Chương VIII
Mặc dầu đã sắp xếp cả buổi tối, vậy mà khi gà gáy chưa dứt lần thứ hai, bà cụ Đồ Mốc đã xuống bếp để làm hàng bán cho nghĩa quân ăn sáng. Ba buổi nay, bà cụ thôi không thổi xôi nấu chè mà chỉ luộc khoai, bung ngô và nấu nước. Cả khoai sọ, khoai lang và ngô bung đều có thứ chấm, thứ rắc ăn tùy ý khách. Đỗ lạc rang với muối giã nhỏ, rắc vào ngô bung hay chấm ăn cùng khoai lang Lim bở tơi; khoai sọ cắn quánh răng... Có khách bảo như thế đến bánh khảo, bánh nướng, bánh cao lâu cũng không ngon hơn, mà có thể ăn trừ bữa được. Còn nước là lá vối phơi khô, ủ với hương nhu, nấu hãm trong vò với gạo rang hơi cháy, ai muốn uống đặc để giải nhiệt thì không pha, ai háo muốn uống loãng thì chỉ thêm nước mưa, nhưng hầu hết đều uống đặc, coi như uống nước thuốc canh đặc mà các gái đẻ thường nghiện để chữa ho hen hậu sản.
À! Còn món này nữa: kẹo bột và đường phên. Kẹo bà cụ phải cất của mấy nhà bên Bố Hạ nấu với mật mía. Đường phên cũng đổ thành từng miếng to bằng hai ngón tay, bao giờ cũng khô giòn, cầm ăn có lá chuối khô lót tay.
Trời hửng sáng, bà cụ cất gánh. Một bên vò nước, bát, gáo, khăn lau. Một bên thúng khoai và mẹt kẹo, đường. Cái điếu cày và mùn rơm cài bên quang vò nước. Tuy cả bác Ngọ, bác Tần, mẹ cu Trọng, bà cụ Bờ trông thằng cu nhà cai Cừ và bà chủ nhà nói mãi không được, đã phát khóc lên, nhưng bà cụ Đồ vẫn để sẵn một rổ khoai và chục cái kẹo cho trẻ nhỏ ở trên nóc chạn, đậy rá lên.
Từ xóm trong ra Hố Chuối, phải qua một đường vòng sau làng rồi lên dốc qua hai quả đồi và hai bãi rậm sim, mua. Nhiều buổi, bà cụ Đồ Mốc chỉ ra khỏi nhà, đến ngõ ngoài thì có ngay các con gái, các bà, các bác nhận là u, là bà gánh cho. Người đi chợ Nhã Nam, kẻ đi chợ Cầu Gồ nào dù đang gánh nhiều thứ cũng bảo nhau thu xếp để mình đưa bà cụ tới bãi bán hàng. Có buổi, mấy người nghĩa quân ở trong làng vẫn vác súng hay chống gậy, xẻng cuốc, tong tong gánh hàng của bà cụ, cười đùa với nhau rằng không dám lập công cán để ăn chịu quà mà chỉ xin u bát nước hậu sản với mấy mồi thuốc lào của dưới quê u...
Những tiếng cuốc đất, chặt cây, đóng cọc, kéo gỗ, róc tre nứa rầm rập... Một bước, một bước thêm rõ, thêm vui. Bà cụ Đồ Mốc vẫn dọn hàng dưới gốc cây bàng không hiểu ai trồng hay gió mưa, hay nước lũ nào cuốn dạt vào mà lại mọc lên ở bãi này vừa cao, vừa nhiều cành, nhiều chạc, nhiều mấu y như một thứ cổ thụ ở cửa đình, cửa chùa, cổng chợ, cổng làng dưới xuôi. Rễ cây ăn trồi lên mặt đất to đẫy, xù xì như sống lưng trâu, như những con cá sấu, và lại còn nhiều biếu to hơn cối đá, hai người ngồi vẫn thoải mái. Tuy vậy chung quanh gốc cây và la liệt dưới bóng những tàu lá, vẫn còn đủ các thứ gộc gạc tre gỗ và gạch đá làm ghế ngồi.
Mấy đám nghĩa quân đến sớm, đào đắp được nhiều rồi, đã thấy thèm hút thuốc, thèm uống nước.
- Các cậu này! Bọn Nam Hạ lại đến hàng bà cụ rồi kìa!
- Chúng nó thì chỉ chiều mai hay sáng ngày kia là xong vọng gác mé Hữu Thượng đấy!
- Chả thế mà cơm sáng no nứt rốn ra, mỗi thằng còn đánh hàng nửa rổ khoai sọ của bà cụ.
- Này tớ nghe nói, cánh thợ xẻ quê dưới ấy ăn lại còn tợn hơn cánh Thùng Đấu. Cơm trưa xong, nhà chủ luộc một xề khoai, vậy mà một cặp cưa vẫn làm gọn với một niêu tôm bống kho tương.
- Ối giời! Khoai đỗ mà ăn với tôm trứng kho tương thì chả cứ dân Nam Hạ.
- Thôi tán mãi, chuyển thêm mấy sảo đấy lên đây để tớ lèn nào.
Giữa một khung gỗ ván dài hơn hai thước, rộng hơn một thước, những sảo đất sỏi son đổ vào rào rào nhưng vẫn chỉ kịp cho những chày vồ nện xuống thình thịch. Thứ đất này đã nhào nhuyễn rất quánh, lại còn có những bắp tay thợ đất giã những nhịp chày, vồ chắc nịch, nên ngay khi lên mỗi khuôn tường xong thì có thể chấp các thứ súng, kể cả súng đại bác đã đánh Tỉnh Đạo và Cao Thượng. Nếu tường thành lại "trình" hai khuôn kép và được nắng.
- Thế thì ta xong quãng đường này cũng phải nghỉ tay làm bát nước, điếu thuốc chứ.
Bọn làm trại lính càng ồn, càng vui, càng nhộn nhịp. Hầu hết những cột nhà đều bằng những cây rừng chỉ vạc qua vỏ, rồi để nguyên chạc mà gác xà ngang, quá giang, gian nào cũng rộng, đóng sạp thông suốt từ đầu đến cuối trại. Các vì kèo nếu không gác lên chạc, buộc mộng thì đục con sỏ và đóng chốt to. Tất cả đều đóng thêm hay buộc thêm vằng tre nên trông lên nóc nhà vẫn thoáng và thấy rất chắc, rất vững. Trong khu này, những tiếng đục, đẽo, cưa, xẻ, chặt cây, róc nứa, bổ tre, cuốc hố, đào rãnh đã nhộn nhịp lại còn thêm đủ cả giọng hát, xẩm xoan, quan họ, tuồng, chèo và cả chầu văn, tụng kinh niệm Phật...
Bụi đất cát, tre gỗ và khói thuốc lào ở nhiều khoảng mù mịt. Ngoài bãi đã nắng gắt, mà trong này dưới những tầng tầng, lớp lớp vầng lá của khu toàn những cây cao vẫn râm mát, và có chỗ chỉ thấy lốm đốm lấp loáng ánh mặt trời khi có gió thổi mạnh rồi thì âm âm mờ mờ như dưới một lòng suối sâu.
Trong khi ấy ở lán của cánh quân Thám đóng giữa cụm rừng phía bắc Hố Chuối lại vắng lặng quá. Chỉ có hai nghhĩa quân ốm sốt nặng nằm, vừa nghỉ ngơi, vừa gác lán và một người làm cơm trưa dưới bếp. Đầu cạo trọc, chẳng khăn nón gì cả, áo cánh cụt tay, khăn mặt bằng hai vuông nâu xấp nước vắt vai, quần ngắn hũn như quần đùi hay quần dài rách quá cắt bớt ống để vá để đụp: bác Ngọ gái.
Cái bếp đất đắp bắc hai vạc to, một xào thịt, rang thịt và nấu canh. Cạnh đấy là bếp đầu rau bằng ba tảng đá, đặt một nồi ba mươi nước vối. Hai vại nước giếng lúc nào cũng đầy dàn để ai về uống thì uống, ai pha thì pha, ai súc miệng hay ngốt quá rửa mặt cũng được. Hôm nay ở trại to không mổ lợn. Nhân ngày phiên chợ tỉnh, mấy bữa nay nóng bức, anh em thèm rau, nên bác Ngọ gái chỉ mua có mươi cân thịt, còn bao nhiêu tiền mua hết cua, bí, mướp, rau đay, rau mùng tơi. Thấy có hàng đậu phụ quen, mời mua cứ véo vỏn, bác Ngọ bèn lấy chịu tất cả thúng hàng để kho với thịt ăn làm hai bữa.
Bốn giỏ cua đấy, toàn cua kềnh, sợ để đến chiều mới làm ôi mất, bác Ngọ gái về đến nhà rửa thịt, thái xong ướp muối, nhặt rau, xé cua giã, khêu gạch, nấu canh ngay. Chấm chấm cặp mắt bị mồ hôi rớt vào mặn xót, bác Ngọ gái trông sang bãi đồn, thấy nghĩa quân cứ tuôn ra đông nghịt, và đông nhất vẫn là cánh nhà mình. Bác Ngọ kêu giời:
- Thế kia thì đến bà cụ Đồ làm hàng cũng không kịp mất! Bữa sáng mai đến phải thổi thêm một hai thúng khoai sọ cho những thằng bụng cao, dạ dốc, miệng đường đê nhà mình ăn thêm...
Nồi nước vối đã dào. Bác Ngọ lấy cái gáo đồng vợi ra những cái báng để nguội. Vạc canh cũng sủi sủi. Những vụn cua cuộn cuộn nổi lên rồi đóng thành những tảng trên những lớp rau. Bác Ngọ thổi thổi, nếm lần nữa thấy vẫn nhạt, nhưng nhất định không dám chế thêm muối, sợ mình ăn trầu quen mặn muội vả lại anh em ăn canh như thế có chan nhiều hay húp vã cũng được.
Mặt trời đã chiếu xuống chỗ bá Ngọ chia thức ăn. Tiếng anh em ồn ồn trở về. Nhiều người xộc ngay đến đổ nước ra ống đựng của mình, uống lấy uống để và cứ giữ khư khư lấy báng nước. Nhiều người chạy lại xúm xít xem các nong thịt.
- Ối lêu ơi, hôm nay trên kho phát thêm cho bao nhiêu mà đã canh cua, đã thịt lại đậu thế này?
- Đậu! Đúng là đậu của mẹ đĩ dưới Sặt này!
Người nói này, nhón luôn một miếng, nhai tòm tọp. Một người khác cũng nhón ăn và nói như tru tréo:
- Ối giời ơi là giời! U tôi định xin cái đĩ cho thằng dái Nghẹ hay sao mà chia cho mâm lão ta nhiều nhiều thế này?
Bác Ngọ gái vứt ngay cái gáo đồng múc canh xuống chõng, nhôm nhổm xỉa xói:
- Này thì tao nói ngay với ông Thống, ông Bá để tao về nhà thôi, chứ chẳng ở đây với chúng mày làm u, làm bá gì hết! U gì... U em u già... bá gì, bá bõ bá thập ấy à!
- Thôi con lạy u! Để con cho thằng này một thanh củi vào cái mồm nó. U mà là đàn ông ngày xưa thì cũng làm như Trần Bính đời nhà Hán ấy!
Tiếng cười như phá. Bá Ngọ bặm miệng lại để nhịn cười, mặt càng tía rịa, lại xỉa xói:
- Lại thằng nào kia, nếm gì mà nếm hết nửa gáo canh rồi! Cút xéo đi ngay để người ta chế nốt màu vào canh nào.
Một nghĩa quân có làm ra giọng người lớn:
- Trần Bình, Trần Bò nào không biết, chứ cái mắt, cái tay của bá dái ta thì cân tiểu ly của các hiệu vàng, hiệu thuốc bắc cũng không bằng. Thế mà có thằng không hiểu sắp phát rồ, cái hôm mổ lợn, phạt mộc sợ nhà bếp đông tây tư vị, dám tự tiện cắm lại lung tung thẻ các mâm thức ăn thì đã chẳng thấy sự hơn kém gì mà lại làm khổ anh em, may có bác Thám nói với bá dái, không thì cả cánh này đến khốn khổ vì đi chợ và thổi nấu lấy ăn... Rồi đây xây xong đồn, thế nào quan Đề Nắm chả lấy bá làm quản kho cho cả đồn!
- Bá ơi, kìa nó nịnh bá như thế bá phải chia thêm cho mâm nó mấy miếng thịt, miếng đậu chứ!
Bác Ngọ gái làm như không nghe thấy gì cả, đổ xong canh vào báng cuối cùng, để vạc còn lại đến ba bốn gáo thừa, liền phất cánh tay cầm gáo lên như hạ lệnh:
- Thôi, xéo, xéo hết cả đi lấy thịt lấy canh mà hốc... mà hốc...
- U ơi! U ơi! Thế chỗ canh còn trong vạc kia, u cho mâm con nhé.
- U ơi! U ơi! Mâm con chứ!
- Mâm thập tứ chúng tao đấy! Úi lêu... đừng hòng! Thằng Nghẹ Cõn sắp về làm rể xóm tao đấy. Canh là của u cho mâm thập tứ chúng tao!
Tiếng òa òa như ong, như thác. Bác Ngọ gái lại bặm miệng như cười, lấy cái nón gủ đã rách vừa quạt, vừa xua, vừa mắng.
Phần cơm bữa nay của bác lại chỉ có một phạng cháo, mấy miếng cà bát muối tương dầm ớt tỏi, không có thịt đậu gì cả! Và một ống canh rồi ra bác cũng không ăn mà lại cho cả mấy chúng nó thôi.
⚝ ⚝ ⚝
Đề Nắm bưng bát thuốc uống xong, cầm cái khăn của người lính hầu đưa lau miệng, gấp lại đặt vào khay không chiêu nước súc miệng, nói ngay:
- Thôi nhé, ta uống nước thuốc này thì thôi nhé. Trưa nay cho ta ăn cơm của bếp nhà Ngọ gái! Nghe nói nó mua cua và mùng tơi rau đay về nấu canh. Đừng dọn thịt cá ninh nấu gì cho ta. Lấy cho ta miếng cà bát... À à... nhớ cho ta một quả chanh và muối ớt.
- Bẩm quan Đề, cụ lang bảo chúng con hôm nay hầm nốt chỗ cao để quan Đề...
- Được! Được! Nhưng cứ dọn cơm, canh cua, cà cho ta.
- Bẩm quan Đề... ra sân...
- Ừ ta ra sân, nhưng mặc ta. À! Hai người xuống đồn bảo quan Thống Lệnh, quan Đề Sặt chốc nữa thì lên rồi cùng ta đi xem công việc ở mặt Bắc và mặt Đông. Bọn dưới Nam Hạ làm như thế thì giỏi quá!
Bước xuống đất, chống tay vào mép phản rồi giơ lên vuốt vuốt lại mái tóc, thấy không còn đau mà chỉ hơi vướng vướng, ngượng ngượng, Đề Nắm gật gật:
- Thế này thì không những ta lại bắn được súng, mà còn khoa được cả Long đao hay Đại phủ!...
Nắng như đổ lửa xuống ngọn đồi sau trại. Một đám mây trắng dày bồng bồng tan ra dưới vầng mặt trời chói rọi. Cả mấy đồi núi chung quanh Hố Chuối đều ngun ngút hơi nước, còn khu Hố Chuối thì ngập hẳn giữa mấy khu rừng, không thể thấy một dấu tích gì của đồn trại đang mở mang, đang xây dựng.
- Bẩm quan Đề... quan cho gọi có việc.
Đề Nắm để hẳn Thám đến bậc thềm mới lên tiếng:
- Chỗ Thám đốc công, chiều mai là xong hả?!! Vậy chứ cai Cừ sốt đã đỡ chưa? Nước Yên Thế thì phía dưới này cũng nhẹ mà! Cai Cừ ốm nặng có lẽ vì vẫn nhớ nước rừng đước, rừng tràm trong Nam đấy!
- Bẩm quan Đề, bác Cừ cháu nóng sốt vì ngã nước chỉ là một phần thôi. Cái căn bệnh lại là thấp khớp, cả đầu gối, khuỷu tay lại sưng, ống chân và sống lưng lại nhói buốt. Bác cháu bảo cái mưa, cái nắng ngoài ta khác hẳn cái mưa, cái nắng trong ấy.
Đề Nắm cau cau đôi mày:
- Vậy thì ta còn lạng cao hổ cốt đây, Cai Cừ uống được rượu thì lấy mà ngâm. À... mà hôm nay trên trại vẫn hầm cao cho ta, ta định để chiều mát mới ăn, thôi ta bảo lính đưa xuống cho cai Cừ thế tốt hơn...
- Dạ... đa tạ quan Đề..., quan Đề đối xử với nghĩa quân thật là chí tình...
Chợt Đề Nắm lắng hẳn nét mặt, nghiêng nghiêng đầu nghe. Thám cũng chăm chắm trông theo, nghe theo.
Ra oai xuống lệnh vừa xong
Bỗng nghe ngoài đã ầm ầm pháo ran
Tiên cừu nổi giận xung quan
Quyết rằng chẳng để chi đoàn chó dê
Lửa phun súng phát bốn bề...
- Nhà ai lại làm bên kia đồi, mà ai ru cháu vậy?
Đề Nắm gật gật đầu hỏi. Thám không thể không nghẹn ngào trong dạ:
- Thưa quan Đề nhà bá Bình ạ. Còn bà cụ ru là bà cụ... mẹ nuôi.
- Mẹ nuôi nhà Bình à? Sao đến bây giờ ta mới nghe nói.
- Thưa quan Đề, trước là bà cụ ở bên nhà con, chăm nom cho thằng cu nhà bác cai Cừ. Ngày bác Ngọ giai chết trận bên Hà Nội thì bà cụ sang ở với bác gái, rồi mời sang ở với bá Bình.
- Bà cụ người đâu ta? Có con cháu gì không mà đi ở như vậy?
- Bẩm, bà cụ người bên xứ Đoài, phải cái tội mắt mũi không còn. Con cái chết sớm, để lại độc thằng cháu nội, phải năm đói kém quá, theo người làng làm thợ mộc về Kẻ Chợ kiếm ăn, gặp lúc Tây sang, liền đi theo quân ta đánh cái trận hạ được Ngạc Nhe ở Cầu Giấy, và bị Tây bắn chết, chôn cùng mấy người nữa trong làng... Bà cụ phải đi hát rong, gặp chúng con chạy đói năm xưa ngủ đỡ nhà bà thì theo sang đây.
Bắn ra nghe chết cũng nhiều
Phố phường trông thấy tiếng reo ầm ầm
Quan quân đắc chí bình tâm...
Tiếng ru càng văng vẳng. Bên kia, bà cụ Bờ bế xốc thằng bé lên, đi đi lại lại, ra hẳn chỗ đám cây gió đang thổi về. Đề Nắm bước bước nữa, xuống bậc đá đầu hàng hiên để nghe, để trông cho rõ hơn.
- Thám à! Cả ba vọng gác mặt Bắc, mặt Nam, mặt Đông đều sắp xong?
- Bẩm sắp xong cả ạ.
- Ông cai Cừ và Thám vẫn thay nhau đôn đốc ở mặt Bắc?
- Vâng ạ.
- Thế thì ta yên tâm lắm. Cửa "sinh" của Hố Chuối ta đấy! Còn hào lũy, tường thành và cổng chính các quan đề, quan thống, quan đốc trông coi, Thám thấy thế nào?
- Bẩm... nghĩa quân cũng đào đắp, rào rấp rất cẩn thận. Bọn nào cũng có người Nam Hạ làm nên công việc càng chạy, càng chu đáo, làm cho các anh em trên ta...
- Khó theo kịp dân Nam Hạ lắm! À... mà kho quân lương có lo việc ăn uống tốt không đấy? Phải ăn nên mới làm ra Thám à. Nhất là những công việc thổ mộc. Thế ở bếp bác Ngọ gái có thêm người đỡ chân đỡ tay không?
- Thưa quan Đề, bác vẫn không chịu nhận ai làm giúp, bảo thêm người chỉ thêm bận, thêm vướng. Từ mồng một đến nay, càng nắng bức, con cá lá rau chợ búa khan hiếm thế mà ở bếp bác vẫn đủ cơm dẻo canh ngọt, nghĩa quân nào đi làm về ăn uống ai cũng vừa ý, bảo với nhau, ngay đến ở nhà mình gần sông, gần bến, gần chợ cũng không thể nào chăm nom được hai bữa ăn như vậy.
Đề Nắm càng tươi nét mặt:
- Đồn ta sắp xong, mà xong rồi thì thế nào Tây cũng lên đánh Yên Thế, quan quân sẽ đông hơn, súng trái phá, đạn dược sẽ nhiều hơn, vây hãm ta lâu hơn, chặt chẽ hơn, thì liệu Yên Thế ta có giữ được đồn, có chống lại được không... Thám à?!!
Gương mặt Thám càng đanh nét, nhất là cặp mắt voi. Cặp mắt ấy nhìn mà như không nhìn người chủ tướng, vẫn lạnh lùng đăm đắm với một vẻ tự tin vô cùng:
- Bẩm quan Đề, giữ được đồn, chống được quân Tây, đó phải là điều thể tất. Nhưng thành đá cũng không bằng dạ người.
- Thám! Thám! Thám nói sao? Thành đá không bằng dạ người! Ha ha... Ha ha...
Đề Nắm thầm kêu lên, lặng người hồi lâu.
⚝ ⚝ ⚝
Những cây mít của mấy nhà gần đồn Hố Chuối sao mà nhiều quả. Mỗi gốc phải từ ba chục đến năm chục quả là thường. Cành nào, chạc nào cũng lổn nhổn những quả to, quả nhỏ. Trong vườn, ngoài ngõ, đầu nhà, giữa sân đâu cũng có mít, thấy mít. Mấy xóm nghĩa quân người Hà Nam, Nam Định đóng ở làng Lèo, làng Mạc, cây quả lại càng to, càng sai. Có những cây quả trễ sát mặt đất, rồi cứ từng tấc, từng thước một từ gốc lên các cành tới ngọn, quả mọc đùm đùm, đếm cứ lẫn. Những cây lâu năm, thấp, um tùm, rễ nổi lằn thành mô, thành bực chung quanh gốc, hay ít năm hơn, nhưng cao vọt, đều đầy quả, lợn con, trẻ lên ba, lên bốn cũng dũi, cũng húc, cũng với được. Chỉ mới lác đác có quả chín mà mùi mít đã thơm nức; ngồi ở sân nhà này cũng thấy mùi mít ở sân nhà kia; đi vào đầu ngõ hay ra ngoài bụi tre đều không thể không dừng chân, ngẩng đầu vì mùi mít ngào ngạt.
Những quả chín đầu tiên ở nhà chủ nào cũng có trẻ con vỗ, đòi bố mẹ bổ "mời các chú nghĩa quân ăn". Một hôm, hai hôm, ba, bốn hôm sau, nắng to, mít to, mít bé, mít dai, mít mật thi nhau chín, nghĩa quân và gia đình nhà chủ ăn mít không còn vào lúc nào, giờ nào, không còn biết mình no cơm hay no mít. Vỏ mít, xơ mít, hột mít không những đầy sân, đầy bếp mà đầy ngõ, đầy vườn. Trưa nắng, đêm giăng, sáng sớm, mùi mít với hương hoa cau, hoa lý đúng là làm điếc mũi! Nhiều chuồng, cả những lợn sề phàm ăn nhất, đến những lợn hạch dữ như lợn rừng, đã chê cám vì phải ăn đến bỏ mứa những chậu "cám" sánh như bột, ngọt như chè nấu bằng... xơ cái và hột mít, hầm nhừ, bóp kỹ, mà đòi ăn rau lang, rau muống sống...
Ở nhà ông chủ Hai Vá có một vườn mít gọi là Trại Mít, cánh nghĩa quân Ngọc Thiện và thợ Thùng Đấu người Nam Định bữa nay chuyện trò càng vui. Vá nấu cơm cho anh em, bà mẹ Vá chuyên việc nước uống. Chè của xóm, không nấu mà hãm trong một cái vò ủ bao tải, nước cứ xanh và thơm ngát như ướp hoa mộc, hoa nhài, hoa sói. Anh em rít những mồi thuốc lào xong, cứ chiêu từng bát vại nước chè...
- Bác Vá này, chuyện mít rụng chết lợn ấy như thế nào nhỉ? - Một nghĩa quân đứng tuổi, lay lay Hai Vá, giục. Hai Vá "à" lên một tiếng như chợt nhớ:
- Ấy, bữa ấy mà không có tôi thì đến xảy ra án mạng. Chả là hai nhà ấy vẫn cứ hiềm với nhau vì việc vườn ngõ, bụi chuối, bụi tre. Thế mà con lợn dãu của nhà bên này đang ăn đang lớn bỗng lăn ra chết ở ngay vườn nhà bên kia. Tôi đang ghế cơm thì nghe thấy đánh "huỵch", một quả mít của nhà bên kia rụng, và một tiếng gì kêu đánh "chóe". Lúc sau, trẻ con ồn ồn ngoài ngõ: lợn nhà ai chết, có lợn nhà ai chết ngay bờ rãnh. Lập tức, các nhà đổ ra đi tìm, đi xem, đi nhận. Rồi thì tiếng nhà bên này tru tréo, "Nó đánh chết lợn nhà tôi rồi!", "Nó lấy thanh củi hay chày vồ, dao búa gì đánh giập đầu lợn nhà tôi rồi!". Thế là ồn ồn lên. Hỏi đứa trẻ con nào trông thấy lợn chết trước nhất, và có biết ai đánh không thì mấy đứa cùng bảo lợn ở trong vườn nhà bên kia chạy ra rãnh, xiên xọ rồi lăn ra chết ngay ở rãnh ấy!... Tất cả nhà bên này bổ hết cả sang sân sang vườn nhà bên kia, càng tru tréo ầm ĩ. Hỏng rồi! Hỏng rồi! Tôi phải bỏ vạc cơm, hai tay giữ vợ chồng nhà bác bên này lại. Và cố nói cho thật rành rẽ, minh bạch: Không! Không ai đánh cả! Không có ai đánh lợn nhà ta cả. Mít rụng, mít rụng đấy, không may lợn nhà ta sang dũi mấy quả sắp chín ở dưới gốc, bị phải một quả to trên cây chín "tụt nõ" rơi xuống đầu, mà chính tôi nghe thấy tiếng "nó" kêu đánh chóe và quả mít lăn kềnh ra đất. Hai vợ chồng bác nhà bên này, cứ giằng tay tôi đi, lôi xềnh xệch vào vườn. Úi lêu ơi! Quả mít to bằng cái chĩnh đại ấy! Và là mít dai, và chưa chín lắm, nhưng đã bị "tụt nõ" vì hai trận mưa to hôm qua, hôm kia...
Mọi người cười ran, cười bò:
- Con lợn ấy bị, đúng là "cung mệnh" của nó phải "sao mít" chiếu! Mà là mít dai, chứ như phải mít mật, mít chín nẫu thì chỉ vỡ mít mà mình có bị trúng đầu thì cũng chỉ choáng, chỉ ngất thôi.
Có người văng tục:
- Sao quả mít không giáng xuống đầu thằng lính Tây hay thằng quan một, quan hai cho ta nhỉ! Tiếc quá! Tiếc quá!
Những tiếng cười, tiếng ho sặc:
- Thế ra bữa hột mít ninh với cái sỏ, cùng xương, móng cho chó, là của bên gia chủ làm lễ "nhương sao mít" rụng, mà bác Vá nhà ta làm chứng cho thoát khỏi tai vạ anh em ta ăn chiều hôm qua đấy là lộc của bác!
- Chả là chiều hôm ấy bác còn đi đánh chén bên nhà có lợn, mà!
Bà cụ Vá vừa phần nghễnh ngãng, bên tai và trong đầu lúc nào cũng như có cối xay thóc, chỉ nghe câu được câu chăng của toán nghĩa quân, nhưng thấy họ cười nói râm ran thì cũng vui lây, bèn cúi cúi hỏi một người:
- Trên đồn lại mổ bò à?
- Cha mẹ ơi! Cứ nặng tai như bà thì Tây chết hết với chúng con. Bà à... trên đồn không mổ bò nhưng chúng con được ăn mít, ăn mít!
- Thịt thêm lợn nữa à? Lại còn thịt lợn nữa!... - Bà cụ mủm mỉm nói.
Tất cả lăn ra cười. Thấy bà mẹ Vá lại bưng cái siêu đồng định đi nấu thêm nước sôi chế vào vò chè cho anh em uống, một người thợ thùng đứng tuổi giữ tay bà cụ lại:
- Giời đất, bà không phải đun nấu gì nữa, bà đi mà nghỉ thôi!
⚝ ⚝ ⚝
Trăng lên.
Vòm trời xanh nõn như lụa, như lá sen. Trăng mùng tám làm những ngọn núi, những dải rừng ở phía Tây càng biếc, càng thăm thẳm.
Sau đồn Hố Chuối, rặng núi Yên Thế Thượng và Phổng, Mẹt tuy không chất ngất, nhưng phủ sương đêm và hơi nước bốc lại càng mịt mùng. Tất cả vùng đồi, núi, làng mạc chung quanh đồn ngun ngút, trập trùng như một vịnh biển, mà là một vịnh biển đang sóng. Ở mấy mỏm cao rìa đồn, những cây lim, cây dẻ rùng rùng gió thổi, cành lá vặn vẹo, rào rào, răng rắc. Những búi tre hoang lộng gió, cất lên, rạp xuống, các ngọn cây vật, vằng lên nhau, díu vào rồi lại gỡ ra, quá sức dữ dội.
Ở trại giữa, tướng lĩnh và người cai quản chính của các cơ ngũ đang uống nước trên những hàng chiếu trải ngoài sân. Chiếu các quan đề, quan thống, quan lãnh thì bằng mâm lá nem, các chiếu khác mâm gỗ, mâm lá. Mâm của mấy chục nghĩa quân túc trực toàn bằng lá: những lá chuối cả tàu, những lá dong rềng từng tệp.
Mít! Mít bóc múi sẵn, mít bổ quả chia đôi, chia tư. Mít bày từng bát chậu cao có ngọn. Mít chất đống các tàu lá. Và bánh đa. Những tấm to gần bằng cái sàng, rắc vừng đen, tráng dày có thể làm mâm bày các bát đĩa thức ăn.
Các quan ăn mít với bánh đa, và uống nước chè tươi, vừa chuyện các công việc, chính yếu là chọn một trong hai ngày tuần tới làm lễ mở đồn. Hôm nay mấy quan trông coi chính cùng Đề Nắm đã đi soát các mặt, các phái, đều rất lấy làm vui mừng, yên tâm, nức chí. Trong khi ấy, những cơ, những ngũ, những đội nào được giữ súng cũng như các khí giới đều luyện tập kỹ càng. Gần như không một tay súng nào lại không bắn giỏi, hay một nghĩa quân nào đánh mã tấu, đao, phạng và khi phải đánh tay vo thôi, thì cũng đều rất mạnh, rất nhanh, rất hiểm.
Còn lương thực, không kể thóc gạo, mắm muối đã nhập kho đồn ăn có thể hàng tháng, mà số tích trữ ở các trại lẻ, hay giữ ở nhà dân thì có thể tới ba tháng, nửa năm dư.
Tuy cả ngày làm lụng cũng như luyện tập thật là cật sức, vậy mà mấy trại lẻ ở trong và ngoài đồn hay ở đồi trong làng, các toán nghĩa quân cùng thợ, phu tráng vẫn không chịu đi nằm. Người lại giở súng ra lau, ra ngắm hay bảo ban cách sử dụng cho những trai tráng mới nhập ngũ hoặc lên đồn làm giúp. Người bàn bạc, hỏi han thêm các miếng, các cách đánh. Người làm những đốc gươm, cán dao, chuôi giáo. Người tỉ mỉ lấy những quả bầu, những ống bương, gáo dừa, những vỏ cây đẽo, gọt, chuốt làm các thứ đựng nước, đựng lương khô, bát ăn uống và điếu thuốc lào... Mặc dầu cơm chiều đã đánh căng rốn, mấy tay bợm rượu gửi tiền nhà bếp mua hay cất lủi mua được ở trong làng, nay lại có mít, nhất là có bánh đa, toan giở ra uống vụng với nhau, nhưng bị chính nhà bếp Hai Vá ngăn giữ và nhiều anh em mắng cho thật lực...
- Này! Này! Lên đồn mà cứ giữ cái thói ấy thì không được đâu!
Người kia cứ giơ nậm rượu và cái chén sành lên:
- Thì tớ đã xin mạn phép các anh em rồi mà!
- Phép với tắc nào! Anh em nào! Ông Thám đi qua mà thấy thì lại được vào nhà cùm đấy! - Mấy người gắt to.
- Đã bảo xin mạn phép mà! Chiều nay mới gửi mua được một bầu, tối có trăng, làm mấy chén với bánh đa rồi đi ngủ thôi mà!
- Không được! Không được thế! Lên đồn đây chứ có phải trại cơ, trại lệ, lính tráng dưới huyện, dưới tỉnh Bắc Ninh đâu! Không được thế!
- Vâng thì không được thế!...
Miệng vừa cười, vừa nói, tay cầm cái bầu nậm đưa lên... Người kia chưa kịp tợp ngụm rượu, đã bị hai bác thợ thùng đấu đứng tuổi, kẻ giật lấy nậm, kẻ túm ngực áo dúi lăn kềnh ra... Các bác bếp Vá cũng đến giằng lấy chén, lấy nậm và kéo cánh tay người kia lôi đi xềnh xệch như lôi lợn:
- Đã bảo phải đi mua giấu cho mà bác lại uống liều, uống bửa như vậy! Uống như thế thì uống nước đái còn hơn...
Cả bọn lại cười. Riêng bà cụ bác Vá không cười, chạy đến, lắc đầu:
- Cơ khổ! Chỉ tại cái thằng Vá nhà này! Nó mà còn đi chợ thậm thụt ở nhà mấy con mụ nấu rượu thì tôi phải phô với ông Thám, cũng cho nó vào nhà cùm mấy ngày...
- Ấy chết! Ấy chết bà ơi! Sao lại quýt làm cam chịu?!! Cấm bác Vá thậm thụt ở nhà mấy mụ hàng đậu, hàng rượu chợ Nhã Nam cũng được, chứ không cho cả mấy hàng rượu ngoài kia thỉnh thoảng vào làng, vào xóm các bãi trong này thì nhiều người ốm đứng hay chết khô mất!
... Bỗng mọi người nhổm lên, hỏi nhau:
- Ai lại gánh gì lên kho đồn thế kia?!!
- Có cả bà cụ Đồ Mốc đội quả gì ấy?!!
- Đúng, mấy cụ trên Thuông và ở Lèo mà!
Và đúng bác Ngọ gái gánh đỗ lạc đi đầu cùng bác Tần gánh gánh đỗ xanh. Đi sau là ba cụ bà và hai cụ ông. Bà cụ Đồ Mốc là thứ sáu đi giữa với một quả sen phủ bốn vuông lụa điều.
Tình bằng có đất Bắc Giang
Khen ai tụ nghĩa ố mấy bung bung bập bung...
Tiếng hát văng vẳng nhưng nhịp với tiếng trống cơm nên những nhạc điệu vẫn rất rõ với những lời hát thân thuộc. Một ông cụ già đầu nhọn, trọc hói, cởi trần, mặc một quần sồi nhuộm thâm, thắt lưng điều bỏ múi bên hông, vừa đi vừa đánh trống, vừa nhảy, vừa múa, vừa hát ở ngoài hàng các cụ, lúc đi song song với hai gánh đỗ, lúc tách hẳn ra, tiến mấy bước, lùi xuống cũng mấy bước, rồi vòng quanh đằng sau các cụ mà đi lên.
Thoáng chốc, không ai bảo ai, không đám nào nói với đám nào, mà cả mấy đám ở trại ngoài đồn và các đồi đi lên cứ túa ra, từng lũ đuổi theo. Có đám có một, có đám hai ba, có đám ba bốn nghĩa quân cùng nhảy hát theo. Đám của bác Vá thì chỉ trừ mấy người Nam Định, Hà Nam, còn tất cả đều bắt giọng và hát bằng lời chính:
Tình bằng có cái trống cơm
Khen ai khéo vỗ ố mấy bung bung bập bung
Một bầy tang tình con nít
Ố mấy lội sông đi tìm...
Một nghĩa quân của Đội Vinh trong cánh đi lên trước vội cất tiếng:
- Không! Không... Theo cụ Trọc, hát theo cụ Trọc hát cơ.
Tình bằng có đất Bắc Giang
Khen ai tụ nghĩa ố mấy bung bung bập bung
Một bầy tang tình sĩ tốt ố mấy lội sông đi tìm
Em nhớ thương ai đôi con mắt ố mới lim dim...
Cả những người đứng tuổi, cả những trai tráng, cả bác Hai Vá, và cả những người không biết hát cũng hát theo. Nhiều người cũng ngả ngả đầu, dang dang cánh tay, lim dim mắt và cũng cười cười.
Ở cổng đồn liền nổi lên ba tiếng trống. Đốc canh không để dứt tiếng, cho một nghĩa quân chạy lên các quan báo tin có dân sự. Đề Nắm ngẩng trông ngay khi thấy tiếng trống. Không chờ người lính canh hết câu, ông nghiêm giọng hỏi ngay:
- Dân ở đâu mà có việc gì vậy?
Tất cả các thống lãnh đều có vẻ chờ đợi. Nghĩa quân nọ càng trịnh trọng:
- Bẩm quan Đề... dân trên Thuông và dân làng Lèo ạ. Các cụ lại... lại cho người gánh đồ lễ lên...
Thống Sặt cau cau mặt:
- Dân trên Thuông và cả dân làng Lèo à? Đồ lễ gì?
Bá Phức nheo nheo mắt cười:
- Mở cổng mời các cụ vào thôi... nhưng vẫn phải để ý xem xét các gánh đấy!
Nghĩa quân hớn hở, không giấu nổi vẻ cảm động:
- Bẩm... bẩm... có cả cụ Đồ... bà cụ Đồ đội lễ đi theo ạ... mà hai gánh, thì bác Ngọ trên đồn ta gánh một, bác Tần gánh một.
Ngồi phía tay hữu Đề Nắm, Thám nhíu nhíu trán:
- Tháng trước đã làm hai cái giỗ, đầu tháng này lại cho cánh nhà bếp Bắc Ninh một bên khoai sọ, nay bà cụ Đồ lại còn cho cả đồn thứ gì kia nữa. Cụ ơi! Cụ ơi!...
Nghĩa quân canh cổng để từng cụ, từng gánh lần lượt qua ván mặt hào và qua cổng. Mặc dầu biết đích toàn là những thứ không thể nào là của "phi", của "gian", cả đốc canh và lính đều xem xét rất kỹ hai gánh đỗ vừa cười nói rất vui vẻ, trân trọng:
- Giống lạc đỏ mẩy ơi là mẩy! Lạc này làm kẹo với mật mía hay nấu bánh chè lam ngày Tết...
- Đỗ xanh cũng đẹp như Kiều ấy!
Họ sục tay xuống đáy thúng, rê lên từng vốc mà khen nức nở. Duy có quả sơn bà cụ Đồ đội trên đầu hạ xuống bưng hai tay thì không ai động đến vì có một buồng cau, một gói chè gói giấy hồng điều và một bánh pháo cối phủ lụa đỏ có lẽ phải gửi mua của hiệu khách ở Hà Nội hay đặt mua của làng Bình Đà, làm ai trông cũng thấy trong người bồi hồi kính cẩn thế nào ấy...
Tự đốc canh đưa các cụ vào. Đề Nắm đứng lên trước nhất, đi ra bực thềm chắp tay vái đón:
- Chào các cụ! Các cụ lại cho đồn những quà gì thế kia? Quả gì của cụ Đồ mà nặng vậy!
Không cho nghĩa quân bưng, Đề Nắm đón lấy quả đồ lễ đặt lên án thư bên cột, và mời các cụ ngồi xuống hai hàng chiếu trải thêm, cạnh hàng chiếu các thống lãnh.
Các cụ vẫn đứng chắp tay, một cụ ông già nhất ho khan mấy tiếng rồi nói:
- Bẩm quan Đề Nắm và các quan Tề, quan Thống, quan Lãnh. Năm nay tiết trời thuận, vùng ta hoa quả, đậu đỗ đều được. Ở Trại Mít đã có mít lên đồn để hầu nước, dân con ở Dĩnh Thép, ở Nhã Nam không có gì, chỉ có gánh lạc, gánh đỗ gọi là của mới...
Các thống lãnh đều xuýt xoa cảm ơn. Đề Nắm cười ha hả:
- Không có gì! Không có gì! Chỉ có lạc... chỉ có đỗ xanh mà lại còn một quả đầy... Nào tôi xin phép các quan, cho tôi được mở quả xem nào...
Đề Nắm kêu giời và lại chắp tay nói:
- Quý hóa quá! Quý hóa quá! Pháo! Pháo cối của làng Bình Đà các quan ạ...
Một cụ cũng trạc bảy, tám mươi đứng bên bà cụ Đồ vội thưa:
- Bẩm các quan, chả là dân chúng con được tin đồn ta đến mười sáu này thì làm lễ...
- Kìa! Tin đồn ở đâu? Ai nói... ai đồn...
Các cụ đồng thanh:
- Bẩm các quan: dân đồn... Cả dân Yên Thế và nhiều nơi khác nữa. Còn chúng con thì cứ tâm thành, chí niệm nên bảo nhau cứ đi đặt pháo ạ...
Tình bằng có đất Bắc Giang
Khen ai tụ nghĩa ố mấy bung bung bập bung
Một bầy tang tình nghĩa sĩ ố mấy lội lội sông đi tìm...
Nhịp trống và tiếng hát cất lên làm cả trại sửng sốt, rộn rạo. Chính ông cụ đầu nhọn, trọc hói, cởi trần, thắt lưng điều, đeo trống ở giữa đám các cụ vụt ra. Đề Nắm hất đầu, bước lên một bước, cũng ngạc nhiên nhưng rất vui, giơ tay vẫy vẫy:
- Cụ kép nào vậy?!! Cụ kép ở đâu vậy!
Một bầy tang tình nghĩa sĩ, ố mấy lội lội sông đi tìm...
Nhịp trống và câu hát láy lại. Ông cụ đầu trọc, hói nhọn, nhảy lò cò, hai tay dang múa, mặt ngước lên, nụ cười sảng khoái, rạng rỡ chưa ai từng thấy, hướng về Đề Nắm mà mở rộng. Thống Lịnh đứng bên Đề Nắm trừng mắt tỏ ý không muốn có một sự sàm sỡ, múa hát trong lúc này. Đề Sặt như cùng một ý với Thống Lịnh nhưng chỉ hơi chau chau mày. Và khi chuyển câu hát khác, thì Đề Sặt như thấy có cái gì thúc vào tâm trí.
Tình bằng có đất Bắc Giang
Khen ai tụ nghĩa ấy mấy xây nên đồn. Một bầy...
Đề Sặt bầm mặt, đưa mắt cho Bá Phức. Thì Bá Phức lại làm như vẻ không chú ý gì đến các sự nọ, chỉ mỉm cười và gật gật đầu, quay hỏi nhỏ Thám:
- Ông cụ này dễ không phải người trên ta nhỉ? Như có mấy lần lên nhà bà cụ Đồ Mốc ấy, hay có đi hát trên ta thì là ở gánh Bắc Ninh xin đám trên Thuông, trên Hả, hát ở sân nhà cụ Quyền Kiên hay sân nhà ông Nắm ấy.
Đề Nắm nhận ra ngay ông cụ kép người đầu nhọn, trọc hói chuyên đóng những vai hề đã diễn các tích chèo ở nhà cha mình, nhà mình và mấy nơi mở hội, vào đám dưới tỉnh mình đã đi xem. Dễ thường đến ba mươi hay hơn hai mươi năm, nay mới lại gặp, và bác ấy sao mà già thế, gầy thế, đen đủi rộc rạc đến thế, nhưng mà sao vẫn... vẫn làm ta thích thú, và ta càng không thể nào quên được!
Ố mấy lội lội sông đi tìm...
Ta nhớ mong ai đôi con mắt ố mấy lim dim...
Đôi mắt ấy lim dim thật, lim dim trông Đề Nắm, trông các quan thống lãnh, trông chung quanh và trông ra ngoài trời trăng lên có nhiều nơi cất tiếng hát bắt nhịp theo nghĩa quân và các đinh tráng làm tiếng hát càng văng vẳng.
Cả trại càng râm ran, nhộn nhịp. Mãi sau các cụ mới ngồi xuống, một bên hàng các cụ ông, một bên hàng các cụ bà. Đề Nắm lại truyền nghĩa quân hầu cậu đi lấy thêm trầu cau, ấm chén để mời nước các cụ.