo, chắc Người cũng bớt hận đôi phần vì thấy dân con Yên Thế của mình không phải là yếu hèn để phụ lòng kỳ vọng của đất nước, giang sơn.

Phụ lòng cả tông tộc nhà mình nữa!

Vệ Kiên bố ông Đề Nắm là cháu bà mẹ Nguyễn Cao. Thuộc ngành thúc bá, bà mẹ Tán Cao rất quý bố Đề Nắm, thường nhắn người làng lên trên Yên Thế bảo nếu không đưa cháu Nắm về làng học để bà kèm cặp cho thì cũng phải đón thầy về ngồi nhà dạy bảo. Chứ lên đây làm ăn được khấm khá, mà chỉ lo làm giàu, để con lêu lổng thì không nên. Xem tướng cho cháu Nắm, bà mẹ Tán Cao khen rằng khôi ngô đấy, nhưng phải có học đến nơi đến chốn, không thì cũng chẳng ra gì, và chỉ là rẻ cùi tốt mã!

Tuy năm ấy mới lên sáu, nhưng nhờ ông bố và các bà cô kể lại nên Nắm vẫn cứ nhớ như in hình ảnh bà cụ cũng như hình ảnh Nguyễn Cao trong đám ma bà cụ. Nguyễn Cao đầu đội mũ rơm chít khăn tang, quần thủng đít, luôn luôn quẫy chân, nghển nghển đầu như muốn với lấy cái mũ rơm và cái gậy vông treo ở đầu đòn rồi lúc hạ huyệt bà mẹ Nguyễn Cao, thì Nguyễn Cao cứ trằn, cứ sà xuống, hai tay quờ quờ như đòi giữ lấy cỗ ván...

⚝ ⚝ ⚝

Viên quan ba đứng nghiêm chào, báo cáo đã đúng 9 giờ, xin cho lệnh nổ súng, thì tướng Gồ càng đanh nét mặt, giơ tay làm dấu thánh giá, đoạn nâng nhẹ cái gậy đốc bịt vàng lên, gật đầu.

Từ đồi Đỏ sang thẳng đồi Cao Thượng, năm cỗ pháo lớn tức thì giật cò, cùng phụt ra những quả đạn. Chưa dứt tiếng gầm này đã tiếp ngay tiếng gầm khác, khói, lửa, mảnh đạn, đất đá tung lên, dần dần mù mịt khắp đồi. Trong khi đó, những hàng lính Tây, lính khố đỏ chạy ào theo, kẻ trườn, người bò nhằm quả đồi cao phía nghĩa quân đóng mà tiến từng bước, từng mô đất, từng bờ cỏ.

Một lúc sau, ở chỗ Đề Nắm đốc quân, tiếng còi đồng mới rúc lên. Lá cờ lệnh bằng dạ vàng viền kiêm tuyến Đề Nắm cầm phất mạnh ba lần, cho ba mỏm đồi có ba hàng hố nghĩa quân nấp, nổ súng. Quân Tây choáng choàng nằm rạp, mặt áp như lót cả xuống bùn, xuống cỏ.

Đề Sặt đốc quân ở mặt chính này với hơn ba mươi tay súng, bộ hạ được lệnh nên bắn rất mạnh. Những loạt đạn của nghĩa quân làng Sặt nổ tới tấp vừa để rửa hận về hai trận Tây đến vây làng mình, vừa để cho các mặt khác, Tây biết cả tài lẫn sức của phía ta nữa. Ở sườn cánh tả, nghĩa quân của Bá Phức và Thống Lịnh tuy không nhiều bằng, nhưng bắn cũng rất ác. Thám và Tề chỉ nổ súng khi nào đã nhằm thật đúng những tên Tây cai, Tây đội và những tên hung hãn định vượt lên trước nhất!

Tướng Gồ chỉ thoạt nghe những làn đạn bắn chặn, đặc biệt là những phát đạn bắn chéo cánh sẻ của nghĩa quân ở sườn đồi Thám trấn giữ, liền thấy ngay mình đã gặp một đối phương đương đầu khá nguy hiểm. Nếu không được tập luyện tinh thông, không có sự chỉ huy dày dạn, bình tĩnh, thì không thể nào tổ chức được sự cầm cự với một hỏa lực tuy ít những mà ác liệt như thế. Đoán được ý của tướng Gồ, viên quan ba pháo thủ liền gấp rút hạ lệnh bắn đồn vào phía Thám.

Đề Sặt càng đắc ý, cho rằng quân Tây có lẽ gờm phía mình, mà muốn tiến bằng phía kia ít súng, đồi bãi có phần quang hơn, phẳng rộng hơn. Bởi vậy khi quân Tây vừa định tiến nữa, Đề Sặt liền cho bắn ngay, cố hạ được mấy tên để lấy thêm khí thế.

Những quả đạn đại bác không những tung toang phụt lửa ở ngay sườn đồi và hàng cây trước mặt, mà còn tới tấp ầm ầm ở cả phía sau và trúng ngay hố, ngay ụ, ngay mép hào của cánh quân Thám và Tề. Mắt, mũi, miệng nhiều người cay sè, cay sặc. Những mảnh đạn bỏng khét phạt răng rắc những cành cây trên đầu. Có những hố, những vũng nước kêu xèo xèo, bốc khói và những bụi cỏ lưỡi rắn, những đống quả thông, lá thông bùng cháy. Mấy cây thông chết khô bén lửa ngùn ngụt.

Bọn Thám càng như say khói thuốc súng, nhưng vẫn không bỏ sót một bờ bụi, một mô đất, một quãng bãi nào ở dưới kia lính Tây đang nhấp nhô, lổm nhổm. Vì vậy những phát đạn của nghĩa quân vun vút lửa qua làn khói xỉa vào đám lính Tây làm chúng đã hoảng hốt lại càng thêm hốt hoảng. Trước cặp mắt kính gọng vàng loang loáng của tướng Gồ đưa trông quan sát trận địa, cái thế áp đảo của đại bác và các hàng lính của y đông gấp bốn gấp năm lần cố gắng tiến từng bước, đã không thấy diễn ra dấu hiệu gì, mà ngược lại chỉ thấy đối phương gan dạ, vững vàng, quyết liệt.

Cũng lại đoán biết được sự suy tính của tướng mình, viên quan hai chỉ huy cánh quân đánh mặt đồi của Thống Lịnh, Bá Phức, liền truyền cho tất cả các hàng lính phải hết sức thận trọng, và mở những làn đạn dữ dội hơn nữa để có thể dập được đám nghĩa quân ác liệt nọ. Tất cả năm cỗ đại bác vẫn theo nhau gầm lên, như hờn giận về sự vô hiệu của mình trong mấy giờ đã qua này. Các bọn lính Tây vẫn trườn theo và nhằm bắn lên lưng đồi không tiếc đạn. Dưới gốc thông ở trên cao, đứng lót trong đường hào, Bá Phức và Thống Lịnh chợt kêu lên, gọi nhau vì hai quả đạn nổ rầm ngay sau lưng, mảnh đạn văng khét qua đầu.

- Ông Phức! Ông Phức! Nó chiếu ống nhòm thấy được mình rồi! Thống Lịnh ngồi sụp xuống, ho sặc.

Bá Phức ở gốc thông bên cạnh cũng vội chúi đầu nép mặt vào lòng hào, chưa kịp đáp lời, Thống Lịnh lại gọi.

- Ông Phức! Ông Phức! Trận này nó đem súng trái phá lên bắn nát đồi Cao Thượng chắc?!!

Bá Phức thấy nếu mình vẫn không lên tiếng thì không tiện, đành phải nghển nghển mấp mé bờ hào, giọng nói vẫn ra vẻ đĩnh đạc, dõng dạc, rất tự nhiên:

- Sao! Ngựa nó chứ đâu phải là thuyền đinh thồ đạn để chúng nó bắn?!! Có thể nó cho rằng ở mặt mình súng ít, quân thưa, đường tiến dễ, nên nó định đánh lên đấy! Không hiểu ông Nắm có biết thế mà điều ngay súng tiếp cho không?

Thống Lịnh cũng bất đắc dĩ phải khum khum đứng lên:

- Chắc ông Nắm đang đốc cánh Sặt lại bắn mạnh để chặn đỡ cho cánh ta kia kìa!

Chính lúc ấy, Đề Nắm truyền hai thống lãnh ở lại ngọn đồi để làm việc quan sát và tiếp ứng mặt sau, còn mình với hai mươi tay súng đi luồn đường hào giáp sườn trên cánh quân Thám mà tắt xuống một đường hào phía tay phải, phía dưới. Từ lúc quân Tây dồn đại bác bắn vào cánh quân Thám, mặc kệ cánh quân Sặt xả đạn, Đề Nắm càng phừng phừng trong người:

- Tây lại vào lõng của ta rồi! Thằng Thám, thằng Tề giỏi đấy! Khá đấy! Thế nào Tây cũng đổ quân lên mặt hai đứa nó.

Có tiếng kêu, tiếng thét cuống cuồng, hỗn loạn.

Hai thằng Tây xông lên trước nhất và một thằng khom khom chạy theo định chiếm lấy những gốc thông và mỏm đá để kéo nhau tiến sát nữa mà làm hẳn một chiến lũy bắn hiệp đồng với pháo binh không cho nghĩa quân kịp ngóc đầu lên, thì cả ba thằng đều trúng đạn, giãy giãy, quằn quại. Một thằng vẫn đội mũ, nhưng nằm vật ra, tung súng lên, máu tóe vũng cả người.

Tức thì một loạt đạn đại bác rầm rầm cùng những đạn súng trường giội đến, làm thành một lớp rào lửa ở trước mặt nghĩa quân. Đề Nắm và hai mươi tay súng đã áp sát đường đồi mé phải cánh Thám mà bắn xỉa vào các toán lính Tây hò hét nhau tràn lên vừa để cướp xác, vừa giữ vững hàng trận. Nghe tiếng đạn, Thám không thể nén được lòng cảm phục vị thủ lĩnh, reo hẳn lên, gọi Tề:

- Ông Đề Nắm bắn chặn đấy! Ông Đề Nắm xuống hẳn đồi tiếp ứng cho ta!

Nhưng chỉ vừa dứt lời, Thám liền nhảy ra khỏi miệng hố, băng qua mấy khu đường hào, chồm đến chỗ Đề Nắm. Đúng lúc ba thằng lính Tây vừa bò nhổm lên, giương súng bắn! Hình như Đề Nắm bị trúng đạn, nên một thằng xông hẳn lên, nổ đạn tiếp vào chỗ Đề Nắm mà không thấy Đề Nắm bắn lại. Nhưng thằng nọ chưa kịp bấm cò, Thám đã từ miệng hào phía trên chồm xuống như một con báo, một tay giật khẩu súng đi, một tay quặp lấy gáy nó, cánh tay dữ hơn bằng sắt ghì vật nó ra mà bồi một nhát khuỷu vào cái cổ thở nghẹn ử nọ.

Cả Tề cũng chạy đến cùng những nghĩa quân của Đề Nắm xả đạn vào bọn lính ma quái định luồn cắt đường, bắn rất bất ngờ vào nghĩa quân.

Lần này trong tiếng kêu thét của bọn lính Tây thêm nhiều thằng bị trúng đạn lại thấy nổi lên những tiếng reo, những tiếng reo của nghĩa quân ào xuống, kẻ cướp súng, kẻ bồi thêm những nhát mã tấu hạ nốt mấy thằng nữa, kẻ bắn đuổi theo bọn bỏ chạy. Cánh Thám phía trên lại nhằm những thằng Tây bị thúc phải tiến lên mà xỉa đạn.

⚝ ⚝ ⚝

Trước tuần lễ lên Yên Thế, Tôm-he đã ra Hà Nội đến mụ Tạc-tà uống rượu cả ngày chủ nhật rồi vay thêm năm mươi đồng bạc, sắm cho Mận một đôi quần lĩnh Bưởi, hai chục vuông lụa Hà Đông và một đôi nụ vàng để làm quà mừng ngày lễ Chúa Con xuống thế tháng tới. Rồi cả buổi chiều và tối chủ nhật trước hôm cấm trại để sửa soạn cuộc hành quân, Tôm-he và hai tên quan binh ở Đáp Cầu liên miên ăn uống ở nhà mụ Ba Béo mà không lúc nào Mận không ôm ấp trong tay Tôm-he.

Mụ Ba Béo và lão chồng lại được dịp bày biện những món ăn đến cả thượng thư, tổng đốc trong Huế cũng phải thèm rỏ rãi, hay có được ăn thì cũng phải thấy ngon đến quắt tai! Nguyên mấy món tôm he, cá song và cua dẽ chuốc từ chợ Đồng Xuân ở Hà Nội và tiền đặt cọc cho nhà hàng, tiền xe ngựa đem sang Bắc Ninh cũng gần bằng lương tháng của quan lớn đầu tỉnh. Ấy là chưa kể tiền rượu.

Hai tên quan hai bạn Tôm-he trong khi lảo đảo nâng cốc sâm banh đến bắt Mận uống với Tôm-he đã nói:

- Tôm-he ơi! Mày khao chúng tao bữa rượu trong trận này thì đến hoàng tử xứ Băng-gan cũng phải ngả mũ chào đấy!

Thằng thứ hai mở rộng vòng cánh tay trái, vừa rập rình bên tay nâng cốc:

- Vậy thì lại phải rót đầy cốc và mở thêm mấy chai nữa, chai nữa để đáp lại sự hào hoa của người bạn xứ Pờrôvăngxơ rất mực phong lưu, mã thượng của chúng ta trong quân đội viễn chinh.

... Tôm-he phong lưu, mã thượng ấy giờ cỡi con ngựa tía, gân bắp núng nính, đi bên hàng quân, dưới trời nắng thu, càng thấy phải mau mau, chóng chóng, xong các trận đánh dẹp lên đất này mà hắn không những chẳng lý thú gì, trái lại, chỉ ngày càng thêm chật vật, hơn nữa, rất nguy hiểm. Cánh quân Tôm-he có một quan tư chỉ huy, nhận trách nhiệm đánh phá, lục soát mặt trận phía trên Cao Thượng, cắt Cao Thượng với Bố Hạ, Nhã Nam. Kế hoạch còn có điểm quan trọng hơn nữa là truy tìm, vây bắt các toán nghĩa quân làm hậu bị tiếp ứng cho Cao Thương, mà tướng Gồ được quân do Thám báo cho biết, tuy không tinh nhuệ như ở cánh chính của Đề Nắm, nhưng lại khá đông vì có các toán nghĩa quân lẻ tẻ và ở nhiều làng nhập vào, đinh tráng vừa rất thông thạo đường vừa sẵn sàng cơm gạo tại chỗ, cầm cự được lâu ngày, không cần phải quân lương trên đồn chính tiếp cho.

Tôm-he kéo quân qua khu rừng Yên Lễ. Xả súng vào làng Am và mấy làng quanh thành Tỉnh Đạo, không thấy có sự chống cự và khả nghi gì cả, Tôm-he càng e ngại. A! Trong trận trước, chính quan năm năm sao Rậm râu đã bỏ mạng ở vùng này đây! Hình như cũng ở trong tình trạng lo lắng ấy, viên quan tư chỉ huy liền hạ lệnh cho những hàng lính đi trước cũng như đi sau phải chăm chú hơn nữa.

Từng loạt đạn lại bắn dồn dập thêm vào các bờ bụi, hào lũy cả phía gần cũng như phía xa. Để thật chủ động, thật chắc chắn, Tôm-he không đi qua Nhã Nam vào mà tắt qua làng Lan Thượng tiến vào Luộc Hạ, để rồi qua làng Lèo, làng Nứa sang Bố Hạ.

Lại những sườn đồi, những cụm rừng gai, những bãi sim, mua rậm lút.

Ngọn đồi rất cao, ngọn đồi tiếp giáp hai vùng Luộc Hạ và Nhã Nam, đã sừng sững kia kìa!

Tôm-he lại truyền lệnh cho các binh sĩ càng phải cẩn thận. Sắp tới đầu dốc, hắn phái hai toán lính và một viên đội gấp gấp lên đóng trước trên đồi để canh gác. Cũng vẫn không thấy dấu vết gì của nghĩa quân nên khi lên tới đỉnh đồi, Tôm-he thở phào, lấy khăn tay chấm chấm mồ hôi, bóc bao thuốc mới, đánh diêm châm. Tất cả những đồi bãi, rừng cây, làng mạc, đồng ruộng toàn vùng Nhã Nam rải ra. Cả viên quan Tư cũng dừng ngựa, lau mồ hôi, hút thuốc và trông ngắm cảnh vật quan sát binh tình. Từng hàng, từng toán lính khệ nệ súng đạn lên dốc. Nhiều tên đã thấy khát cổ mà bình toong lại hết nhẵn nước. Nhiều tên thấy vai, thấy ngực, thấy cả người mình mỏi sụn, nếu mình được nằm vật ra thì Đức Chúa Trời ơi, không còn sung sướng gì bằng! Nhiều tên còn thấy đói ngấu và nhất là thèm rượu!

Tôm-he được lệnh viên quan tư, truyền tất cả phải tức tốc xuống dốc, và một toán đi đầu phải làm sao tiến đóng ngay ngọn đồi làng Luộc đối diện kia để mở một cuộc vây bắn đánh phá các nơi nghĩa quân thường hay lui tới này, đây cũng là một cửa ngõ vào làng Dĩnh Thép, vào làng Hom, tiến sâu lên phía Yên Thế thượng, rẽ sang Thái Nguyên.

Khi cả cánh quân cùng quan hai, quan tư đã xuống hết chân đồi, chẳng kịp uống nước và thở để lấy lại sức, thì súng của nghĩa quân đã nổ ran ở cả trên hai ngọn đồi có lính Tây canh gác. Tất cả kinh hoàng vô cùng vì không hiểu họ từ trên trời bay xuống hay từ hang hốc bờ bụi nào chồm ra, mà đạn cứ xả vào chúng. Thằng chết đứng, thằng ngã gục, thằng ôm đầu, ôm bụng bị thương... Cả hai toán lính nháo nhào bỏ chạy và kêu thét gọi bắn cứu. Nhưng cả chân đồi, dưới bãi, đạn của nghĩa quân cũng nổ tới tấp. Quan tư chỉ huy và quan hai Tôm-he chúi ngay vào một gốc cây, thét bảo những tên lính dắt la thồ các hòm đạn và lính khố xanh tháo dỡ các thứ và đào đắp ngay công sự ở xung quanh. Trong khi tất cả lính Tây bắn trả cứ như điên, thì trên một dốc đồi rậm rịt, đổ xuống không biết bao nhiêu nghĩa quân với một lá cờ đuôi nheo bằng da vàng, viền kim tuyến, vung lên như múa.

Cai Cừ, Phúc Lang Cao, Cai Sơn, Cai Mễ, Ba Biều và mấy nghĩa quân của Đội Vinh dẫn đầu trước làn đạn yểm trợ, gầm lên như sấm, thét lên như sét, ào ào chụp lên bọn lính Tây và lính khố xanh đang nhằm bắn mà đâm, mà chém mà cướp súng...

Quan tư chỉ huy đầu tiên quơ tay súng nhằm bắn Phúc Lang Cao cầm cờ để các lính hộ vệ mình và các lính khác bắn theo. Đạn sượt qua đầu, qua gáy Phúc. Đạn khét vụt trên đầu, qua mặt Phúc. Đạn véo lửa qua trán, qua vai Phúc. Lá cờ vẫn cứ phất phất...

Ở đồi Cao Thượng, khi một nghĩa quân xốc cõng Đề Nắm tránh khỏi hai quả đạn đại bác nổ tung trước mặt, toan đặt ông nằm xuống để một thống lĩnh rịt thuốc dấu và xé vải băng cho bả vai cầm máu, thì ông nhỏm ngay, dậy giơ giơ cánh tay bị đạn khoa khoa:

- Trên Luộc và cả ở Lèo nữa ta đã nổ súng rồi! Đúng ta nổ súng rồi!

Cả mấy thống lãnh và nghĩa quân ở hai mỏm đồi tả hữu đều chạy lại, reo lên:

- Tây đâm vào lõng của ta rồi! Tây đâm vào lõng của ta rồi! Bắn cứ loạn xạ... loạn xạ.

Đề Nắm tự nâng cánh tay cho Bá Phức rịt thuốc và Đề Sặt quấn vải, gật gật đầu, cười:

- Đúng nó đi vào thế của ta rồi! Đến chết dúi với nhau ở Luộc thôi! Hay có ra khỏi Luộc thì cũng tan xác! Chính cai Cừ là người góp thêm ý kiến không nên để số lớn nghĩa quân đóng ở Cao Thượng cầm cự với quân Tây, mà nên chú ý về phía trên, điều thêm người lên đây để đón đánh cánh quân Tây vừa ít, lại không có súng đại bác vì dồn cả cho cánh ở Cao Thượng, và đường lối, dù có kẻ thông thuộc đưa dẫn, nhưng vẫn đi vào "đất" của ta, và ta sẽ đánh được. Phải! Chính cai Cừ không những cũng đồng ý với Đề Nắm, mà còn phân giải, trình bày tỉ mỉ thế trận sẽ diễn ra, khiến cho tất cả các thống lĩnh trong cuộc hội bàn đêm qua không còn ai bàn tán thêm nữa.

Đã thế cả Bá Phức, Thống Lịnh và Thám đều ở lại Cao Thượng nên Đề Nắm càng tin tưởng, đặt rất nhiều kỳ vọng vào cánh quân cắt đặt theo sự xướng xuất của mình.

- Cai Cừ giỏi đấy! Giỏi đấy! Nhưng không có Thám đi cùng, liệu có làm nên công trạng không?!!

Những quả đạn đại bác càng nổ rát vào đồi Cao Thượng, hình như bọn pháo binh đã điên lắm, điên lắm rồi. Còn bọn sĩ quan đốc bắn thì như tiếc sao lại không có thêm mấy khẩu súng nữa để làm trụi, làm nát cả trận địa này mà mau mau chóng chóng kết thúc, nghĩa là tiêu diệt được một phần nghĩa quân rồi chiếm đóng cả quả đồi để lấy lòng tướng chỉ huy! Tướng Gồ đích thân quan sát và đốc chiến.

⚝ ⚝ ⚝

Tuy chiếm được quả đồi chùa Luộc Hạ và mở được mấy lối sang làng Lèo, làng Nứa nhưng cánh quân phía trên của tướng Gồ vẫn không thể nào vượt khỏi vùng đồi núi nghĩa quân mai phục. Cả quan tư chỉ huy và quan hai Tôm-he đều như bị lửa đốt đầu. Muốn rút về Nhã Nam, về Tỉnh Đạo thì đường qua cửa ải kia, nghĩa quân vẫn giữ mà không thể sao biết rõ được có bao nhiêu tay súng, và ở những hốc, những bờ, những bụi nào, vậy cứ mạo hiểm, cố sức tiến qua để mà nộp mạng, bỏ xác ở đây?!! Còn như đánh qua làng Lèo, làng Nứa thì cũng vẫn bị mai phục, có thể đụng độ những trận dữ, ác hơn, trong khi ấy quân của tướng Gồ ở Cao Thượng lên cứu viện đang bị chật vật, khốn khổ vì phải đối trận với toàn những "Đề", những "Lãnh" sừng sẹo và những bộ hạ thiện chiến do Đề Nắm trực tiếp chỉ huy.

Đúng là tháng 11. Nhưng là tháng 11 ở Bắc Kỳ, nhất là ở Yên Thế của Bắc Giang. Lại về chiều. Nhưng là buổi chiều của rừng núi, đồi bãi rậm rịt, ban đêm thì ẩm ướt, ban ngày thì nắng chói chang, hầm hập. Đã phải ăn lương khô, uống dè từng ngụm nước trong bình toong nồng nồng, mặn mặn; đã rộp hết cả da thịt và ngứa đến phát điên lại phải cùm chân với những đôi giày đinh thối như cóc chết không được phép cởi ra và cũng không dám cởi ra, lại còn bó trong bộ quần áo lấm láp, hôi bẩn vô cùng... vậy mà lại còn bị căng hết thần kinh, sức chịu đựng giữa cái nóng bức, ngột ngạt!

Đức Chúa Trời ơi! Kìa mặt trời lại đang lặn, khí núi lại đang ngun ngút bốc, những con dĩn quái ác lại bâu đầy mặt, đầy người. Và lại những phát súng, những viên đạn của nghĩa quân sẽ nhằm mình nổ không còn biết lúc nào và ở đâu!!!

Lạy Chúa trị vì trên nước thiên đàng! Xin Chúa lấy quyền, lấy phép của Người làm một trận mưa tuyết, bão tuyết xuống cái đất rừng núi gớm ghiếc hơn cả luyện ngục này, để nếu chúng con có bị chết cóng trong đêm nay hay ngày mai cũng được. Nhất là nếu chúng con có bị bệnh sưng phổi hay bại liệt mà được đi nằm nhà thương rồi bị phú la căng về Pháp thì thật là đầy ơn, đầy phúc cho những kẻ tội lỗi là chúng con vậy!

Tối mịt. Càng về khuya càng đứng gió. Sao chi chít như cát lửa sa mạc, như kính vụn, như thủy tinh đóng vầng trên bầu trời chụp dần xuống mặt đất. Xa xa trong kia, ở cả các làng, các cánh rừng, các lũng đồi núi ngay chung quanh đấy, tiếng tù và vẫn rúc, tiếng trống mõ vẫn đánh.

Mọi người như đang trong cơn sốt, cơn mê, kẻ mệt thiếp, kẻ chập chờn, kẻ rã rượi, thì kèn "ô-giác-mờ" đã nổi. Tất cả choáng choàng súng đạn, xẻng cuốc va vập túi bụi.

Đằng đông đã hừng hừng. Tiếng súng cứu viện dồn dồn gần lắm. Lính Tây nhiều đứa chưa kịp xốc lại thắt lưng bao da, thắt lại dây giày đã phải nằm dúi, nằm dị và đâm bổ đến chúi ở các gốc cây để lại tránh đạn của nghĩa quân và tìm cách bắn trả lại.

Viên quan tư lại gầm lên bảo gọi Tôm-he ra lệnh mới. Tôm-he vừa vọt qua một bụi cây, chạy đến một toán lính thì trời đất tối rầm, hắn kêu rú, vật ngửa xuống mô đá mà lẽ ra, một giây sau hắn sẽ làm chỗ đứng để chỉ huy. Hai viên đạn đã xuyên qua đầu và giữa sống mũi hắn.

Viên quan tư đã phải nhìn theo từng diễn biến, từ lúc Tôm-he đứng nghiêm nhận lệnh xong, chạy xuống với bọn lính, chưa kịp cất tiếng truyền gọi tên đội nhất thì đã bị trúng đạn, lảo đảo không kịp vuốt máu mặt, ngã tung cả súng đi.

- Khiêng ngay, bằng bất cứ giá nào phải khiêng ngay đến nhà thuốc ban chỉ huy...

Viên quan tư hét lên, nhưng không dám rời khỏi gốc cây dẻ to lòa xòa để đến chỗ Tôm-he. Hai tên lính và một tên cai Tây phải lột tấm chăn dạ đỏ lót yên ngựa của quan tư, đặt Tôm-he nằm, lệch xệch khiêng lại cho quan tư xem xét. Khi mở chăn ra, một vật gì trắng trắng lòng thòng ở túi ngực áo trong Tôm-he vương ra. Tên lính đầu trọc, da đỏ như da gà chọi, vô tình vội rút xem. Một khăn tay?... Không phải! Một áo lót? Không phải! Một áo trẻ sơ sinh, một vuông quấn rốn? Càng không phải! Một cái yếm! Phải! Đúng là một cái yếm cổ dây bằng vải hoa dâu có cái kim băng một mẩu ảnh Đức Mẹ bế Chúa hài đồng. Cái yếm của Mận mới khâu. Tên lính giơ ra, phẩy phẩy. Một mùi thơm rất lạ mà không thứ nước hoa nào của bên Tây như thế. Cái mùi thơm ngai ngái, quái quỷ như là của rễ cây, của lá lẩu hay của hạch một con thú, lựng lên. Tên lính đầu trọc bất giác nâng lên mũi hít hít cả cái yếm và mẫu ảnh, thì liền bị cả một mũi xẻng viên quan tư phạt xuống đầu với một tiếng rú.

- Đức Chúa Trời ơi! Những con lợn này phải mau mau chóng chóng tống cổ ra hết hàng quân của tôi, không thì tôi sẽ mang những dấu chàm đời đời trên trán tôi vì chúng!

⚝ ⚝ ⚝

Tướng Gồ càng lặng lẽ. Mũi gậy đồng càng như bâm sâu thêm xuống đất. Rời khỏi quả đồi Cao Thượng, từ đỉnh trông ra các nơi thấy phong cảnh trời mây, đồi bãi, rừng núi, đồng ruộng, làng mạc gần xa sao mà đẹp, nhưng vừa phải qua một trận đánh thật là quá thể lạ lùng trong đời chinh phạt của y, tướng Gồ, cứ thấy mỗi bước lại xóc thêm tâm trí. Vì tất cả những sức tàn phá của lửa đạn chừng như có thể làm trời tan đất sập của quân lính của y, đã chỉ để lại những gốc cây gãy cháy nham nhở, những lỗ, những hố, những đống đất lổn nhổn, bừa bãi. Nham nhở, lổn nhổn, bừa bãi; hiện thân kết quả của cuộc hành binh mà hắn đã đốc chiến!

Trái lại, sự sắp xếp rất rành mạch, cặn kẽ của sự ngẫm nghĩ, tính toán về cách chống cự, nhất là về tinh thần của nghĩa quân với những tướng lĩnh của họ, lại càng thành hẳn chữ, thành hẳn dòng, thành câu, thành trang trong đầu óc Gồ.

- Làm sao ở một quả đồi bị bao vây đón chặn bởi một hỏa lực dữ dội đến như thế mà đối phương đã chống trả không những không bị áp đảo, thiệt hại, mà lại làm cho bên kia choáng váng, gân cốt bã bời và bị chết nhiều như thế?!!!

Bởi vậy khi cho người đi thám sát các ngả đường của nghĩa quân rút lên phía trên rồi hạ lệnh cho quân Tây đuổi đánh, cũng như khi tiến tới gần Nhã Nam để giải nguy cho cánh Tôm-he đánh vòng đường Luộc Hạ, tướng Gồ đều nghiêm khắc nhắc lại binh sĩ sự thận trọng và tinh thần tiến công. Nhưng cũng bởi vậy, khi thấy tên hạ sĩ quan phi ngựa về báo tin quan hai Tôm-he tử trận, rồi lúc sau thấy tốp lính khiêng cáng súng cắm lưỡi lê đi hộ tống xác Tôm-he về bản doanh mình, thì tướng Gồ phút chốc lạnh buốt cả đầu óc.

Cái cáng phủ chăn đỏ rùng rình, phút chốc biến hiện như một thứ nhà táng máu đã đóng khô chuyển đến chỗ hắn. Đứng trước đám sĩ quan giơ tay cúi đầu lặng im buồn thảm, tướng Gồ bước những bước rất chậm, cũng giơ tay, đầu cúi cúi, đến đón xác Tôm-he. Khi bốn tên lính hạ cáng xuống cho tướng Gồ lật lớp chăn phủ xác lên, cúi mắt kính xuống nhìn mặt Tôm-he mà làm dấu thánh giá, thì tất cả những trang, những câu, những dòng, những chữ mà Gỗ ngẫm nghĩ, tính toán để sẽ viết thành báo cáo và thành ký ức sau này thành các bài báo và thành sách kia vụt lộn xộn, xám mờ, xám xịt đi.

Đúng Tôm-he! Một trăm phần trăm là thằng Tôm-he hai mươi lăm năm trước đây, tóc húi ngắn, trán dô, đeo cặp sách đi giữa vùng nho chín cùng thằng con của Gồ đi học về, nghe tin có đoàn quân qua phố, liền hộc tốc chạy đi đón xem. Thấy đúng là bố mình, là bố của thằng bạn nhà cùng cánh đồng với mình, đang ruổi ngựa, cả hai đứa liền đuổi theo vẫy gọi. Nhưng đang dẫn đầu đoàn kỵ binh, Gồ lạnh lùng như không hay biết gì cả!

Năm ấy Gồ mới là trung úy...

Đúng Tôm-he! Nhưng lại một trăm phần trăm không còn là bé Tôm-he của xứ Pờ-rô-văng-xơ quê Gồ nữa.

Mà là một xác chết, mặt mày nhăn rít, tóc xõa bết máu khô xác, một bên thái dương và giữa sống mũi sâu hoắm, máu vẫn ri rỉ.

Sao mà quái gở! Sao mà quái gở thế này? Một mùi thơm gì mà nồng nặc ghê rợn thế này? Mà sao lại có một mẫu ảnh Đức Mẹ bồng Chúa hài đồng cài kim băng bên mé ngực áo chỗ cái mề đay của nó, Tôm-he, thế này?!!