Sóng Gầm Chương 4
Phố Hạ Lý cũng như nhiều phố khác của Hải Phòng xây một kiểu nhà khá đặc biệt. Nhà làm từng dãy. Dãy bên này đường tám gian thì dãy bên kia cũng tám gian hay mười gian, mười hai gian cùng một kiểu như thế. Tầng trên gác ở, tầng dưới làm mặt hàng. Cầu thang lên gác thông thống ở ngay bên nhà tầng dưới. Người lên xuống thang cứ sầm sập, thình thình cả ngày ở trên đầu người nhà dưới. Gác nhà nào cũng có lan can bày các chậu cây và một khám thờ đủ cả câu đối, bình hương, bài vị, ảnh thờ treo ở ngay bờ tường. Nhiều nhà tầng trên và tầng dưới là hai thế giới khác hẳn. Tầng dưới là nhà làm đinh, thợ tiện, thợ hàn, thì tầng trên là hộ sinh, trường học tư. Tầng dưới là nhà thổ, hàng cà phê, hiệu phở, sòng bạc thì tầng trên cũng là nhà của ba bốn chủ: mẹ con khâu giày, may vá thuê, bố làm lang, con tán thuốc, người làm đội xếp, làm tàu, làm ở các kho, các cửa hiệu. Nhưng nhà mở "nhà thổ" vẫn đông nhất, cả tầng trên, cả các gian xép. Suốt từ chân cầu Hạ Lý lên gần đến sở Cốt phát, nhà thổ có môn bài và nhà thổ lậu chiếm gần hết các dãy, rồi đến hàng cà phê, phở, thợ may, cắt tóc và sòng bạc. Ở trên gác, nhà thổ cũng bày ra ở lan can đủ cả khám thờ, chậu cây và treo ảnh Đức thánh Quan như những nhà người Tàu vậy.
Mấy tháng trước, Thanh được mấy buổi làm gõ gỉ sắt ở cầu Hạ Lý và đập gạch trong sở Pháo thủ. Thanh thường nghỉ trưa và có hôm ăn cơm cùng anh em ở ngã tư. Bởi vậy ở nhà ra đi, cái quãng đường làm Thanh hồi hộp khi sắp đến vẫn là hai đầu cầu Hạ Lý và cái bến sông Tam Bạc này. Hôm nay, Thanh cứ lại phải ngồi ở dưới cái gốc cây bàng trên cái tảng đá nhẵn ở vệ đường ấy, mặt thì ngẩn ra, tâm trí rũ xuống mà nghe thêm sự buồn thảm quấn lấy tất cả mạch máu trong người. Vẫn cái cảnh xào xạc, lúc nhúc mọi sáng. Người ta họp chợ ở ngay đầu đường. Cũng đủ cả hàng rau đậu, mắm muối. Thịt bò, thịt lợn pha ngay trên tấm ván để dưới đất, hàng cá hồng, cá nác, rươi, lòng lợn tiết canh, nộm, bún ngồi liền với nhau. Người mua vẫn là các thím khách và người nhà các phu phen thợ thuyền ở trong các ngõ. Còn người ăn vẫn là các ả gái nhà chứa. Họ ngồi chồm chỗm gọi ăn ngay ở bờ hè, ngay giữa lối đi, cạnh những hàng cá, hàng rau, mặc cả, giằng giật, chửi nhau túi bụi. Quần áo nhầu nát, mặt mày bợt bạt, tóc như ma dại, nhiều ả khoác cả áo tây đàn ông, quấn cả miếng dạ đỏ của lính bịt bụng làm khăn choàng, và đi cả giày săng đá mà ngồi sụp soạp ăn nào bún ốc, lòng tiết canh, cháo phổi. Vừa ăn họ vừa giằng kéo những khách quen và cả những người đi đường đã vô ý nhìn họ hay có khi không dám nhìn họ nữa. Người nào cũng bị họ bá bíu, nắn túi; từ bác bếp mải miết về chợ với con cá chép xách tay còn ngáp, đến chú lính khố xanh đi coi nhà pha làm cỏ vê, ngủ gà ngủ vịt ở cột đèn, đến anh thợ chữa khóa thất tha thất thểu, ông cụ ký kèm nhèm đi thu tiền thùng.
Thanh đã bị hai lần họ bá cổ khoác tay kéo vào nhà. Thanh chỉ xệu mặt ra, co người lại, chứ không dám kêu gắt, giằng gỡ gì cả. Rồi về sau, ngày ngày Thanh đi qua đây, có những lần mải nghĩ, Thanh xô, vập cả vào họ, họ cũng chẳng buồn nghe Thanh xin lỗi, mà chỉ nhìn Thanh, càng ngạc nhiên vì vẻ mặt hốc hác, ngờ ngạc của Thanh mà họ đã quen đến nỗi tưởng như Thanh ở gần đâu đây, ngay cùng phố với họ, và cũng biết cả cái tên "cậu giáo Thanh" của Thanh nữa.
- Có đứa nào dám bao "cậu" không nào? Cậu vừa trẻ vừa ngoan, chạy được việc cho cậu làm thì ba chê được!
- Mày ấy! Mày ấy! Thì mày bao cậu chứ còn ai!
- Mày ấy! Mày ấy!
- Thôi để tao... để tao... Mợ mày cân cậu cho chúng mày biết tay!
Cả bọn ùa nhau ra ôm khoác lấy Thanh. Lần này Thanh không xệu mặt và co rúm người lại nữa. Thanh lặng nét mặt đi cố kiễng người lên để gỡ những cánh tay ôm và tránh những cặp môi hôn chun chút vào môi vào má vào cổ Thanh, rồi Thanh chạy bán sống bán chết.
... Một trận gió đánh thoảng mùi đốt rác của đám trẻ đi bới mảnh chai sắt vụn ở cái bãi gần đấy. Thanh vội quay mặt ra phía bờ sông, cũng để tránh nhìn cái chợ với những cảnh ăn uống, những dãy nhà chứa, những người khách đến giờ mới dậy về, và những người con gái ốm yếu vàng vọt đến giờ mới ra các hàng quà... Nhưng một hình ảnh khác liền vụt ngay đến. Thanh vội gục mặt xuống cái mũ, mở hai ngón tay nắn nắn hai thái dương, thở dội một tiếng.
Thanh vừa gặp mẹ. Mẹ Thanh ở trong ngõ 71 đi ra, so súi chiếc nón để giấu giấu rổ thịt lậu thuế và cũng giấu cả mặt mình.
Ngõ 71 cũng có một nhà thổ và nhà này mở cả tiệm hút. Một tiệm hút nữa ở ngay trước cửa nhà này với những khách hút chỉ hút thứ thuốc nấu bằng các thứ sái sảm, giẻ lau bàn đèn và cao các dọc, tẩu, xe, lọ... Cũng có người không hút mà uống. Họ uống cái nước nấu với giẻ lau, với các mảnh dọc, tẩu, xe, lọ nọ chế thêm rượu gọi là nước "cam lồ". Phần đông là những người làm xe kéo, làm phu bắc tê, ba gác. Có cả bọn ăn cắp con cá lá rau ở các chợ hay boóng xẩu ngoài Sáu Kho và ở bến tàu Quảng Đông...
Thanh gặp mẹ ở nhà cụ Coóng trong ngõ 71 đi ra. Người khách bạn già của cụ Ước này bây giờ đã lòa, hai chân lại bị liệt. Cụ ở nhà trông nhà cho đứa con dâu đi làm bên Xi măng và người con gái đi dệt khăn mặt ở bên phố. Hơn tuần nay với đồng bạc của bà Chính dúi cho, mẹ Thanh buôn lại thịt của mấy hàng thịt lậu dưới làng đi bán lẩn lút ở các xóm các ngõ. Mẹ Thanh sang cả phố Hạ Lý này mà như lời mẹ Thanh nói thì lại bán hàng dễ hơn cả mọi chỗ. Khách hàng của mẹ Thanh là các chú khách, thím khách, họ hay mua thịt lợn to và mua mỡ, ăn ngay cũng có, để phơi khô, làm thịt mặn cũng có. Những người vợ phu xe, phu bắc tê, làm gỗ, làm gạch cũng mua nhưng chỉ một hai xu mỡ để xào nấu mấy bữa, hay năm ba xu thịt nạc về rim cho con...
Trông thấy mẹ, Thanh đã toan quay mặt đi và rẽ vào cũng một cái ngõ cạnh đấy. Nhưng rồi Thanh cứ đi thẳng đến với mẹ.
- Con chửa sang bên Xi măng à?
Thanh sực đến gần, làm mẹ giật mình nhìn lên, luống cuống hỏi. Thanh nhìn mẹ mặt giá ngắt, cái áo nâu thắt vạt phần phật trước gió, cổ ngẳng ra thở khò khè, khò khè.
- Mẹ bán sắp hết chưa?
- Chỉ còn cái chân giò và mấy lạng mỡ. Về bán cho mấy nhà quen trong xóm Máy nước hai vòi và ngõ ông Đồng lùn là hết. Hôm nay cũng chỉ cất lại hơn đồng thịt thôi. Buổi mai thôi không buôn cái tang chân giò này nữa...
Chỗ mẹ con Thanh đứng nói chuyện ở trước cái lò bánh chưng rán của một bà khách già. Mùi bánh chưng xèo xèo trong cái chảo to nhoáng mỡ đã thơm ngậy lại còn những tia lửa ở bếp than vờn lên hơi nóng bốc ngụt. Những người ngồi sưởi và cả những người ở hàng nước bên cạnh đều sáng cả mắt lên nhìn những miếng bánh lật đi lật lại đã vàng sém trên chảo mỡ và những tia lửa kêu reo reo leo cả lên miệng chảo. Toàn những người ngồi chầu hẫu công việc ở mấy cái tràn và bến đò gần đấy. Chẳng ai ăn uống gì cả.
Mẹ Thanh tần ngần:
- Bây giờ mới chín giờ, con ăn chiếc bánh nhá?
Thanh lắc đầu. Mẹ Thanh thụp xuống rồi lại đứng lên. Thanh còn giữ lấy cánh tay mẹ thì bà đã xiên hẳn chiếc bánh với cái que tre vạt nhọn đưa cho Thanh. Bà nói run cả người:
- Con ăn rồi chiều về sớm ăn cơm.
Thanh vội cúi xuống. Thanh rút chiếc bánh đặt lại lên mặt chảo xèo xèo bốc hơi.
- Chiều con về sớm, nhà thổi cơm ăn mà.
Nhưng mẹ Thanh lại xiên chiếc bánh, và bà khách già đưa vội chiếc đĩa với chiếc bánh vào tay Thanh:
- Ăn ly... ăn ly... Peéng noóng noóng ngon lớ... Ăn ly... ăn ly... một xu một peéng thôi lớ...
Mẹ Thanh lại xiên một cái nữa. Lần này bà cùng ăn với Thanh. Bà ăn một nửa bé, chỗ sém vàng và nửa to phần Thanh. Từ ngày ra đến đất Hải Phòng, giờ bà mới dám biết mùi quà và mẹ con ăn quà với nhau.
- Chiều nhà thổi cơm sớm đấy. Con về sớm nhé!
Mẹ Thanh úp nón vào cái rổ cắp đi, xo ro lấm lét, đi men mén ở bên hè. Người bà đã bé nhỏ càng lúi xúi hơn. Gió thổi như muốn rứt ra khỏi bờ hè cái thân hình gày gò và đẩy dập nó xuống đất... Không biết nghĩ ngợi ra sao, Thanh chạy vội theo mẹ sang cầu. Nhưng khi bà đến chợ Ba Ty, và Thanh sắp xuống dốc cầu thì Thanh đứng lại. Thanh trông theo mẹ thêm giây lát rồi quay lại. Chiếc áo lót Thanh mặc trong chiếc áo tây vàng bị gió tốc hẳn lên, như để cả một tảng nước đá thúc vào giữa ngực. Thanh xuýt lên một tiếng, đến giờ mới thấy rét. Đôi guốc Thanh mòn quá, gót chân chìa ra, thỉnh thoảng lại bị những đá dăm kẹt trong guốc đâm lên vừa ngứa vừa nhức. Bước trên cầu, giẫm phải những đầu nhọn của những đinh tán đã gỉ gãy và những thanh sắt cờn lên lởm chởm, Thanh càng thấy ghê cả chân. Nhưng vẫn không bằng gió. Mũi Thanh tắc nghẹn, buốt xộc lên tận óc. Ngực thì chói tức. Vai mỏi ê ẩm và cũng lạnh buốt. Tiếng cành cạch ở những đám thợ chữa cầu và ở hai chiếc sà lan sửa chữa bên bờ sông đánh lọng thêm vào trong đầu óc Thanh.
Qua cầu, Thanh đành lại phải ngồi xuống dưới gốc bàng và hòn đá mọi khi vẫn nghỉ. Thanh tưởng sẽ không còn có thể đứng dậy được nữa.
Hôm nay lại có người hẹn tìm việc cho đây. Nhưng liệu có kết quả không. Hay rồi lại một hẹn khác? Một hẹn khác lại phải chờ đợi hàng tuần hàng tháng, cũng lại qua lại ở những quãng đường này? Mọi khi qua cái gốc cây và chỗ ngồi này, Thanh lúc giở về cũng mệt nhọc và buồn nản, nhưng hễ sắp đến hàng cụ Ước là Thanh lại thấy bớt hẳn đau khổ. Rồi khi Thanh ngồi xuống bên ông cụ, ông cụ rót nước cho uống, lấy khoai lấy kẹo cho ăn, Thanh lại dần dần hồi lại tinh thần. Nhiều hôm Thanh và ông cụ cùng về nhà, ông cụ gánh giành nước và cái hòm kính, Thanh xách xâu bánh đa, rau hành và con cá, hai ông con vừa đi vừa chuyện, Thanh còn thấy nhẹ nhàng, vui vẻ hẳn lên nữa. Y như Thanh được đi làm về! Đi làm với cụ Ước vậy.
Nhưng cụ Ước mất rồi! Hàng để lại cho chị em Dâng mà thường là cái Ngọt đi hàng, còn Dâng thì cất bánh khúc nóng đi bán tối với thằng La. Chỗ ngồi dạt vào mãi trong ngõ. Cái chỗ cũ giờ treo một miếng vải to vẽ một bàn tay xòe ra và một mặt người vuông chằn chặn, chằng chịt những đường ngang nét dọc, những chữ Nho viết bằng mực Tàu và dạm thêm son. Cái lão thầy tướng này nghe đâu có người làng làm đội xếp ở bóp đầu cầu. Khi cụ Ước vừa mất thì lão đương ở gốc cây bên kia đường, ôm ngay chiếu, tráp sang xí phần. Lão cũng già nhưng mắt sáng như mắt vọ, đeo một cặp kính lão gọng đồng mà bất kỳ người chưa đến tuổi nào đeo cũng được. Tóc lão đen, cứng, cợp lên. Râu chuột. Lúc tán quẻ cho khách thì như khướu hót, còn chèo kéo người xem thì y như mấy hàng kẹo kéo và mấy thằng ba que ở cổng chợ. Cạnh lão thầy tướng là một hàng thịt bò khô. Gã bán hàng tóc gọng kính, răng vàng, lúc nào cũng tanh tách chiếc kéo. Và hàng bánh rán nhân thịt của một chú khách. Chú này cũng hen suyễn như mẹ Thanh, nhưng chú vẫn còn con bé. Thanh chỉ thấy con chị cõng con em, thằng nhớn dắt thằng bé ra hàng chứ không thấy vợ chú đâu. Bánh rán bằng dầu lạc khét mù. Dấm tỏi nước mắm nồng nặc. Kẹo kéo và bánh rán chuyên bán cho trẻ con ở trường học trong ngõ. Lão thầy tướng lúc nào cũng nhấp nha nhấp nhỏm nhìn vào hàng bánh rán như trẻ con ấy. Sáng, trưa, chiều, lúc nào lão cũng uống rượu, nhắm với bánh rán mà lão ngốn rau và húp nước mắm dấm cứ vung vãi cả ra râu, cả ra cái khăn điều quấn lòng thòng ở cổ.
Một tháng nay Thanh chỉ đến hàng Ngọt có hai lần. Nhiều khi đi qua, ở bên kia đường, Thanh không dám nhìn sang cả ngõ nữa.
... Gió vẫn ù ù bên tai Thanh. Sóng đập vào hai bờ sông Tam Bạc, bọt trắng chồm chồm tưởng như ngoài nước xanh. Tiếng máy chạy rào rào của khu Máy chỉ và tiếng đóng thuyền, ca nô, sửa chữa máy móc của mấy xưởng máy ở chung quanh đấy dần dần bị tiếng sóng gió át đi. Trên đầu Thanh, bầu trời càng thấp xuống, mây như chì như đá. Khi mấy cái thuyền Trà Cổ dỡ xong củi và chiếc cầu quay mở lối, thì quãng bến ở hai đầu cầu hoàn toàn vắng ngắt, chỉ còn trơ lại chiếc tàu bỏ hoang của hãng Xôpha, mái đã sụp, hà hến lỗ chỗ bám lên cả hai càng bánh guồng.
Thanh quay lưng, ngả người vào gốc cây, nhìn ra cửa sông. Những tầng lò, những ống khói bên Xi măng và những cột buồm, những ống khói tàu, những cột vô tuyến điện ngoài Sáu Kho trông càng nghiệt ngã dưới những lớp mây đen vần chuyển nặng nhọc dồn dập.
Hôm qua Sáu Kho có hai tàu to về. Những ống khói như những cột đình tầm đại dương lừ đừ nhả những vờn khói bị gió thổi dạt hẳn đi. Thanh lại nghĩ đến những cái điếu tẩu thuốc lá ngậm ở bên mép những ông đốc công và sếp máy, ngồi mặt lạnh lùng thờ ơ trước tất cả những người thợ kêu van vì bị giãn, bị cúp phạt và những lá đơn xin việc. Những ống lò bên Xi măng cao hơn, to hơn, khói tuôn mù mịt cả một vùng. Nhà máy Xi măng đấy, chốc nữa Thanh sẽ gặp Cam và người quen của Cam ở đây để hỏi việc. Quang cảnh đây có vẻ sầm uất hơn, nhưng cho đến giờ Thanh vẫn thấy đối với Thanh bằn bặt, khó khăn vô cùng.
A! Hải Phòng mơ ước, hy vọng của Thanh! Hải Phòng Thanh đã nói với mẹ: "Mẹ con ta cứ ra ngoài ấy là sống được!".
Hải Phòng nhà máy, xưởng thợ không nhớ xuể! Có chỗ cu li, thợ cai ký hàng sáu bảy nghìn. Trẻ con cũng làm ra tiền: đẩy xe bò, đội than cũng kiếm được hai ba hào một ngày. Không làm đâu thì ra vớ vẩn ngoài Sáu Kho boóng xẩu với các phu ở kho gạo, kho thuốc bắc, ở dưới tàu, hay sang sở Xi măng sàng than xỉ bán cho hàng phố, hay ra bến tàu Nam, phố Khách quét gạo đỗ rơi rụng, hay xuống Đống Nổi bới rác nhặt sắt vụn, mảnh chai, lông vịt... xoay giở đâu cũng ra tiền. Bữa ra thì ngày dăm ba hào! Không có cũng đủ đong gạo cho nhà. Ấy là cùng mạt mới phải làm như thế. Chứ có chữ nghĩa văn bằng mà cạy cục được công việc thì... Ngày ngày Thanh hết sang Xi măng lại xuống phố Cầu Đất, nhà hát Tây, phố Bônbe, phố Khách, chợ Sắt. Nơi kích thích vời gọi Thanh nhất là Sáu Kho, bến Bính và phố Bônbe, phố Khách. Chao ôi! Cửa biển sao mà to mà đẹp thế này? Những chiếc tàu hiện ra ở trên sông sừng sững, nguy nga còn hơn cả những lâu đài. Lại còn tàu chiến nữa mới lạ chứ! Súng thần công tua tủa. Lính thủy da đỏ như da gà chọi, quần áo mũ lại đẹp quá sức lẽ mình. Còn hai khu phố Tây phố Khách kia! Sao mà vàng bạc, lụa là, pha lê, sứ, len dạ, đồng, sắt, máy móc hàng hóa nhiều đến thế, không còn biết bao nhiêu thứ, ước lượng được bao nhiêu tiền! Nguyên một khu thôi mà có những ba tòa nhà băng và ba nhà ôten, ba rạp xinê. Không kể có những cửa hàng rộng còn hơn một dãy phố!
Làm sao mà lại không có một chỗ để làm và sống ở đây?
Đúng đấy! Hải Phòng đâu đâu cũng có việc, nhưng người lại nhiều hơn việc. Những người tìm việc, xin việc, chờ việc, không tỉnh nào, vùng nào không có. Nhiều người đã chầu chực hàng mấy năm rồi. Họ cũng không còn chỗ nào nương tựa, không còn thứ gì cầm bán, không còn biết xoay giở cách gì được nữa rồi. Lắm người đã thành ăn mày, ăn nhặt, trộm cắp vào tù, bán thân bán xác đi Tân thế giới, đi Đất đỏ cao su rồi! Còn tiền... bòn nhặt cái gì cũng ra tiền đấy, quét hót gạo đỗ rơi rụng, bới rác sàng than, đẩy xe, gõ sắt ngày được một hai hào... nhưng nào tiền nhà, tiền vệ sinh, thổi một bữa cơm tiền củi có khi bằng cả tiền bữa gạo, hột nước phải thuê, bẩn bức quá, tắm ao tắm hồ cũng mất một xu trả cho nhà chủ, tắm giặt ở bến sông thì bị phạt. Và thuế... ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết một năm, lại hai đồng rưỡi bạc thẻ thuế thân. Giời ơi! Hai đồng rưỡi bạc một cái thẻ mà gạo máy Sài Gòn tải ra chỉ có đồng rưỡi một tạ... Toàn những việc phải tiêu tiền! Không tiêu không được. Không có tiền không được! Vì vẫn phải ăn để sống. Trần truồng rách rưới còn có thể được chứ không ăn không được. Nên nhiều khi muốn ăn để sống người ta chỉ còn...
Thanh bật hẳn lên thành tiếng nói. Thanh rít tiếng trong hai hàm răng:
-... Chỉ còn cách xông đến giật lấy ví tiền cắp ở nách những con đầm. Hay đón những thằng chủ Tây, những thằng má chín khách lĩnh tiền ở nhà băng ra mà cướp lấy cặp. Hay vồ lấy những tập bạc giấy còn gắn xi chồng từng chồng trước cửa tủ két nhà Đétcua Cabô, Thy San, Đờvanhxy, Thuận Thái ngày phát bạc... Chỉ có thế! Phải đến thế!
Tâm tưởng Thanh đen sầm lại. Trước mặt Thanh, chung quanh Thanh, như có những đỉnh núi, những ngọn thác, những tầng nhà, những đoàn tàu, những đầu máy, những lò nung, những ống khói, những nhịp cầu tung lên ầm ầm sụt đổ. Trong những đám gạch ngói, than sắt, bụi đen và mạt lửa này cháy ngụt lên và tan tành hết những hình ảnh mơ ước nâng niu của Thanh.
... Ngày ngày Thanh dậy cùng những người trong xóm đi làm. Thanh làm chấm công biên chép ở Sáu Kho, hay làm thợ xếp chữ, sửa bài ở nhà in, hay làm chấm dầu, phụ lò ở dưới tàu, ở sở Xi măng... Trưa Thanh ăn cơm nắm nghỉ lại ở nhà máy, ở kho hàng với anh em. Chiều tối về, mẹ thổi cho bữa cơm nóng sốt. Ngày đi làm, tối khuya học. Từ bảy giờ đến mười một hay mười hai giờ. Thanh học, làm bài theo chương trình "Thành chung" của một học san rồi gửi về nhà báo kèm theo tem giả nhời để chấm. Được công ăn việc làm chắc chắn, dần dà Thanh sẽ theo hẳn một lớp học tối dù phải trả một nửa hay hơn nửa số tiền lương, Thanh cũng vui lòng. Cốt nhất người giáo sư bảo Thanh học là một người yêu nghề, biết thương kẻ học trò nghèo mà có chí. Nếu lại còn được người nọ quý mến thân thiết thì Thanh sẽ không còn sự an ủi, sung sướng gì bằng. Thanh không phải chỉ gọi họ bằng "thầy" hay bằng "anh" mà sẽ coi họ như là ruột thịt của mình. Học như thế, bốn, năm năm Thanh sẽ thi tú tài. Đỗ càng hay, không đỗ Thanh cũng có một vốn học thức khá. Thanh sẽ tìm những người cùng cảnh, dạy lại những điều Thanh đã học, đã suy nghĩ. Họ và Thanh sẽ như là những anh em kết nghĩa, cùng nhau trau dồi cả trí tuệ, đạo đức để cùng tìm một con đường đi cho có ý nghĩa. Con đường đi ấy sẽ đến những cảnh không còn những nỗi đói rét, khổ sở; không còn sự giàu sang, xa xỉ; không còn những cái đè nén khinh miệt, trừ bỏ hết những kẻ quyền thế, gian ác. Những cảnh xã hội không còn ai nghèo hèn, cực nhục và cuộc sống đen tối!
Những mơ ước, khao khát bao năm của Thanh đấy! Kinh thánh chúa Giêsu dạy, nát bàn của Phật tổ Như Lai, thiên đường, địa ngục vân vân... ngay từ thuở bé Thanh đều đã không tin, mặc mẹ Thanh, mặc mọi người cầu khấn. Nhưng lâu nay, Thanh không những không tin mà còn oán ghét, hờn thù nữa. Những ảo ảnh tôn giáo và đạo đức ấy Thanh càng thấy chỉ là lừa dối. Chỉ có những điều lý tưởng và những cảnh tươi sáng trên kia mà Thanh nghĩ ra và láng máng nghe nói, láng máng đọc thấy trong vài cuốn sách thì mới thật là hạnh phúc, công bằng, bác ái thôi! Thanh càng khổ bao nhiêu, càng ngoi ngóp với những người khổ cực như Thanh hay còn khổ cực hơn Thanh bao nhiêu, Thanh càng thấm thía với những điều ấy, với những cảnh phác tưởng ấy... Nhiều lúc Thanh đã phải nghĩ tới không có cơm ăn áo mặc thì Thanh chết. Nhưng có cơm ăn áo mặc mà Thanh phải vùi dập những lý tưởng và mơ ước thì Thanh cũng không thể sống được... Nhưng nay... tất cả... tất cả... chỉ còn là tuyệt vọng... Đời sống đã đến bước cùng tận rồi trên cái đất xa lạ khó khăn, buồn thảm này! - Có lẽ ta bị quỷ ám nên mới nằng nặc đòi mẹ ra cái thành phố này chăng? Có lẽ lúc ta nhìn thấy sự sầm uất, dễ dàng, no ấm của nó là lúc ta đi trong cơn mê lú, hai chân không phải của ta đi, hai mắt nhìn không phải của ta nhìn, mà bên tai ta là gió của hồn ma, tiếng quái thì thào chăng?
***
Nhưng còn chuyến này để hy vọng. Thanh sẽ cố sống thêm một ngày nữa. Ngày hôm nay và cuộc hẹn này! Giờ cũng đến chín giờ, chín rưỡi rồi đây!
Thanh đứng dậy, đi lên đường nhà máy chỉ, để xuống đò sang bên Xi măng với Cam. Gió sông Cửa Cấm thổi vào càng như bão. Bụi đường và lá cây quằn lên mù mịt. Sau những phút bàng hoàng chưa bao giờ từng thấy, đầu óc Thanh ê hẳn đi, rần rật, nhức nhói. Phía ngực bên trái cũng thế. Thanh phải vừa đi vừa day day xoa xoa ngực. Chiếc mũ đội sụp trên đầu Thanh chợt bị gió tung đi. Một tiếng còi ô tô rít vang. Bánh xe sạt qua mặt Thanh. Thanh nhảy bổ lên hè, dụi dụi mắt, mãi sau mới chạy nhặt mũ. Rồi Thanh rảo bước để xuống đò.
Từ đằng xa, Cam trông thấy Thanh xớn xác tìm mình thì bắc loa tay gọi và lấy khăn bông bịt đầu vẫy vẫy:
- Đây cơ mà! Đây cơ mà! Cậu Thanh ơi!...
Chiếc đồng hồ ở cửa nhà giấy chỉ đúng chín giờ. Cam cười thầm:
- Đúng hẹn đấy! Nhưng sao hôm nay lại càng như người mất hồn mất vía thế kia?! Không hiểu khi xin được việc thì những việc như bốc đá hay xúc bột dưới gầm lò có kham được không? - Cam lắc đầu - Đến chết đói vì chữ với nghĩa, vì kinh với kệ thôi!
Trước cái cười miệng bĩu bĩu của Cam, Thanh lại thấy khó chịu như những lần trước. Hai người vào chuyện cũng lại ngượng ngập. Tuy ở trước nhà Cam, biết nhiều việc của gia đình Cam, của Cam và cũng rõ được phần nào tính nết của Cam, nhưng Thanh vẫn ít nói chuyện với Cam. Mấy lần cùng nhau đi đường, ngồi với nhau ở bờ hè, ở ghế vườn hoa, Thanh đã gợi chuyện thì Cam đều bắt nhời một cách chủng chẳng, rồi khi chuyện, Cam lại thường có những câu đâm ngang, hay ngược hẳn ý Thanh. Trong khi ấy đối với mấy người bạn trên phố, tuy Cam chẳng thân với ai, nhưng Thanh thấy Cam thật là xuề xòa. Thanh đã cho rằng khó mà đánh bạn được với cậu hàng xóm lấc cấc, ngạo ngược này, vì Thanh còn cảm thấy thêm một điều này, là đối với gia đình Thanh, Cam cũng có vẻ xét nét, rất dè dặt nữa.
- Không thể giữ miếng với Cam và quá để ý đến cá tính một người còn trẻ hơn mình, sống một hoàn cảnh khác mình được!
Thanh đã phải kết luận như thế. Nhưng sau đó, một lần vào sáng chủ nhật, một lần vào buổi tối đấu quyền Anh, Cam lại đi chơi với Thanh và đã bắt chuyện Thanh. Rồi có kỳ tiền Cam mời cả Thanh ăn phở. Thanh không thể chối từ được. Một buổi khác, ăn phở xong lại còn đi uống cà phê pha túi ở hàng cà phê bờ hè. Thanh đã hối hận mình vẫn không chịu khó nhận xét kỹ những người chung quanh, nhất là những kẻ như Cam, và Thanh vẫn thiếu sự cởi mở rộng rãi, đến trước và ôm trước lấy bạn.
Hôm qua, cả Cam và Gái đen lại sang nhà Thanh. Gái đen cho Thanh biết tin có nhiều tàu lại đến Hải Phòng ăn xi măng. Nhà máy bên ấy đương lấy thêm người. Gia đình Gái có một người làm ở lò nung thân với cha Gái, Gái đen và Cam vẫn gọi là chú Sấm. Gái đen và Cam đã nói với chú Sấm để ý xin việc cho Thanh. Chú Sấm nhận nhời, hẹn hôm nay Cam dẫn Thanh đến.
Thanh không dám vào chỗ Cam làm, cứ đứng ở chỗ thuyền than đỗ. Cam kéo tay Thanh. Thanh chùn người lại:
- Chết! Để chốc nữa nghỉ tầm Cam hãy đưa tôi vào. Cam đương làm đá mà!
- Việc gì mà chết! Ở nhà máy đến đá đè, goòng đổ, tường sập còn chả chết nữa là... Còn bỏ việc đi, có gì thì chỉ đến bị đuổi. Tôi đưa Thanh đến gặp chú Sấm trước tầm về cho tiện. Lúc tầm về túi bụi lắm!
- Thế tôi vào hẳn chỗ ông Sấm làm?
- Chứ sao?
- Tôi có thẻ đâu mà vào nhà máy?
- Vẽ! Có vác hẳn "xy lô" hay lò số 5, quả gang nghiền đi, Tây nó bắt gặp mới sợ. Kìa, bỏ bố hai thằng bây giờ!...
Cam nắm tay Thanh kéo Thanh nhảy té qua đường sắt, vừa lúc mấy tảng đá cuốn lên "máy hập" bật tung ra khỏi "băng", choang choang lao xuống đường sắt vào cả xe goòng. Quay lại nhìn chỗ mình vừa đứng hoắm xuống như trôn cối, Cam cười:
- Tí nữa lại mất cái để đội mũ.
Thanh sững người ra. Cam lay lay vai Thanh, càng cười to hơn.
- Vào chỗ ông Sấm còn xa không? - Thanh vừa hỏi vừa quay lại nhìn mấy hòn đá lỏng chỏng đằng sau mình. - Thế Cam dẫn tôi đi, đương làm bỏ việc à?
- Buổi nay tôi nghỉ.
- Kìa! Sao Cam lại nghỉ!...
- Nghỉ là nghỉ chứ sao! Ở đây làm hôm nào thì biết hôm ấy. Chỗ nào làm biết chỗ ấy. Đến như bên nhà máy Xi măng đen mấy năm mới xây xong, đương chạy rầm rầm thế mà đùng cái nghỉ, rồi bỏ hoang đây kia, nữa là!...
- Nhà máy Xi măng đen bên kia ấy à?
Thanh hỏi và lại nhớn nhác quay lại trông, Cam bá lấy vai Thanh:
- Thôi đi!...
Càng vào sâu khu nhà máy, Thanh càng hồi hộp. Giời đất khác lạ hẳn đi. Ngoài kia sông Cửa Cấm, cửa sông Dế và cả sông Xi măng nữa, nước đã xanh biếc, sóng đập làm rập rình cả những thuyền đinh, thuyền mành to như những chiếc tàu. Nhưng tất cả cột buồm, ống khói của những thuyền những tàu đỗ dưới sông so với những lò, những tầng nhà máy thì vừa thấp bé, vừa mỏng manh, như ở dưới chân những quả núi, mà than bụi và một cái lò hay tầng máy nào đấy phụt vỡ ra, thì đây sẽ thành như hỏa diệm sơn động lửa. Dãy núi Yên Tử phía xa và dãy Tràng Kênh gần trước mặt cũng chỉ sàn sàn với những đỉnh lò, những tầng máy ở trên đầu Thanh thôi.
Cam làm ở khu Máy đá liền với khu Thuyền đất. Những đống đá bốc ở dưới thuyền lên và những đống đất quật từ dưới sông vào, cũng chất ngất như đồi, như núi. Người làm thuyền đất chỉ đóng khố. Ai mặc quần đùi thì quần chỉ còn là những manh vải tướp ra. Người nào người nấy nước rỏ tong tong từ trán xuống mặt, xuống ngực. Lấm cả bùn nữa. Tóc tai đều bê bết bùn. Lưng, ngực, bụng, chỗ nào khô thì bùn đóng sần sùi như vảy; chỗ nào ướt thì đen nhờn đen nhụa. Người đào đất xúc vào thúng, người đội đất đổ vào goòng, người đẩy goòng chuyển vào máy, da thịt mặt mày ai cũng tái nhợt, bùn đất cóc cáy, hơi thở lòa nhòa, xuýt xoa run không được. Trông những người làm than lem luốc đã thấy cực, nhưng nhìn những người làm đất rúm ngực lại ở dưới sông và thở ra như khói thì Thanh không thể nào tưởng được.
Nhưng chỗ làm đá của Thanh phần gay gắt nguy hiểm lại còn hơn. Những đá hộc và đá củ đậu đều lởm chởm những cạnh sắc, những đầu nhọn. Không có gì bao tay, bao chân. Cứ tay không mà sục vào đá. Cứ chân không mà chuyền trên đá. Lấy đá ở trên đống lao xuống đường. Rồi bốc đá vào các goòng. Nhiều người vừa xoa bóp cùi tay, mắt cá, ống chân, đầu gối, vừa nhảy lên thon thót mà vẫn cứ phải quanh ở đống đá. Đá như búa, như dùi, ầm ầm, túi bụi. Goòng chở đá sầm sập trên đường sắt. Đá cuốn trên "băng", đá đổ vào máy hập kêu lục cục, rau ráu. Luôn luôn có những tảng bật ra ngoài cùng lúc máy chuyển rùng cả mặt đất.
Vừa ra khỏi khu Máy đá và Thuyền đất, Thanh đương choáng váng thì ho sặc lên. Một luồng bụi than và bụi xi măng từ Nhà điện và Lò nung tạt lại đen rầm cả trời đất. Mọi người quay cả ra ngoài sông. Kẻ nhắm mắt, người chúi vào nón. Có người vừa ho rũ vừa rủa trời rủa đất rủa cái thân mình.
- Cha tiên nhân nhà nó, cũng là cha mẹ đẻ ra, sao người thì nhàn hạ sung sướng mà mình thì lại thế này?
- Bà gí vào mà làm nữa! Xe với pháo thế này thì đẩy mẹ nó xuống sông...
Chiếc goòng của hai bà nọ bị cặm. Một bà bụng chửa bị xe thúc lại, ôm bụng, nhăn nhó chửi. Một anh con giai đương đẩy xe phải bỏ xe đấy, lấy đòn bẩy bẩy hộ. Cả bọn cu li đàn bà xúm lại chiếc xe, quằn cả người, nhăn nhúm mặt mũi, nào hò, nào hự để bốc bánh xe vào lại đường sắt mà không được. Chiếc xe đã xộc xệch, gạch và xi măng vón hòn lại chở đầy, bánh xe lại thụt kẹt vào một cái rãnh. Nhưng chả nhẽ lại đổ gạch đổ xi măng ra đường. Bốn xe sau đã đến. Những người đun xe ngồi phệt xuống mé tường máy, vừa run vì gió rét, vừa thở dốc và ho rũ vì nhọc, vì bụi.
- Nếu xin được việc thì mình làm ở đây đây! Mình sẽ đi xe với Cam, không thì đánh bạn với một giai cùng xóm cũng được. Làm ở Máy đá, Thuyền đất, Lò nung đều gay cả. Gay hơn làm ở Sáu Kho nhiều! Nhưng có người có ta. Miễn là xin được việc!
Thanh tự nhủ, Thanh còn cố quay lại nhận xét chỗ bốc đá, bốc đất, và chỗ những xe goòng chuyển gạch, xi măng tả, đặc biệt là chỗ chiếc xe bị cặm. Cam vẫn dìu tay Thanh. Qua mấy chặng đường dưới có luồng điện nặng cắm những chiếc biển vẽ hình đầu lâu với hai khẳng xương trắng giao nhau, Thanh nắm chắc nữa lấy tay Cam, đi rón ra rón rén! Cam lại phải cố nhịn cười ái ngại thêm:
- Đã bảo không thể chết được mà! Cứ đường hoàng mà đi.
Lại mấy chiếc xe goòng lao qua. Rồi đến những xe bàn xếp những tấm sắt to hơn cái giường và những mảng quả gang hai ba người ngồi lọt. Cũng vẫn đàn bà, con gái, con giai đẩy chung. Người nào người nấy mặt mũi đen nhẻm, quần áo rách bươm. Thanh còn đương tưởng tượng ra hình thù cái máy khi những mảng sắt kia lắp lại thì không biết to nặng đến thế nào và làm sao mà đưa lên bệ được, bỗng thấy nổi lên một thứ tiếng rì rì như của một dòng sông lũ về xoáy nước. Cùng lúc đó một làn hơi nóng át cả gió lạnh phả đến dần dần làm người Thanh nóng sực.
Thanh vội ngẩng mặt lên. Một lò sắt dài, to và tròn, quay lừ lừ, như cả một đoàn toàn những đầu máy xe lửa chuyển bánh rất chậm ở phía trên đầu Thanh. Thì ra những mảng sắt lắp thành cái lò quay này đây? Thanh còn đương tự hỏi thì thấy không phải chỉ có một quả núi sắt tròn và dài quay như thế, mà còn hai quả nữa cũng quay lừ lừ ở trên đầu mọi người. Hàng trăm người làm việc dưới gầm lò. Nào đẩy goòng, khuân vác, nào rèn sắt, nào quai búa, cắt tôn, xì điện. Thanh càng vào gần, tiếng ì ì càng như xé màng tai và hơi nóng càng rát hết cả mặt. Thanh đi thêm vào độ mươi bước, trên đầu Thanh rõ là có lửa chụp xuống. Thanh thở ngột ngạt vô cùng. Thêm vài bước nữa, Thanh thấy thật là lửa táp vào người. Lửa ở khối sắt xám xám kia đương cháy bỏng lên và đương tỏa xuống ngùn ngụt. Lửa ở những thứ như là gạch, vữa, than, sỏi đen, cát đỏ, lổn nhổn ở dưới đất bốc lên. Và bụi. Vẫn bụi than với xi măng nhưng nóng bỏng và rào rào thổi vào mặt Thanh.
- Cam ơi! Đây là lò nung phải không?
- Lò nung đấy.
- Ông nhà ta trước cùng làm ở đây với ông Sấm?
Cam gật đầu, nét mặt đương hơn hớn bỗng lặng đi, Thanh sực nhớ đến những chuyện của cụ Ước, của bác La và những bà hàng xóm nói về sự bắt bớ, tra tấn, tù đày của cha Cam. Thanh hối vì câu hỏi vô ý của mình. Chợt từ trong gầm lò nhô ra hai cái xe goòng chở gạch và xi măng tả. Thấy những hòn gạch bám bụi xi măng xôm xốp như cục bột, Thanh sờ xem, tay Thanh vừa động đến hòn gạch liền rụt ngay lại. Luống cuống, Thanh vịn lấy thành goòng. Cũng lại như điện giật, Thanh nảy tay lên. Cả gạch vỡ, xi măng tả và thùng xe đều nóng cháy. Trong khi ấy, một người đàn bà Tàu bụng chửa vượt mặt và một người đàn bà ta đã có tuổi vẫn phải bám lấy xe, lót tay bằng miếng bao tải rách, ì ạch đẩy xe ở gầm lò ra.
- Con dâu cụ Coóng cũng đẩy goòng ở lò nung? Không hiểu dạo cụ Ước làm ở đây thì cụ ở trên máy hay làm dưới gầm lò?
Người đàn bà Tàu ngước nhìn Thanh, ngờ ngợ. Chiếc xe của y đi ra thì tiếp theo một xe khác. Hai người đẩy xe. Một người con gái cũng bé nhỏ như Dâng, đầu tóc trắng bụi, mặt mày như người bạch tạng, quần áo không còn chỗ nào lành, và một người con gái chỉ mặc cái quần đùi, đầu cũng đội cái miếng giấy bao xi măng đụp lại làm nón. Người con gái đến chỗ dốc thì nhoài ra, mắm môi lại:
- Hự... hự... cố lên nào! Cố lên nào!...
Chiếc xe chỉ rình trụt xuống. Thanh nhíu mày lại:
- Một xe chở như thế này thì mấy tạ? Lạnh giời ở đây còn nóng thế này, mùa bức làm sao chịu nổi?
Thanh chưa dứt câu, Cam đã phốc lại chiếc xe đẩy hộ:
- Hự, hự... lên nào... lên được rồi... lên được rồi!...
Quay lại với Thanh, Cam đáp, giọng hơi đổi khác:
- Vì cơm vì áo phải chịu tất. Không thế thì tìm cách gì ra cơm ra áo mà khỏi khổ thì đi mà tìm, mà làm...
- Cam bảo sao?
Cam đáp nhưng trở lại cái giọng vui và nhẹ như không:
- Thầy tôi trước chuyên xúc bột ở gầm cái lò giờ bỏ hoang kia kìa. Thầy tôi có lần nói đùa với u tôi: "Tao mà có chết xuống âm ty thì các quỷ sứ phải xin làm đàn em hết". U tôi hỏi sao vậy. Thầy tôi bảo: "Vì có cho quỷ sứ xúc bột ở gầm lò trong cùng chỗ tao làm chỉ một buổi trưa dạo tháng năm thôi thì quỷ sứ cũng nhăn răng ra mà chết!".
Nghe Cam nói Thanh lại nghĩ đến những nhà tù và Sở mật thám tên nghe ghê cả thịt mà các người như cha Cam bị giam cầm. Thanh còn bâng khuâng tự hỏi: "Ừ thì cha Cam đã trải qua cái cảnh nung nấu này, nhưng đến các nơi như Sở mật thám, Hỏa Lò, Côn Lôn kia thì làm sao mà chịu được, làm sao mà sống nổi?" thì Cam lại nắm lấy cánh tay Thanh kéo giật đi. Hai người qua một cái băng không chạy đá mà chạy những tảng, những viên gì đen đen cuốn qua đường. Bụi và những viên ấy giội xuống rào rào, có những viên bắn vào gáy Thanh như đạn bỏng. Đến dưới cái thang sắt bực lên xuống ở ngay cạnh đường, hai người đứng lại. Trên thang có tiếng gọi:
- Cam! Mày đưa anh ấy vào trong này cơ à?
Cam ngẩng đầu, che mắt để tránh bụi:
- Chú Sấm! Cháu đưa người đến học đạo ở hỏa diệm sơn của chú đây.
Sấm nhô ra ngoài cầu thang, mặt mũi, quần áo còn lấm láp hơn vì dầu mỡ. Cái mũ bác đội chụp xuống gần trán, tòi cả bấc, thứ mũ rộng vành như của lính Tây hay của cụ đạo sơn trắng. Thanh ngạc nhiên. Nghe tên thì tưởng là một người dữ tợn. Nhưng đây, Sấm người vậm vạp, gương mặt bầu bầu, cổ gáy béo ụ, đôi mắt rất hiền tuy sáng quắc hẳn lên trên gương mặt nhem nhuốc, da bì bì. Thanh bỏ mũ chào, hai tay ôm mũ, khép nép nhìn lên. Sấm cười, nháy mắt cho Thanh:
- Cậu cứ đội mũ không bụi! Cờlanhke (1)đổ xuống kia kìa...
Sấm cũng ngạc nhiên, thấy Thanh còn hiền lành hơn cả Gái đen và Cam tả người. Tuy vẫn còn là bộ học trò nhưng Thanh đã ra vẻ đứng đắn. Thật là một cậu giáo! Sấm chợt nghĩ đến hai thằng người nhà xếp máy đưa vào làm chấm dầu. Cả hai đều cấc lấc, nhãi con mà cũng phì phèo thuốc lá, chưa vào làm mấy ngày đã chuyện toàn "phất" con này "đá" con kia ở Nhà than, ở Kho bao, và nhòm ngó, nghe ngóng như kiểu sú doóc (2), mật thám ấy. Sấm tự nhủ: "Nếu được cả như thằng Cam hay nhà cậu này lên phụ lò thì nhẹ người và tốt cho mình bao nhiêu". Sấm hỏi Thanh mấy câu rồi bảo Cam:
- Được! Mày đưa cậu ấy ra chỗ cần cẩu ở cổng Nhà tháo chờ tao. Lò tao lại sắp "tớp" (3)rồi. Thằng Tây gấu nó đã xuống bàn giấy sạt ầm lên kia... Lại giở quẻ gì đây?
⚝ ✽ ⚝
[1] Cờlanhke: xi măng còn đóng hòn chưa nghiền thành bột.
[2] Phụ mật thám, chỉ điểm.
[3] Tớp: đứng lại, hỏng.
- Thế sao chú không cho nó ăn ít kẹo bu loong hay bánh gạch cờlanhke?
- Thôi thằng cướp! Mày đưa cậu ấy ra đi. Cứ chờ đấy. Đừng la cà đâu nhé.
Nghển nhìn về phía nhà giấy, Sấm cau mày, vẻ lo lắng:
- Cả Tây gấu hôm nay cũng xuống!
Cứ mỗi lần thằng Tây này xuống lò thì cuydơ, phụ lò, cu li không bị đánh bị phạt thì lại bị đuổi. Ba tháng nay, tuy xi măng ra gấp đôi hồi đầu năm, nhà máy lại phải lấy thêm người vào làm, nhưng chính đây lại là dịp để bọn cai bọn sếp xoay giở. Nhất là đương cái lúc mấy tàu ngoài Sáu Kho ăn vội xi măng, và nghe đâu sở lại sắp có commăng mới mà lò lại tớp thế này, bọn chúng lại càng được thể kiếm chác.
Thanh và Cam đi vội ra ngoài. Đến gần nhà tắm Thanh sửng sốt hỏi Cam:
- Thím khách sao lại thế kia?
Cam nhíu mày nhìn Thanh đi hẳn lại chỗ người con dâu cụ Coóng nằm sóng sượt. Những đàn bà, con gái, con giai ở mấy chiếc goòng chở gạch và cờlanhke đều xúm lại. Người đàn bà Tàu bụng chửa, mắt nhắm nghiền, mặt đỏ sần, miệng sùi bọt, hai tay dang ra cứ quật đi quật lại, hai bắp đùi co lên duỗi xuống cũng đập thình thịch xuống đất, cái bụng trắng căng lên, oằn oại. Người con gái bé nhỏ mà Thanh gặp ban nãy đẩy goòng và một bà có tuổi túm tóc thím khách giật giật, gọi:
- Thím Voòng! Thím Voòng! Dậy! Dậy! Dậy nào! Dậy nào!
Một bà già quét đường vẫn còn cặp cái chổi ở nách te tái chạy đến:
- Tôi có gừng đây. Ai có bát lấy gừng giã với nước tiểu xoa cho thím ấy. Nhưng xem xem bị cảm lửa hay giở dạ
đẻ đấy!
- Đẻ gì mà đẻ! Ban sáng nói chuyện, thím ấy bảo có gì phải cuối tháng sau cơ mà!
Bà cụ liền văng tục:
- Chúng mày thì còn biết cái gì! Năm kia thím ấy đã bỏ mất một đứa tám tháng rồi! Khiêng thím ấy vào trong nhà gạch kia...
Bà cụ quẳng cái chổi xuống một mé rãnh, gạt mấy người đàn bà còn cứ ồn ồn cãi nhau về những chuyện nên xoa dầu, hay không xoa dầu, cho uống nước hay không cho uống nước tiểu. Bà cụ sấn đến nới cạp quần lằn một vệt tím bầm ở bụng người đàn bà Tàu ra. Bà luồn tay vào, liền tru tréo:
- Cha mẹ ơi! Nó đóng đầu ở cửa mình đây rồi! Nước đầu ối vỡ đã ướt cả quần rồi! Khiêng đi! Khiêng ngay đi. Ra gọi xe cho thím ấy về nhà thôi. Không có Tây gấu nó đến, cả lũ lại ăn no móng giò của nó bây giờ.
Mấy người đàn bà cười rúc lên:
- Vỡ đầu ối rồi à!
- Chết, chết! Thế mà cứ cuối tháng sau mãi!...
Thanh nhìn theo đám người lếch thếch, kẻ dìu, người đỡ, người cầm hộ nón, áo, quang liễn cho người mẹ nọ. Than bụi ở bên nhà điện tạt sang càng mù mịt. Những quần áo rách và những bước chân cứ ríu lại với nhau vì gió thổi. Bà cụ quét đường đã vào nhà gạch lại quay ra, cặp cái chổi ở nách, chạy theo bọn người gọi:
- Mấy con mẹ nó ơi! Còn đôi giày của thím ấy đây này! Còn đôi giày đây này...
Bà cụ vừa gọi vừa giơ lên đôi giày to tướng bằng vải đen khâu tay, có lẽ chỉ có chân đàn ông hạng đại mới vừa, đã rách há cả miệng, chằng chịt bằng chỉ bao xi măng và cả dây thép nữa.
Thanh nức nức lên trong họng. Cụ Coóng cũng đi một đôi giày như thế. Sáng nay lúc Thanh gặp cụ, cụ đương sờ sẫm khâu một đôi nhỏ có lẽ cho con dâu.
Sấm đứng ở cầu thang nhìn theo mãi người đàn bà Tàu bạn cu li của mình nọ. Đầu óc Sấm như bị một cái kìm và là cái kìm đương đỏ bỏng ngoạm vào. Chỉ vì lẻ loi trơ trọi, không có tổ chức gì cả, chịu mãi sự áp bức nên mới thống khổ đến thế này đây. Thêm mãi thế này đây!... Tâm trí Sấm lại càng nung nấu. Sấm vào đến cửa lò, hơi lửa phụt ra rừng rực táp vào mặt mà Sấm vẫn không biết, không thấy gì cả...
Thanh và Cam ra cổng. Ở cửa nhà giấy của chủ nhì lại thêm một dãy ô tô nữa. Toàn những kiểu ở Mỹ mới sang. Có ba chiếc xe, mỗi chiếc chồm chỗm một con chó béc giê ở trên đệm, thỉnh thoảng lại nhô mõm lưỡi thè lè, nhìn láo lơ. Một chiếc cũng giống xe Thy San, chỉ khác là màu sơn đen, không có chó to mà có một con chó Nhật Bản to hơn con mèo, lông trắng mướt, mắt nhỏ như hạt cườm. Nó được mặc một thứ áo hở đầu, hở chân bằng nhung màu gio nhạt và đeo một cái vòng to như cái kiềng vàng con gái nhà giàu.
Cam đưa mắt gờm gờm nhìn, tự hỏi:
- Không hiểu chủ có việc gì mà toàn xe lạ, xe sang đến sở thế này? Cả xe chủ mỏ Hòn Gai, Lapíc, Đờvanhxy nữa.
Thấy Thanh cứ nghênh nghênh và chực đi thẳng đến bờ hè xe đỗ, Cam vội kéo giật lại:
- Đi sang bờ hè bên này kia.
Hai người ngồi ở một hàng nước chỗ thuyền than đỗ. Đây toàn khách tụ tập chuyện gẫu. Có người nằm ngủ ngay dưới gốc cây, đắp mấy cái bao giấy rách và úp nón che mặt, mặc kệ cả những cần cẩu và dây ba lăng chạy sầm sầm reo réo trên đầu. Đàn bà, trẻ con cũng nằm ngồi la liệt ở cả bờ sông để chầu gọi việc.
Cảnh bờ hè, bến sông, hàng nước, khách ngồi xổm, với ông cụ già bán nước cũng có tủ kính, vò ủ bao tải, lại nhắc Thanh nhớ đến cụ Ước. Con sông cụ đào từ ba bốn mươi năm về trước giờ đương vỗ sóng dưới chân Thanh. Cái nhà máy ông cụ làm từ ngày hàng năm mươi người phải kéo dây da cua roa để chạy máy điện, rồi ông cụ chuyển sang cũng đẩy goòng, xúc gạch, xi măng tả ở gầm lò, cái nhà máy mà ông cụ cũng bán bao nhiêu mồ hôi để sống nhưng rồi lại thấy chán nản, lại bỏ đi nơi khác, cái nhà máy mà cha Cam cũng làm từ ngày còn để chỏm đi gõ đinh và lăn thùng xi măng, rồi đến Cam mới mười sáu tuổi đầu cũng lại vào làm vất vả nguy hiểm - cái nhà máy lớn nhất của Hải Phòng ấy giờ đương nhả khói trên đầu Thanh, rung trời chuyển đất chung quanh Thanh.
Nếu cụ Ước còn sống làm ở đây hay bán hàng nước ở đây và Thanh xin được việc làm cùng với Cam thì hay biết bao! Dù lầm than nguy hiểm đến thế nào Thanh cũng lấy làm sung sướng. Sáng cùng Cam ra đi. Trưa, tối cùng Cam về tầm. Khuya, sáng sớm ngồi bếp ăn khoai luộc, khoai vùi nghe chuyện cụ Ước kể. Kể vào những ngày giở rét như ngày hôm nay, sưởi bên lửa những hôm gió đông sóng động như hôm nay.
Mới có mười giờ. Còn phải chờ những một tiếng rưỡi nữa mới tầm về! Trong người Thanh lại ê ẩm, bứt rứt vô cùng vì chờ đợi.
***
Chiếc xe tối tân giống kiểu xe Thy San, có con chó Nhật Bản mặc áo nhung màu gio nhạt đeo kiềng vàng là của Đờvanhxy.
Đờvanhxy lái lấy. Lúc y họp xong với chủ sở Xi măng và các chủ khác, y ra xe vừa mở cửa thì con chó con liền chồm ra, sủa rít lên. Y tát vào mõm con chó một cái khẽ, móc ở trong túi giấy bóng treo gần tay lái một viên kẹo sôcôla bọc sữa tung lên trước mặt con chó. Con chó nhảy, đớp rất gọn, như làm xiếc. Nó nhai kẹo ngau ngáu vừa nhìn chủ rồi lại sủa. Đờvanhxy tung lên viên nữa. Rồi y lại tát nhẹ vào cái mõm lưỡi còn lom lem nọ:
- Con Bạch Tuyết này! Mày hay yêu sách nhiều lắm! Tao nhượng bộ như thế là thôi đấy.
Chiếc xe vụt lên một cách bất ngờ. Nhiều người đẩy goòng và xúc than bổ choàng cả lên hè. Đờvanhxy nhìn lại đồng hồ đeo tay, gật đầu:
- Còn những nửa giờ nữa mới gặp Thy San. Tốt!
Thế là một phần trong công việc đã được tiến hành. Bây giờ chỉ còn một phần của ván bài chính. Theo thói quen mỗi khi làm việc đã lâu lâu hay xong một việc gì, Đờvanhxy lại phải gội đầu, rửa mặt và vừa ăn một món nhẹ, vừa uống rượu ngọt. Y lái xe về nhà, lên buồng rửa mặt trên gác. Trong khi y thay sơ mi khác, người bồi đã chực ở buồng ăn, dọn sẵn rượu, cam, lê và một món ăn nguội. Nhưng Đờvanhxy không ăn, bấm chuông gọi bồi. Y bảo lấy bao thuốc lá mới, rồi xuống bàn giấy xem qua tập hồ sơ những giấy tờ mới đệ lên. Vừa đúng 10 giờ kém 10. Chiếc xe lại vụt đi với con chó con nép vào lòng chủ.
Xe Đờvanhxy vừa tới, không cần nổi còi gì cả, cánh cổng nhà Thy San liền mở. Xe rẽ vào lối đi rải sỏi, hai bên trồng liễu và trắc bách diệp. Mũi xe vừa kề bên thềm, Đờvanhxy bước xuống, vợ chồng Thy San cũng vừa từ cửa phòng khách đi ra.
Những cái nghiêng mình, bắt tay và những nụ cười rất thân mật, trang nhã như đóng kịch ấy. Ba người vào nhà. Đó là một gian rộng như sân khấu Nhà hát Tây, tường quét một thứ sơn kim nhũ và có chỗ bọc nhung, bọc dạ. Khi những chùm đèn pha lê ở giữa nhà và bốn góc bật lên thì lại còn lung linh rực rỡ hơn. Sáu chiếc ghế đệm bọc nhung, chiếc nào cũng rộng đến hai người to béo ngồi vẫn lọt, kê trên một thảm dạ chiếm cả một khoảng giữa nhà. Hai cụm bàn ghế nhỏ cũng bọc nhung và lót vải đăng ten, kê ở phía trong với bốn chiếc đôn gỗ lát, bày bốn chiếc thống sứ trồng hoa cúc trắng. Gần cái bàn to chỗ Đờvanhxy và vợ chồng Thy San ngồi, có một bình pha lê cắm hoa lay dơn hồng. Những bông hoa lả xuống trước mặt người nhìn như những lưng thon và gương mặt làm duyên của những vũ nữ kiểu cách. Phía sau lưng Đờvanhxy treo một bức tranh lụa màu, vẽ một thiếu nữ đương cười với một đóa hoa hồng hàm tiếu. Còn ở góc tường sau chỗ vợ chồng Thy San, kê chiếc đôn bày một bức tượng cẩm thạch tạc một con hươu và người thợ săn vùng núi nước Hy Lạp. Ở chỗ cụm bàn ghế nhỏ treo một bức sơn mài cảnh một hồ sen, một ngôi chùa đương mùa xuân hoa nở. Bên ngoài cửa sổ trông ra vườn, những lẵng phong lan treo lơ lửng với những chùm hoa hoàng anh. Hai lồng chim hoàng yến thấp thoáng dưới giàn hoa, cất những tiếng hót như nhạc rung.
Giáng Hương áo nhung the màu cánh chả, tóc cài một trâm hoa nạm toàn kim cương, ngồi tiếp khách. Y không đánh phấn, tô môi, nhưng vẫn thoảng cái mùi nước hoa mà cảm giác người ta chỉ bị chạm lướt đến cũng đủ say rợn.
- Ngài thượng khách của chúng tôi! Xin cho tôi cái vinh dự được tiếp nước ngài trước khi ngài vào chuyện công việc với nhà tôi.
Đờvanhxy lại càng ngạc nhiên vì giọng nói và cách nói bằng tiếng Pháp của Giáng Hương. Đã hai lần, trong hai bữa tiệc lớn của Đốc lý thành phố và của Phòng thương mại mời dự, Đờvanhxy đã được người ta cho biết qua về người đàn bà lộng lẫy vợ Thy San kia, và cũng đã được vợ chồng Thy San chào hỏi đôi câu. Tới nay, y mới được ngồi mặt nhìn mặt và nghe Giáng Hương nói trong một phòng khách có cả một sự chuẩn bị đón tiếp có mình y. Đờvanhxy cúi đầu, tươi cười:
- Còn gì hân hạnh hơn cho tôi trong buổi hội ngộ này lại có mặt một người trang trọng, đáng mến như bà Thy San. Cái ân huệ bà ban cho tôi, cho phép tôi chối từ sao được!
- Xin lỗi ngài Đờvanhxy, ngài cho phép tôi được biết rằng ngài ưa rượu ngọt và hoa quả. Nếu như thế thì xin ngài cho phép tôi được thừa tiếp ngài theo lễ tục của phương Đông chúng tôi. Chúng tôi mời ngài xơi rượu ngọt, bánh mứt và hoa quả là mấy thứ sản phẩm đặc biệt của đồn điền chúng tôi đem ra thết vị quý khách như ngài.
- Thưa bà Thy San, bà đã chú ý cả đến những điều như thế của một người khách đến nhà thật làm tôi cảm động.
Không hiểu người bồi túc trực ở đâu mà khi Đờvanhxy vừa dứt tiếng và Giáng Hương mỉm hết nụ cười, thì y đã rón rén đi ra, bưng một khay bạc to đặt xuống chiếc bàn tròn mặt phủ vải đăng ten và lót một tấm pha lê. Giáng Hương chờ người bồi bày xong, nghiêng đầu nói với Đờvanhxy:
- Xin ngài cho tôi được phép giới thiệu thứ rượu tôi sắp mời ngài. Đó là sản phẩm của đồn điền tôi, chế bằng một thứ gạo nếp đặc biệt, gọi là rượu nếp cẩm. Nếu những rượu nho ở nước Pháp mà tôi được nghe truyền tụng quý vì lâu năm, thì rượu nếp cẩm của chúng tôi cũng thế. Xin mời ngài cầm cốc và xin phép ngài cho chúng tôi nâng cốc chúc mừng sức khỏe và sự thịnh vượng của ngài một cốc đầu tiên...
Thứ rượu cất đáng mười chai chỉ lấy ba, bốn, ngâm đặc và chôn lâu đã sánh như mật ong, nhấp nhánh trong chiếc ly cao chân. Đờvanhxy nâng cốc lên chạm cốc chúc mừng lại vợ chồng Thy San, uống cạn một hơi. Một vị thơm, say lừ bốc lên trong đầu y. Giáng Hương trỏ vào đĩa hoa quả, sau khi người bồi rót tiếp chén thứ hai cho Đờvanhxy:
- Thưa ngài, tôi lại xin phép ngài được giới thiệu thứ cam và dứa này cũng là sản phẩm của đồn điền chúng tôi. Xin ngài nếm qua cái vị cam tươi trước. Rồi đến mứt cam. Đây thưa ngài: vỏ cam là một thứ hồng cẩm thạch đằm ánh nắng mặt trời còn ruột cam thì là lòng nước suối có nắng hanh vàng giội xuống...
Đờvanhxy nghển đầu lên: cặp mắt y không thể giấu được những ánh chớp của sự ngạc nhiên. Một cảm giác nhói lên trong người y như mọi lần y bắt được một thống khoái diệu kỳ khi y nghe nhạc, xem múa hay đi một nhịp vũ phối hợp tuyệt thú.
- Thưa bà Thy San, xin phép bà cho tôi được kêu lên sự mến phục của tôi. Bà đã quá khiêm tốn, không cho tôi được biết bà còn là một nhà thơ, một họa sĩ trác tuyệt.
Giáng Hương tủm tỉm đưa mắt cho Thy San. Thy San nghiêng đầu, mỉm cười:
- Ngài quá khen Giáng Hương của tôi. Nào, thế thì mời ngài thưởng thức với chúng tôi những câu thơ và màu sắc của tấm tranh mà Giáng Hương của tôi vừa sáng tác.
Nhấp chưa hết ly rượu, mặt Giáng Hương đã phừng phừng. Đôi gò má y hừng thêm. Mắt càng sáng ấm. Nhất là cặp môi, cặp môi nhoẻn trước hàm răng trắng muốt cũng sánh như rượu vậy. Đờvanhxy nhìn, nhủ thầm:
- Cái thằng Thy San nhà quê và hãnh tiến này cũng biết dùng tiền đấy. Và nó có một món hàng tốt quá. Đồng thời một cái vốn và một con bài đáng gờm đấy!
Y lại nghĩ đến sự sống gọi là Âu hóa của vợ chồng Thy San. Chiếc ô tô Mỹ tối tân, vợ chồng Thy San và đứa con gái lớn dùng đi hiện nay là thứ bốn. Lấy Giáng Hương được ba năm, Thy San mua liên tiếp bốn chiếc xe. Chiếc thứ nhất vừa đem ra bày ở cuộc Đấu xảo vạn quốc ở bên Pháp, Thy San mua luôn. Ô tô tháo ra gửi tàu về đến Sài Gòn thì lắp chạy lên Đà Lạt. Giáng Hương ở Pháp về thăm bà cô và nghỉ hè ở đây. Một đốc tờ "bản xứ" và một trạng sư Pháp cùng hỏi Giáng Hương. Nhưng mẹ Thy San đã hỏi được. Thy San tự tay lái đưa Giáng Hương về Hải Phòng làm lễ cưới. Sau một tháng trăng mật, Giáng Hương lái xe cùng chồng đi khắp Sa Pa, Ba Bể, Tam Đảo, Thy San cho tháo chiếc ô tô chuyển xuống tàu gửi lại sang Pháp biếu người anh Giáng Hương học trường bào chế ở bên ấy. Một chiếc ô tô khác cũng vừa đem bày ở Đấu xảo lại mua luôn gửi về cho Giáng Hương. Bảo Đại và một gã công tử con nhà đại điền chủ Nam Kỳ đã tức lồng lên vì lại mua hụt...
Giáng Hương uống cạn thêm một ly rượu nữa. Đĩa mứt cam và mứt dứa cũng được khen nức nở vì độ ngọt và vị thơm giữ được bản chất của nó. Giáng Hương đưa mắt cho Thy San và Đờvanhxy:
- Thôi, bây giờ cái hân hạnh của hai ngài ban cho tôi đã đầy đủ. Tôi xin phép được rút lui để hai ngài nói chuyện công việc.
Bàn tay ấm nuột của Giáng Hương đưa ra. Đờvanhxy đón lấy, trân trọng cúi đầu chào. Sắp vào đến cửa phòng trong, Giáng Hương còn cúi đầu chào thêm và mỉm cười. Đờvanhxy lại cúi đầu mỉm cười đáp lại. Thy San và Đờvanhxy uống thêm mỗi người hai ly rượu, ăn mứt dứa rồi sang phòng bên. Đây cũng là một phòng khách nhưng nhỏ hơn. Cũng một tấm thảm dạ in hoa và một bộ bàn ghế đệm bọc nhung kê ở chính giữa. Cũng những thống sứ và vồm hoa cúc phải hai vòng tay mới ôm xuể. Khác một chút, tranh là tranh thủy mạc của Nhật Bản treo rủ từ trần nhà xuống, và tượng là một bức tượng Phật bằng vàng. Chỗ góc bên phải phòng có một tòa đền Ấn Độ bằng vàng cao đến hai mươi phân tây bày trong một lồng phalê kê trên một chiếc đôn gỗ trắc. Ánh sáng trong phòng này dịu hơn với những ngọn đèn hình bạch lạp và rèm cửa bằng trúc mà phong cảnh ghép trong mành là cảnh sơn thủy, đền đài Nhật Bản.
Thy San đưa thuốc lá mời Đờvanhxy. Đờvanhxy xin phép hút thuốc lá riêng của mình. Y vào cuộc trước:
- Thưa ngài Thy San, xin ngài cho tôi biết ý kiến của ngài về cái dự định công việc mà chúng tôi đã có lần trình bày với ngài.
Thy San trầm ngâm giây lát rồi mở hai cánh tay ra:
- Xin lỗi ngài Đờvanhxy, xin ngài cho được biết cụ thể thêm về dự định ấy để tôi suy nghĩ và có thể trả lời ngài một cách chín chắn.
Đờvanhxy gạt tàn thuốc xuống cái đĩa bằng đồng hun của Cao Miên. Y nhủ thầm:
"Còn cụ thể đến thế nào nữa?! Phải chăng mày muốn đặt bất kỳ điều kiện nào chúng tao cũng phải nhận và lợi tức của cuộc kinh doanh sẽ về phần mày theo kiểu cung tiến cho