← Quay lại trang sách

Sóng Gầm Chương 6

Thanh tính toán mãi cũng không còn thấy cách nào làm gian nhà rộng thêm để thu xếp đồ đạc cho gọn ghẽ, mỹ thuật hơn được nữa. Thế là mất luôn mấy đêm Thanh lại không ngủ được vì cái lớp học nọ.

Thanh đã được bốn đứa học trò. Rồi đây trong xóm còn nhiều nhà nữa đến nói với Thanh dạy con cháu họ học. Cái gian bên cạnh mà mụ đội Nhị chữa lại, Thanh kê nhờ bộ bàn ghế vừa đúng hôm trước thì hôm sau mụ lấy lại cho thuê, tuy nền đất vẫn còn ẩm sì, vách trát bùn khi ấn tay vào vẫn còn nhoét ra, và chưa có ai thuê cả. Bộ bàn ghế để mở lớp Thanh cũng phải mượn. Cái bàn dài thước rưỡi. Cái ghế lại ngắn hụt đến mười lăm phân. Hai thứ đều của bõ Quý mà mẹ Thanh nhờ bá Chính mượn hộ. Bõ Quý có hai thằng cháu gọi bằng ông bác ở nhà quê ra. Ý định nuôi chúng ăn học nhưng bố mẹ chúng vừa thương con đi xa vừa thấy ra vào trại cụ Cố khó khăn quá thể, nên lại đưa con về. Thực ra thì hai thằng bé nọ đều khiếp ông quá, nhất là ban đêm phải nằm với ông, nhìn cái đầu nhọn của ông, cái bộ mặt và cái bóng người của ông, nhìn cái chân gỗ của ông, gai gai lạnh lạnh vì cái hơi của ông. Và chúng khiếp cả đàn chó nữa. Mấy con chó nọ hiểu cả ông gọi, ông nói, ông quát, ông khen, ông nựng, ông huýt còi, ông lắc chùm chìa khóa, ông sùy, ông cho ăn, ông bảo cắn, ông bảo ngủ, ông bảo mừng... Mấy con chó còn tinh khôn hơn cả anh em nó, hơn cả người ta ấy!

Bộ bàn ghế bõ Quý cho Thanh mượn cũng là của một người gác cổng. Người gác cổng này bán lại cho bõ Quý chỉ lấy có một đồng bạc. Đồng bạc lúc đếm nhận lại chỉ có chín hào rưỡi. Nhưng cái ông gác già còn hơn bõ Quý đến chục tuổi ấy, đã cười như mếu: "Thôi thưa cụ, cụ cho cháu chín hào rưỡi cũng là đủ một đồng ạ!". Vì ông cụ chờn chợn chỉ sợ bõ Quý đổi ý không mua nữa. Ông gác già ấy được bộ bàn ghế như là người bắt được vàng trên giời rơi xuống. Cái trường tư ông cụ quét tước và gác cổng bị vỡ nợ. Không hiểu sao bộ bàn ghế nọ lại không bán tầm tầm, cứ bỏ lay bỏ lắt ở gần nhà xí. Hôm ông lão lệch khệch vác bộ bàn ghế ra cổng đem về nhà mình cứ run cả người, mấy lần đầu gối chực khuỵu xuống. Bõ Quý mua lại bộ bàn ghế cho xe về với xe củi, cũng bỏ lay bỏ lắt ở sau nhà củi. Hôm Thanh và thằng La đến khiêng, bá Chính phải đứng ra cam kết Thanh sẽ mua lại cả bàn ghế với cái giá là đồng rưỡi và xin chịu tiền xe cho bõ Quý.

- Ừ như thế là ta bán chịu cho... Nhưng phải sớm sớm giả tiền ta có gì ta sẽ bớt cho. Thôi! Cho khiêng đi...

Bõ Quý ngửa mặt lên giời, cười khằng khặc, gật gật cái cằm nhọn và nhẵn thín, vẫy vẫy cái roi song đầu bịt đồng, cho phép mấy người làm ở nhà bếp mở cổng sau để Thanh khiêng bàn ghế ra, và lão xua vào nhà hai con chó lài chỉ rình được lệnh lão là chồm vào những người động chạm đến đồ của chủ nó.

Hôm Thanh cùng thằng La khiêng bộ bàn ghế về nhà rồi tìm chỗ kê xong, chưa bao giờ Thanh mừng và sung sướng đến như thế. Thanh kê ở giữa cái gian nhà bên cạnh mới chữa lại; cái bàn gần cửa, ánh sáng chênh chếch chiếu vào; cái ghế cạnh vách nhà Thanh. Rồi Thanh cứ chốc chốc phải ngừng đọc sách trông sang ngắm nghía!

Ba đứa học trò đầu tiên là thằng La, thằng Côn và cái Bưởi con bác Sấm. Thằng Côn ngồi một đầu, thằng La ngồi một đầu, cái Bưởi ngồi giữa. Thằng Côn và cái Bưởi ngồi vừa xinh. Thằng La nhớn, cái ghế lại cao, cái bàn vừa hẹp vừa thấp, nên khi nó viết phải khuỳnh cả tay ra ngoài bàn, tay trái thì bỏ xuống đùi. Đứa nào cũng bắt đầu học I - U - T - Ti - Tu. Thanh đã tưởng bài học sẽ khó khăn nhất với cái Bưởi, ngờ đâu lại là với thằng La. Nhưng viết thì hôm trước Thanh vừa cho La tô những nét gạch, hôm sau Thanh đã phải viết cả chữ cho La. Nét nó rắn, đúng in vào chữ viết chì, dòng sạch sẽ gần như là chữ của đứa đã viết tập thạo.

Ba đứa học trò! Ba chỗ ngồi vừa vệ sinh cho chúng nó, vừa đẹp mắt khi có người nhìn vào hay vào nhà chơi. Sau hôm chuyển bàn ghế về nhà mình, Thanh cứ phải nghĩ, phải tưởng tượng, phải đo, phải tính, có khi bỏ cả ngủ, cả đọc sách, bỏ cả bữa ăn mà vẫn không ra. Nguyên cái gian nhà chiều rộng đúng ba bước, chiều dài đúng năm bước rưỡi, thì đã kê cái giường của mẹ Thanh, cái bàn để sách vở, ấm chén, cơi trầu, và cái chõng của Thanh. Khoảng trống lấy chỗ cho bộ bàn ghế học trò chỉ còn cái rẻo ra vào và cái quãng ở giữa giường mẹ Thanh và chõng Thanh. Nhưng chả nhẽ kê rồi thì ra vào bằng cách trèo qua bàn qua ghế, đi trên bàn trên ghế, hay muốn lấy cái gì ở bàn thì đứng trên giường trên chõng mà với. Thanh cũng đã tính kê cái bàn gần cửa ra vào nhưng ở đây ánh sáng bị lấp bóng bên tay phải, cái Bưởi ngồi giữa không còn viết lách gì được. Thanh lại chuyển cái bàn ra trước chõng, lấy chõng làm ghế cho học trò ngồi. Nhưng đây cũng lại phải cái tội tối. Ánh sáng chiếu không tới. Giữa ban ngày nhìn chữ chỉ thấy lờ mờ. Và ngồi chõng thì chỉ vừa với thằng La, còn cái Bưởi và thằng Côn lại bị cái bàn cao quá. Thanh đã lấy cả chồng sách báo kê đít cho hai đứa, chúng nó chỉ cựa quậy, nhấp nhổm một lúc là tuột hết sách báo xuống đất.

Cuối cùng Thanh phải cứ đến giờ học thì bỏ chõng ra ngoài sân để lấy chỗ kê bộ bàn ghế học trò. Cái bàn trông ra cửa. Ánh sáng như vậy vừa đủ. Thôi thế là lớp học vừa kín đáo, vừa gọn ghẽ. Kể yên thì cũng là yên. Rồi đây nếu thêm mấy đứa học nữa Thanh sẽ phải xếp cất đi tất cả các thứ trên cái bàn vẫn bày sách, ấm chén, cơi trầu. Thứ nào có thể treo thì cho vào quang treo. Thứ nào để được ở gầm giường thì cho vào thúng. Cái bàn sẽ là bàn học. Giường mẹ Thanh sẽ là chỗ cho hai đứa ngồi. Cái chõng lại phải đưa vào nhà, kê gạch cho cao lên để làm ghế. Những đứa lớn ngồi viết trên bàn hay ở mé trong đành phải chịu lấp bóng. Nghĩa là... đâu vẫn hoàn đấy. Cả thầy lẫn trò phải cố mà chịu sự chật chội, tối mờ, trừ phi có hẳn một gian nhà khác hay mở hẳn một cái trường...

Thanh vẫn cứ nhìn chỗ bức vách áp giường mẹ Thanh. Nếu Thanh được mở một ô cửa ở đây. Một ô cửa chỉ bằng cái bảng con thôi để lấy thêm ánh sáng vào. Rồi Thanh sẽ nhờ Gái đen, bác Sấm mượn cho hai cái ghế đẩu kê bên bàn. Như thế vẫn mỹ thuật! Vẫn gọn!

- Lạy cậu ạ ạ ạ...

Có tiếng đàn bà chào từ ngoài cửa, đằng sau là một thằng bé tóc bờm lên, mặt nhăn nheo cóc cáy.

- Con chào cậu giáo đi chứ, Nghĩa!

Thằng bé đã không chào lại còn kéo kéo áo mẹ, nháy

nháy cười:

- Học ở nhà bà đi đạo adimen này à?

Người mẹ vội nói to lên:

- Nghĩa! Con chào cậu giáo đi!

Người mẹ lùi lại, đẩy thằng bé vào trước. Thanh ngước nhìn:

- Tướng nghịch con bà Nghĩa rằng đây! Đã tướng La lại thêm tướng Nghĩa!

Thanh mời bà Nghĩa ngồi xuống giường mẹ Thanh. Nhà chẳng có nước chè nước vối gì cả, Thanh ngượng nghịu. Thanh lại càng ngượng nghịu vì thằng bé mắt cứ trô trố nhìn hết chỗ nọ đến chỗ kia. Nó có vẻ thích thú nhất là nhìn cái chỗ ban thờ trên đầu giường mẹ Thanh. Thanh lại phải nghĩ đến cái nghịch ngợm khét tiếng của Nghĩa. Chính hai thằng Nghĩa, La đã làm mấy đêm loạn cả xóm. Nghĩa trần trùng trục, trát bùn ao từ mặt xuống chân, ngồi trên cành đa ở xóm trong, lối đi về của các người làm Sáu Kho. Trời sáng giăng suông, Sáu Kho có tàu to về, xuống hàng đêm. Nghĩa đón đợi mấy bà già và mấy ả có tiếng là đanh đá, buôn giỏi và hay đồng bóng. Khi bọn này sắp đến cái cầu đá gần miếu Chè, Nghĩa bám lấy những chùm rễ đa đu người xuống lủng lẳng như người thắt cổ giữa đường.

Các mẹ thét lên, hú hú kêu gọi làng nước không còn ra tiếng. Nghĩa đuổi theo, thình thịch bước chân, thở rền rền. Đuổi một quãng thì rẽ vào rặng ruối biến mất. Mấy mẹ nọ phát ốm phát sốt. Điện thờ ông Hoàng Ba nhà mụ đội Nhị lại đông như vào hè.

Cũng lại chờ đến khuya, khi người đi lễ lẻ tẻ ở điện về, Nghĩa lại trần truồng trát bùn, ngồi trên cây si ở cuối ngõ chờ họ đến thì rú lên, nhảy xuống đuổi. Trong điện mụ đội Nhị, thằng La và mấy thằng nữa chực ở đằng sau bờ giậu. Lúc bọn bị đuổi kêu thét chạy giở lại, và bọn ở trong điện đổ ra, thì tụi thằng Nghĩa, thằng La thả cửa nẫng các thứ hoa quả bánh kẹo và vét cả tiền ở các khay trầu thuốc lá. Hôm sau tụi chúng kéo nhau đi hết. Nghe đâu chúng sang những núi Voi, đền Dế ăn uống với nhau.

- Thế này thì còn giời đất thiên địa nào nữa?! Con cái con mẹ La sát, con mẹ Nghĩa rằng chúng nó phá xóm đây. Điệu chúng nó ra bóp Ngã Sáu cho ông sếp Bảy mề đay săng tan chúng nó một trận thì mới được.

Câu nói của mụ đội Nhị và mấy mụ giàu có hay cúng bái trong xóm đến tai mẹ La và mẹ Nghĩa. Một buổi sáng, người ta thấy mẹ La đứng ở giữa đường lối vào ngõ. Tóc mẹ búi ngược, cạp quần xắn để trễ cả lườn ra, ống quần một bên kéo xếch. Người ta lại tưởng mẹ đón lão La và lại có chuyện xảy ra vì công nợ, vì tiền rượu, tiền xóc đĩa, tiền ăn chịu mà hôm qua là kỳ tiền. Nhưng không, mẹ La vẫy tay về phía nhà đội Nhị mà chửi:

- Nào thằng nào con nào đe bỏ tù con bà thì ra đây cho bà xem mặt nào! Đương lúc mẹ con bà túng đói, lại được chúng nó đưa con cái đi cho đề lao nuôi cơm thì còn gì hơn nữa! Ra đây, cứ ra mặt đây với bà.

Mẹ Nghĩa không thế. Như thường lệ, mẹ ra hàng cơm gánh bà lão còng ở đầu ngõ. Mẹ bảo rót thêm cho mẹ năm xu rượu đúng một chai Con hươu. Mẹ rót cả ra bát uống làm hai ngụm. Mẹ thủng thẳng:

- Con dại thì cái mang. Hàng xóm láng giềng có chuyện gì không nên không phải thì gọi mà bảo nhau. Động một tí thì lên cẩm lên bóp, động một tí thì tòa án, đề lao. Chúng mày tiền nhiều của lắm, thần thế đến thế cơ à? Nghĩa rằng thì là đây nhà nhất gian ở thuê, gạo chạy nhất bữa, quần áo nhất manh... thân danh chỉ là con mẹ đội than ở Sáu Kho. Nhưng mà chúng mày mà động đến lông chân con bà thì...

Choang... cái chai Con hươu ghè mạnh vào cột đèn. Mẹ Nghĩa lại gọi rót thêm hai xu rượu nữa vào bát, uống làm một hơi rồi đặt cái chai cụt cổ, nhọn hoắt, lởm chởm ở bên người. Mẹ bắt chân chữ ngũ ngồi chờ. Bọn du côn, bấu sấu ăn uống ở hàng phố trước đấy, lè lưỡi, đưa mắt cho nhau:

- Tôn Nhị Nương và Cố Đại Tẩu ở xóm Cấm đấy!

Một thằng cầm chai rượu đang uống ra nhăn nhở hỏi:

- Mẹ Nghĩa có "diễn" (1)nữa đàn em rót thêm vào.

Mẹ Nghĩa hắt tay thằng nọ đi, bậm mặt lại:

- Không trẻ con! Có tiền thì uống.

- Thế mẹ Nghĩa cho đàn em "phõ" (2)một chén vậy?

- Cũng chẳng làm gì có mà cho. Có đi với Tây với Tàu

ăn chặn ăn đút, bô báo kiếm chác, thì mới phóng tiền như thế được!

Thằng nọ tỏn hoẻn cái mặt, về chỗ cũ.

- Hắc ghê! Cáy (3)ghê.

⚝ ✽ ⚝

[1] Diễn: rượu.

[2] Phõ: xin xỏ, ghé gẩm.

[3] Cáy: sợ, khiếp.

Mụ đội Nhị tím mặt lại. Mụ bảo với mấy người quen:

- Không thèm dây với hủi. Nhưng hủi cơm không muốn ăn lại muốn ăn cứt thì được ăn cứt...

... Thằng La học Thanh như thế là được nửa tháng. Hôm nay thêm thằng Nghĩa. Cũng lại mẹ dẫn đến. Có lẽ mẹ Nghĩa đã mấy chén rồi nên hơi cồn cứ phào ra theo tiếng nói:

- Thưa với cậu giáo, cháu cậu nghịch lắm ạ. Không phải là nhà cháu nuông con đâu. Cậu xem đây này...

Người mẹ kéo xếch cánh tay áo thằng con lên. Thằng Nghĩa ẩy ẩy vội tay mẹ. Nhưng người mẹ cứ vén sau lưng áo nó lên:

- Cháu mà đã đánh thì đánh phũ lắm ạ. Lằn nhớn lằn bé, lằn dọc lằn ngang... sẹo đầy cả lưng đây. Thưa với cậu bố cháu mất từ năm cháu cậu còn ẵm ngửa. Bố cháu cũng làm ngoài Kho. Cháu ở vậy nuôi con thế là mười hai năm. Túng đói thì túng đói nhưng mẹ con tịnh không hề vác rá nhờ cậy họ hàng bữa gạo nào. Cháu nghĩ có đói thì thắt cho chặt thêm nữa cái thắt lưng lại, có khổ thì cắn răng nữa lại chịu mưa chịu nắng, thức đêm thức hôm mà đội than đội đất. Mẹ con cứ lần hồi với nhau, không quỵ lụy ai cả. Nghĩa rằng thì là sau này cháu cậu nó lớn lên, nó không còn nói mẹ được câu nào. Còn họ hàng nhà nó cũng không nói cháu được câu nào!...

Thằng con lại giật giật áo người mẹ. Mặt nó nhăn nhúm càng nhăn nhúm. Nó nhìn người mẹ một cách rất là khổ sở. Người mẹ bé nhỏ, da mặt mốc như da cẳng gà chọi, tóc như những sợi cước đã bạc quá nửa, lốm đốm từng mảng trắng, khăn vấn thì trễ gần xuống tai, thòi ra cả cái độn nhỏ như đuôi chuột chỏng lên đỉnh đầu. Người mẹ nhả bã trầu lại bỏm bẻm nói, giọng càng tươi càng đặm:

- Thưa với cậu giáo, tam tứ phen cháu đã cho thằng tướng nghịch này nó đi học rồi. Chắc vì cháu cậu chưa đứng đầu đứng số, chưa hợp thầy hợp bạn, nên xin học đâu cũng chỉ được lâu lắm là mươi ngày nửa tháng và đến bây giờ cũng vẫn chưa được chữ nào. Cậu giáo quen biết bên cụ Ước, cụ Cam, mà chỗ cụ Ước, cụ Cam, bà Gái, tiếng rằng là người tứ phương thiên hạ nhưng từ ngày nhóm rau nhóm bếp thuê đất làm nhà ở cái xóm này thì cháu cũng coi như là thân tình ruột thịt vậy. Nghĩa rằng thì là bán anh em xa mua láng giềng gần, ăn nhạt mới thương đến mèo, có nghèo mới biết cảnh nghèo ra sao... Nghĩa rằng thì là hôm nay đưa cháu đến với cậu giáo để nói với cậu giáo cho nó được ăn mày cậu lấy dăm chữ thánh, nghĩa rằng thì là...

Thanh còn đương bời bời lo tính đến việc dạy bảo khi hai tướng gần nhau thì người mẹ đã cởi ở bao lưng ra tờ giấy bạc một đồng:

- Nghĩa rằng thì là thưa với cậu giáo, trước lạ sau quen, trăm sự cháu nhờ cậu giáo cả. Cháu vừa lĩnh tiền, cậu thấy cháu cậu nó phải những giấy bút sách vở gì thì cậu mua cho, và xin cứ là cho cháu gửi cậu trước tháng học.

Thanh giật mình, toát mồ hôi trán:

- Thưa bà... thưa bà... sách vở của cháu không có gì đâu ạ. Chỉ cần một quyển vở cho cháu tập viết, một quyển nữa để viết bài cho cháu học. Như thế chỉ phải mua một thếp giấy và một cái bìa đóng làm hai quyển. Sau này phải học đến địa dư, sử ký, thì mới phải mua sách. Nhưng là về sau...

- Thì cháu đã thưa với cậu giáo, cậu giáo cứ mua trước cho cháu cậu các sách ấy cũng được. Rồi có thiếu cứ bảo cháu. Cái nết cháu vốn không giữ được tiền, thầy tướng nào cũng đều bảo như thế. Mà cháu cũng chẳng bao giờ có tiền mà giữ! Vậy đầu kỳ tiền cháu xin cứ là gửi cậu giáo trước. Nghĩa rằng thì là...

Thằng Nghĩa đã lủi ra phía ngoài; khi người mẹ nói xong chợt quay lại thì thằng con đã đi đâu ấy. Mẹ Nghĩa cười:

- Đấy cháu đã thưa với cậu giáo, cháu cậu là nó nghịch lắm. Xin cậu cứ việc là đánh thật lực cho. Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn, yêu cho vọt ghét cho chơi, cậu giáo đánh bao nhiêu là ấm vào thân cho cháu cậu bấy nhiêu, là thương cái cảnh cháu bấy nhiêu...

Ngoài ngõ tiếng chí chóe, hò hét, reo cười lại loạn lên. Nghĩa và La đương quần nhau, bụi đất mù đường, quần áo bươm ra, tranh nhau với lũ trẻ hàng xóm quả bưởi phơi khô bọc giẻ làm bóng đá. Các xe cộ, các hàng rau đậu, quà bánh đều mỏi miệng kêu hét vì quả bóng văng cả vào mặt mũi đồ hàng của họ. Bọn hai ông tướng có đứa quần xoạc ra, tay phải túm túm lấy chỗ quần rách mà vẫn cứ húc vào tranh bóng, đâm vào cả các gồng gánh xe cộ...

***

Cái Bưởi giơ hai bàn tay lên xòe ra. Thanh cụp ba ngón của Bưởi lại, hỏi:

- Mười ngón tay gập lại ba ngón còn lại mấy ngón?

Con bé đếm từng ngón còn xòe lên:

- Một hai ba bốn năm sáu bảy... thưa cậu còn bảy ngón.

- Như thế thì mười trừ ba còn mấy?

Bưởi đáp ngay:

- Còn bảy.

Thanh trỏ Côn:

- Có đúng mười trừ ba còn bảy không?

Côn gật đầu. Và Côn cũng giơ hai bàn tay xòe lên mười ngón, cụp lại ba ngón rồi cũng đếm:

- Mười trừ ba còn bảy.

Nghĩa và La ngồi học ở cái bàn trước giường mẹ Thanh, nhìn Bưởi và Côn làm tính bằng ngón tay khoái chí cười. Hai tướng đã làm được tính ngay trên con số. Mới có một tháng, cả hai đều làm thạo tính cộng ba hàng có nhớ một và làm tính trừ số trên nhỏ số dưới to. Thanh cũng phải cho hai tướng học bài riêng. Thằng Nghĩa tuy học sau nhưng đã qua nhiều thầy nên mấy bài đầu Thanh chỉ bảo qua. Thanh viết đảo chữ này qua chữ khác, lộn đi xoay lại, hỏi rất kỹ thì Nghĩa đều nhớ. Thành ra tướng Nghĩa không những theo kịp tướng La mà lại còn vượt. Hôm nay hai thằng học đánh vần trắc. Còn tập viết thì không phải viết tô mà viết theo chữ mẫu ở đầu dòng.

- Cậu chấm bài cháu.

- Cậu chấm bài cháu ạ...

Cái Bưởi để thằng Côn, thằng La đặt vở xuống bàn, nó không nói gì cả, đến sau nhưng lại đặt lên trên cùng rồi đứng lại sau chỗ Thanh, ghé cặp mắt to hó nhìn thằng La, cười. Mắt con bé đen láy sáng thêm khi những chữ Đ to bằng mực đỏ phê đậm lên từng ô tính của vở nó. Khi Thanh phê ra ngoài rìa con số 10 trên và con số 10 dưới cách nhau một gạch ngang đẹp như hai nhánh hoa ở vở Bưởi thì Bưởi ngước nhìn cả La và Nghĩa cười chúm hẳn miệng. Hai tướng làm sai mất hai ô được có 7 điểm. Mà lại ở con số dễ. Một tướng: 2+0+5 lại thành 17. Một tướng 9-2 lại còn 6. Cầm vở về chỗ ngồi, Nghĩa hích khuỷu tay vào sườn La:

- Tại mày đấy!

La hích lại:

- Tại mày thì có! Đâu con cánh cam của mày đâu?

- Cất nó vào hộp diêm rồi.

- Chốc nữa tao về lấy chỉ buộc tung dứ cho mèo vồ nhé!

- Nhưng đá bóng đã.

- Không! Ra đầm hôi cá.

- Người nhà con mẹ bà sờ già tát cá à?

- Không! Nhà thằng đội lợn ỷ.

- Chuyến này cá đuôi cờ thì đổi bi. Còn cá bống, rô, diếc, tép, gọi chúng nó thổi cơm ăn.

- Làm gì có gạo?

- Có. Hôm qua tao láng cháng ra Kho được những một

ống sữa.

- Giấu ở đâu?

- Ở miếu ngoài nghĩa địa, dưới chân bát hương, chỗ đất ông lão mù bán cho trại con mẹ sờ giả làm đầm sen mà bác con ông lão chết ngồi rồi mối đùn lên ấy.

- Thằng cháu ông lão ấy nó khui ra thì sao?

- Nó tốt lắm! Hôm nay nó cũng hôi chung với cánh mình, rồi cùng làm cỗ chén với cánh mình. Nó bảo nó cúng thầy nó. Nó có cả chuối nữa.

- Tối nay mày có đi bánh không?

- U tao bảo nghỉ xem sao đã. Đi rạc cả cẳng, lắm hôm còn ế nửa chõ bánh phải đem về nhà ăn trừ bữa...

- Thế nào cũng rủ thằng cháu ông lão mù đi hôi cá ra miếu làm cỗ đấy!

- Đánh chén xong thì đến chiều đi đá bóng.

- Đi ngay. Thua ngoài phố "đơ dô" (4)cay lắm. Hôm nay phải cựa dữ vào.

- Tao đã có hai thanh tre buộc vào "ti bìa" (5)với cái xà cạp của u tao. Tao "mác kê" (6)em thằng Ba lé, cháu mẹ đội Nhị cho.

⚝ ✽ ⚝

[4] Hai không.

[5] Xương ống cẳng.

[6] Kèm.

- Mày xoàng lắm. Cứ chân không cựa mới kền chứ.

- Nhưng nó cứ đi giày bốttin.

- Kệ, tao đã kiếm được một đầu đạn cát tút to. Tao buộc vào ngón chân cái giả làm chân bị lên đinh. Rồi lúc lấy bóng, tao sẽ thúc cho cu cậu một cái vào giữa "ti bìa" thì cứ là cho thấy ông bà ông vải. Ấy, tao vừa học được cái đá song phi bàn long khước của Phương Thế Ngọc, hôm kia tao đi lậu vé xem tích Phương Thế Ngọc đả lôi đài ở dưới rạp Văn Minh ca quán ấy...

- Ông cho chỉ là nói phét. Song phi bàn long khước hay là êu êu bàn long khước của Phương Thế Vện hở thằng Eeng?

Hai thằng lại thụi nhau và phải đút cả vạt áo, cả nắm đấm vào mồm mà vẫn còn cười sặc lên.

- Nghĩa và La, nô mãi! Sắp sửa đọc bài.

Thanh gõ gõ nhẹ cái thước kẻ lên đầu Nghĩa và La. Thanh gọi La trước, La đứng dậy:

- Thưa cậu cháu đọc.

Nó hỏi để có thời giờ lấy cánh tay áo chùi bọt mép. Thanh gật đầu. La giở cuốn vở, lấy giọng ngâm nga:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.

Thanh gõ thước:

- Thôi! Đánh vần chữ bằng.

La vươn cổ đánh vần. Thanh lại gõ thước:

- Đánh vần chữ trắng.

La đánh vần to hơn. Đến lượt Nghĩa, giọng Nghĩa khàn, rè rè:

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Thanh gõ thước:

- Đánh vần chữ chẳng.

Nghĩa ngắc ngứ, phải dò dò từng chữ. Tóc Nghĩa cợp vừa trùm xuống gáy vừa bết xuống trán, khiến gương mặt Nghĩa càng tợn. Nhất là cặp môi và cái mũi. Cặp môi thì vều lên, cái mũi thì nhọn vểnh. Thêm đôi mắt ti hí nhanh như cắt, trông Nghĩa càng thấy nghịch ngợm lém luốc. Nghĩa còn lấm còn bẩn nữa. Mẹ Nghĩa có tắm cho Nghĩa xong, diện cho Nghĩa áo sơ mi trắng cổ bẻ cộc tay, quần đùi xanh, nhưng chỉ thoáng cái, không bùn đất thì cũng gạch non, nhựa cây ở đâu trạt vào rồi. Điều này làm Thanh khổ tâm hết sức. Trong vòng có hơn tháng, Thanh đã có sáu học trò. Cái tiếng khéo dạy trẻ, trẻ vừa chịu khó học, vừa học mỗi ngày một biết, cứ truyền đi khắp xóm. Nhưng phải cái thằng La, thằng Nghĩa đã nghịch lại bẩn, cứ như ma chôn ma vùi. Học trò trường tư ngoài phố và những con nhà giàu xóm trong xóm ngoài hễ thấy Thanh lẹp kẹp đôi guốc qua nhà, chúng nó lại chắp hai bàn tay xòe ra ở đầu mũi phẩy phẩy:

- Cậu giáo thằng Nghĩa, thằng La đấy! Cậu giáo của Tề Thiên Đại Thánh và Trư Bát Giới đấy!

Những lúc thằng Nghĩa và thằng La, đặc biệt là thằng Nghĩa, nghe Thanh nhắc nhủ, giọng nói xót xa, buồn bực, Nghĩa đã xị mặt ra, mắt mũi cúp xuống, rất ăn năn hối hận. Nhưng chỉ thót ra đường một lúc, Nghĩa lại như ở dưới cống, ở xó bếp móc ra. Thanh chỉ còn biết tự nhủ: "Thôi để nó sửa dần vậy. Nó đã chịu khó đi học không bỏ buổi nào, bài nào về nhà cũng đọc làu làu cho mẹ nghe, như thế là một bước khá lắm rồi!".

- Cậu cho cháu thêm tính về nhà cháu làm.

Chờ chấm xong bài các đứa, thằng Ly mới sẽ sàng nói với Thanh. Ly lớn nhất trong bọn. Lớn cả tuổi cả người. Mới mười bốn mà Ly vậm vạp tưởng như mười bảy, mười tám. Nét mặt rắn rỏi; khi nhìn vào ai cũng giữ một vẻ dè dặt xét nét; bước đi ục ịch, Ly lại còn ít nói nữa. Không phải chỉ trong lớp mà ở nhà Ly cũng thế, ai hỏi mới bắt chuyện và chuyện thì chỉ vài câu. Không thấy Ly cười đùa với trẻ chung quanh. Buổi sáng Ly đi học thì mẹ Ly đi hàng. Buổi chiều Ly đi hàng thì mẹ Ly đi chợ mua các thứ. Bà Ly bán cơm gánh ở đầu ngõ. Anh em Ly vào học sau Nghĩa mấy hôm.

Thanh ngước nhìn Ly đứng ở mép bàn phía ngoài, quyển vở thập thò không dám đặt xuống bàn. Thanh cười:

- Ly làm thêm tính và viết tập thêm trang nữa?

Ly "vâng ạ" mở vở ra:

- Thưa cậu bao giờ thì cháu được làm tính nhân, tính chia?

- Sáu tháng nữa.

Nghe Thanh nói, Ly lặng hẳn người đi, nhìn Thanh, run run. Thanh vội xoa đầu Ly:

- Cháu học nhanh thế cậu hết chữ mất!

Nét mặt Ly tươi ngay. Đôi mắt non và bị lông quặm nhấp nháy. Cái miệng dau dảu chúm chím. Ly vừa cười, vừa ngọ nguậy cái đầu bút chì cắn mím ở miệng:

- Tháng sáu cậu mới cho cháu làm tính nhân tính chia?

Thanh bẹo bẹo má Ly, lại làm ra vẻ đo đắn:

- Tháng sáu, ừ phải sáu tháng nữa!

Cặp mắt ngờ vực, khẩn khoản của Ly càng lấp lánh

làm Thanh thêm rưng rưng trong người, Thanh đặt tay lên vai Ly:

- Hết tuần này thôi thì cậu bắt đầu dạy sang tính nhân tính chia cho cháu. Trước khi vào hai phép tính này thì cậu cho cháu học cửu chương. Vừa học vừa làm. Cả tính chia cũng không khó đâu!

Ly toét miệng cười, cúi mặt xuống. Ly cũng vui sướng, một niềm vui sướng không gì so sánh được và chưa bao giờ Ly có từ khi Ly có trí khôn biết lo toan đỡ vực việc nhà. Ly bồ côi cha. Cha Ly đốt lửa ở tàu Quân An, chết năm Ly chập chững đi. Tàu ngày hai mươi chín Tết chở đầy quá. Toàn những phu phen ở Vàng Danh, Uông Bí, Cẩm Phả min, Cẩm Phả bo, Đông Triều, Mạo Khê về quê Nam Định, Thái Bình ăn Tết. Nguyên những hòm xiểng, võng chiếu, quang gánh nổi trên sông vớt hàng tháng không hết. Cả lá gói bánh nữa. Cảnh tha hương cầu thực và tiếng gọi của quê cha đất tổ ngày năm tận tháng cùng đã kéo hàng nghìn con người chen nhau mà xuống tàu dù biết tàu ọp ẹp quá rồi, chở nhiều quá rồi, và mại bản chỉ cốt thu nhiều tiền. Luồng đường về Nam Định, Thái Bình hôm ấy chỉ còn chiếc tàu nọ chạy và ngày hai mươi chín năm ấy lại lấy làm ba mươi.

Cha Ly được Ly và thằng Định. Mẹ Ly có một đời chồng trước và được một con giai. Người này có vợ có con và cũng làm tàu. Anh làm đường Hướng Coỏng, Hải Phòng, Hối Nàm. Ngày giỗ cha Ly mới đây, vợ chồng anh mời Thanh ăn cỗ và nói xin cho hai em theo học. Lần đầu tiên, Thanh ăn uống ở một nhà trong xóm và chuyện với nhiều người. Bữa đó, Thanh phải uống một chén mống rượu mà người tiếp cho Thanh là ông cụ Cam và bác Sấm. Hôm đó vừa đúng một tháng, sau ngày Thanh khỏi ốm.

Thanh là người đầu tiên vỡ lòng cho anh em Ly.

Khi Thanh cầm lấy vở, Ly men mén lại đằng sau Thanh. Thanh ra thêm cho Ly hai tính cộng, hai tính trừ. Tính cộng bốn hàng mỗi hàng bốn con toàn những số từ 6,7,8,9 và 0. Còn tính trừ Thanh đặt lắt léo những con số 0, số 2, số 3 lên trên những con số to với hai ba hàng luôn như thế. Ly ghé nhòm, vẻ mặt Ly cứ nở thêm mãi. Đến viết tập thì Ly ngứa ngáy quá. Ly chỉ muốn được viết ngay theo chữ mẫu mà Ly thấy sao Thanh tài thế. Những chữ T và S, những con số 3, số 8 ở các đầu dòng, Thanh viết chì trông cứ như hoa như bướm. Thanh dặn Ly từng nét nào cần thon cần nhỏ, nét nào phải uốn phải đậm, phải sổ mạnh.

Nhìn nét mặt Thanh chăm chắm khi ra bài cho mình, bao nhiêu tinh thần của Thanh đều dồn lên đôi mắt sáng trên nước da xanh mái và những lằn gân thái dương, Ly càng thấy mến thấy quý Thanh. Không phải vì Ly nhớn nên Thanh đối xử như vậy. Những khi tập cho Bưởi cho Côn đánh vần, những khi cầm tay cho Bưởi cho Côn viết, những khi dắt tay đưa nón cho Bưởi về nhà lúc nắng, lúc mưa, Thanh đều lộ vẻ cẩn thận yêu thương hết lòng mà Ly thấy ít người trân trọng như thế. Nhất là khi ra bài. Từ những bài để học trò đánh vần đến những bài để học thuộc lòng, Thanh đều lấy ở trí nghĩ ra, tìm từng câu, từng đoạn cho hợp với sức của từng học trò. Mỗi ngày, bọn Ly, Nghĩa, La học một khác, một khó hơn, thì Ly thấy Thanh vất vả quá. Vất vả không kém gì người làm việc đất đá lam lũ.

Ly đã nghĩ, người chữ nghĩa chịu khó như thế mà sao mãi không được gọi đi làm gì cả? Và sao lại túng đói quá vậy, túng đói còn hơn cả nhà Nghĩa, nhà La? Chỉ tại không có vây cánh, không có tiền lễ lạt đút lót nên mới như thế thôi! Nhưng phải lễ lạt đút lót để đi làm thì thôi. Cứ ở nhà bảo học thế này còn hơn. Từ những ý nghĩ ấy, Ly tự nhủ:

- Giá cậu giáo chỉ có một mình, ăn ở với nhà mình thì vui quá!

Từ ngày dọn đến xóm đây cho đến bây giờ, Thanh vẫn ăn có bữa chiều. Hôm nào Ngơ đi kiếm củi, bòn rau láo nháo thì Thanh lại thổi nấu lấy. Thanh vừa đun vừa thập thò ở cửa bếp xem sách. Gặp phải bữa Gái đen hay Dâng cũng thổi nấu thì Thanh luýnh quýnh chỉ những ra cùng vào. Nhà rổ rá rách quá, Thanh phải vo gạo rửa rau vào cái chậu rửa mặt, gáo múc nước bằng cái bát to, chứ không dám hỏi mượn. Đã có hôm, Thanh đương chất củi khi ngẩng lên thì thấy Ly ngồi bên cạnh. Ly cười ngập ngừng nói với Thanh:

- Cậu để cháu thổi cơm cho cậu.

Thanh gấp cuốn sách lại:

- Tôi vừa đọc vừa trông bếp cũng được.

- Nhưng cậu cứ để cháu thổi cho. Cậu lên nhà xem sách, thư thả nghĩ được nhiều hơn. Dưới này người ra người vào, chật chội lại khói nữa!

Miệng nói, Ly nhích lại gần cửa bếp, cúi xuống thổi lửa. Nhưng Thanh chỉ nhích ra một tí. Ly cời cời cho rộng bếp, chất thêm mấy mẩu củi. Nhìn lửa cháy rồi nhìn vào cuốn sách chữ Tây dày như cái gối xếp trong tay Thanh, Ly bẽn lẽn:

- Bao giờ cháu cũng xem được những sách như của cậu này thì chắc là cậu đi làm rồi và cũng không ở đây nữa. Cháu học mãi thì cũng xem được cậu nhỉ. Nếu cậu có đi làm đâu hay không ở đây nữa thì cháu cũng cứ theo cậu học.

Thanh cũng cười:

- Ly tính xem nếu tôi đi làm thì làm gì bây giờ? Và Ly thấy ở đâu có việc làm thế? Không!... Cho dẫu có việc đi làm, tôi cũng vẫn ở đây. Ở đây quen thuộc rồi. Còn Ly, Ly cứ việc học. Đọc được chữ không lâu đâu, không khó đâu! Hiểu được mới lâu, mới khó.

- Sao lại thế cậu? Đọc được chữ được sách rồi mà lại phải lâu phải chịu khó mới hiểu được? Thế quyển sách cậu đương xem ấy có như thế không?

Thanh gật đầu:

- Như thế đấy!

- Quyển sách gì mà lạ thế cậu?

- Truyện Những kẻ khốn nạn.

- Những kẻ khốn nạn! Cái tên hay nhỉ. Rồi cậu kể cho cháu nghe với. Thế chỉ những chữ Tây sách dày mới khó như thế, chứ chữ ta, sách ta có như thế không?

- Cũng thế. Nhiều quyển càng đọc càng thấy khó, thấy lạ...

- Thế thì những sách ấy cháu chưa xem được nhỉ?

Thanh không cười nữa, hơi bối rối vì vẻ trang nghiêm thiết tha của Ly:

- Không! Rồi Ly cũng đọc, Ly cũng hiểu, vì Ly cũng sẽ suy nghĩ, khổ công suy nghĩ...

Nồi cơm sôi dào lúc nào không biết. Ly vội lấy đũa cả ghế. Có hơn bát gạo lại còn hấp mấy củ khoai, Ly chưa dám dụi củi vội, mà đốt cháy to thêm. Vần xong nồi cơm, hai cậu cháu lên nhà. Thanh lại nằm toan đọc tiếp nhưng không sao tập trung tâm trí lại được nữa...

- Cậu! Cháu về ạ ạ ạ...

- Lạy cậu cháu về...

Nghĩa, La ra trước. Cái Bưởi sau cùng. Thanh sắp xếp vở, bảng và thước bút cho thật gọn cắp vào tay cho Bưởi. Thanh vuốt lại những sợi tóc xòa xuống trán xuống má Bưởi:

- Bưởi đi bên đường nhé, đừng nghênh nhé. Mai thứ năm, sáng đi học bảy giờ rưỡi, về chín giờ rưỡi, chiều nghỉ.

Bưởi ỏn ẻn "vâng ạ". Đội chiếc nón của người lớn, Bưởi lũn cũn đến đầu ngõ, qua chỗ Nghĩa, La đương vật, giằng nhau đồ chơi, Bưởi hất hàm:

- Chào hai ông tướng hôm nay tính đúng những bảy điểm ạ...

Bưởi cười, ù té chạy. Ly cũng cười. Thanh trông theo, có cảm giác những bước chân lon ton của Bưởi như chim vành khuyên giậm nhảy trong ngực mình, còn đôi mắt lay láy, đôi má bầu bầu, đôi môi chúm chím của Bưởi thì như những hạt cườm, những quả mận, quả đào thần tiên biến hình vậy.

***

Đã sang tháng ba. Gió buổi chiều thấy quý lắm. Trên những chòm xoan tây lác đác hoa đỏ, chích chòe hết con nọ đến con kia hót đổ hồi, gáy nhau và cũng như gọi cả nắng hè. Ở những giàn lý, giàn mướp trổ hoa vàng, dập dìu không biết bao nhiêu chú ong, cô bướm. Nhiều nhà đã dọn cơm ăn ngay ngoài sân. Mùi canh mùng tơi nấu với mắm tôm đặc thoảng lên bên đĩa tôm rang mặn. Chín tháng rồi! Những cơn khốn khó, những ngày cùng kiệt, Thanh nghĩ lại mà rùng mình. Đầu tháng vừa qua tiền bảo học Thanh thu được những hơn ba đồng. Bà Nghĩa đưa cho Thanh một đồng, Thanh mua giấy bút cho Nghĩa còn lại tám hào rưỡi, Gái đen giả cho Côn tám hào. Anh em Ly, Định một đồng hai. Thằng La năm hào. Cái Bưởi năm hào. Nhà nào đưa bao nhiêu Thanh lấy bấy nhiêu. Nhiều khi Thanh còn lo ngại lấy quá. Thanh giả tiền nhà đồng hai. Nhờ bà Ly đong nồi rưỡi gạo hết đồng tư. Nhờ bà Nghĩa mua thêm ba hào củi ván hòm ngoài Kho. Còn bao nhiêu Thanh đưa cho Ngơ mua rau mắm hàng ngày.

Tháng trước có đồng tám bạc của thằng La, thằng Côn, cái Bưởi, Thanh phải giả tiền nhà, rồi gặp phải lúc mẹ Thanh đi vắng lâu, chỗ gạo để nhà lại hết, anh em lại phải ăn bớt bát nữa. Nhưng dù sao cũng không thấy lo quá, cực quá như trước. Vì chỉ bốn năm ngày ngoài Sáu Kho có tàu về, bên bà Gái, bà Ly có tiền, anh em lại nhờ đong gạo được. Cái Ngơ, từ ngày anh bảo học và nó được cầm tiền đi chợ, Thanh thấy nó nhanh, khôn hẳn lên. Ngơ theo người trong xóm xuống hẳn dưới chợ Hàng Kênh mua rau và cũng biết đón những người đánh dậm bắt cua dưới các làng mua mớ tép, mớ cá vụn về rang với khế, nấu với dưa muối với cà chua. Ngơ vui thích nhất là được ao gạo. Đội về nhà thúng gạo đầy của bà Ly đong cho, Ngơ mượn thêm bên bà Gái cái thúng nữa, lấy bát ao. Nhiều hôm nó đã trút vào thạp rồi lại còn ao lại. Nó đổ ra từng đống nhỏ trên những tờ báo giải đầy giường, mỗi đống là ba ngày, một ngày ba bát. Đi kiếm củi, bòn rau, thổi nấu, quét dọn xong, Ngơ lại vun vén thạp gạo, xem xét chuột, gián, và lại ao xem còn được bao nhiêu bữa.

Có mấy sáng Thanh bảo Ngơ mua xu bánh kê, bát xôi lúa về nhà, Thanh bảo Ngơ ăn nhưng Ngơ không chịu ăn. Một lần Thanh sẻ cho Ngơ nửa bát xôi lúa. Đến chiều, Thanh thấy chuột lục sục ở cuối giường thì mở mẹt đậy thúng mắm muối ra xem. Chỗ xôi vẫn y nguyên. Thanh tưởng Ngơ để dành đến tối đi nhà thờ về ăn. Sáng hôm sau, nửa bát xôi vẫn còn, thiu chảy ra. Thanh hỏi hay Ngơ bỏ quên, Ngơ ngúng nguẩy đáp:

- Tôi ăn xôi mẹ lại về mắng ấy à. Đã được ăn cơm no rồi còn ăn xôi!

Một việc nữa làm Ngơ vui thích là quét dọn lớp học. Ngơ để riêng nửa thân áo cánh cũ của Ngơ để lau bàn. Có khi học trò đương học, Ngơ cũng lấy chổi quét những giấy vụn, phấn vụn và giở khăn ra lau bàn. Một đêm sáng giăng, Thanh lên phố xem báo về khuya, thấy tiếng Ngơ lẩm bẩm ở cầu rửa và có tiếng giội nước. Thanh ngạc nhiên hỏi sao Ngơ lại giặt giũ khuya thế này. Thanh ra xem thì thấy Ngơ kỳ cọ cả bàn và cái ghế con của Côn, Bưởi, Định ngồi, vì có con mèo nhà ai ăn vụng cá nhiều quá khạc cả ra bàn ghế.

... Thanh không thể nằm xem sách được nữa vì tiếng chích chòe lanh lảnh ngay trên cây xoan đằng sau hồi nhà. Thanh gấp sách lại, ra sân. Thanh đi lại quanh cái giàn mướp của nhà bà Gái đã có những ngồng hoa vồng lên và những quả nhu nhú bằng ngón tay út. Trên mảnh sân, trời cao và xanh như vắt, mây trắng lóa cả mắt. Những ngọn cây, những dãy mái nhà ở chung quanh xóm làm thành một cái bờ hứng ánh nắng giội xuống.

Thanh vuôn vai làm những cử động hô hấp. Thanh thấy đầu óc nhẹ hẳn. Thanh đi lấy cái chổi lúa, kê ngồi ở trước thềm nhà, lưng dựa vào cây cột hàng hiên, ngước nhìn mây trời và ánh nắng.

Thanh chợt nghĩ đến cái trường học cũ ở Nam Định của Thanh. Có những chiều thứ năm, chủ nhật như chiều hôm nay, không hiểu sao Thanh lại đến trường tha thẩn ở mấy luống hoa, mấy gốc cây đằng góc trường rồi cũng ngồi xuống một gốc cây mà nhìn lên trời cao mây bay trắng lóa trong nắng, bâng khuâng rất lâu. Trước mặt trường học Thanh, có một cái bể chứa nước của nhà máy nước. Khi mới dựng móng cái bể nọ, Thanh học lớp bét. Khi xây xong, Thanh lên lớp ba. Thanh đã quên cả nghe giảng bài mà lắng nghe những tiếng thình thình chuyển cả đất khi cái khối sắt nặng ghê gớm kia từ trên cao thả xuống nện cho những cái cột bê tông cứ từng giờ từng ngày ngập mất hẳn dưới đất. Thanh cũng đã bỏ cả nghe giảng bài mà nghểnh nhìn ra những cái cột xi măng cốt sắt xây chót vót trên móng đổ bê tông dần dần nhô lên cái bể nước to như một quả núi tròn. Cuối cùng là một cầu thang mảnh khảnh xoáy từ mặt đất lên tới nóc bể nước mà cứ mỗi lần nhìn ra Thanh lại bị day dứt vì một ám ảnh: làm sao Thanh trèo lên được tầng nóc bể nước kia... làm sao người ta cứ xây, xây mãi để vượt hẳn trời xanh. Rồi từ cái đỉnh ngất trời ấy, người ta sẽ làm như một thứ cánh chim chắp vào đôi cánh tay mình mà bay đi trong vũ trụ, trên các mặt sông, biển, núi non, trên các tầng mây...

Cái trường cũ của ngày thơ dại vẫn như in ở trước mặt Thanh. Sân trường đủ cả bàng, sấu, ổi. Bàng, vừa ăn quả chín, vừa đập hột lấy nhân ăn bùi bùi. Sấu, mùa hè ăn cả lá non; quả chín ăn cả vỏ, giòn, ngọt, chua, tê, ngon tới tận óc. Ổi cũng ăn cả búp. Cây nào cũng làm được cột gôn, thành trì, đu xiếc. Những lớp học mùa rét đóng hết cửa kính lại, nghe gió lạnh kêu ù ù như sóng ở bên ngoài. Nhưng đẹp nhất, thích thú nhất vẫn là cái bể nước ngất trời. Và trời thì xanh bao la, mây trắng bay đùn như những núi non, chim đại bàng, kình ngư, tượng khổng lồ, ông lão, cô tiên, dải lụa, tưởng tượng thế nào cũng thấy giống.

Không hiểu những thầy giáo cũ của Thanh còn dạy ở đấy không? Thầy nào đổi đi vậy? Đổi, thì đi những tỉnh nào, bao giờ Thanh mới được gặp lại, ôm mũ chào để được nhận một câu hỏi và một nụ cười:

- À! Thanh lớp... đấy à? Dạo này anh làm gì?

Thanh mỉm cười, man mác trong lòng:

- Chắc các thầy cũ của mình và mấy thằng bạn học lâu với mình sẽ ngạc nhiên khi thấy mình cũng là một thầy giáo. Thầy giáo một lớp học trò linh tinh lem luốc, nghịch ngợm, kỳ cục không còn ra thể thống gì cả!

Thanh ân hận khi mẹ Thanh về Nam Định, Thanh đã không viết thư, nhất là dặn mẹ tìm đến nhà mấy thằng bạn để hỏi thăm tin tức. Và Thanh lại sốt ruột. Thanh không hiểu sao mẹ Thanh lại ở lâu đến như thế. Ngoài cái thư cách đây một tháng, mẹ Thanh gửi tay một người cầm ra cho Thanh, với một đồng bạc, dặn Thanh có thiếu thốn thì cứ nói với bá Chính, mẹ Thanh thu xếp xong việc sẽ ra, còn thì không có thư nào nữa. Tin tức cũng thế! Hay mẹ Thanh lại ốm? Hay người cháu họ trong Nghệ giữ mẹ Thanh lại? Hay mẹ Thanh đã xin được việc cho Thanh, mẹ Thanh phải ở lại chờ cho ngã ngũ?

Thu tiền học tháng thứ hai vừa qua, Thanh cầm mấy đồng bạc trong tay mà nhớ mẹ vô cùng. Bà Ly giả cho Thanh đồng hai, đồng bạc thì như vừa lĩnh ở kho bạc ra, hình bà đầm còn óng ánh, cạnh sắc gờn gợn như lưỡi cưa rất nhỏ, còn đồng hào đôi cũng gần mới như thế. Lần đầu tiên trong đời Thanh, Thanh được cầm đồng tiền do mình làm việc mà có. Thanh đã tính toán suốt đêm những khoản chi tiêu với số tiền rồi đây hàng tháng Thanh sẽ thu được. Thanh đã có ý cất đồng bạc ấy đi để làm kỷ niệm. Thanh lại muốn đi chụp một kiểu ảnh với Bưởi, Ly, Nghĩa. Rồi Thanh lại định đóng một đôi dép quai màu da mận, đế cờ rếp để đi đây đi đó.

Phải! Thanh phải cố đóng một đôi dép.

Khi Thanh đi xin việc hay khi đến nhà học trò, con mắt thiên hạ thấy Thanh lộc cộc đôi guốc cứ nhìn thế nào ấy. Lắm lúc guốc lại bị đứt quai ngay giữa phố. Xỏ bên quai đứt vào bên quai lành, xách đôi guốc về nhà thì mất thời giờ, mà tha lôi đến chỗ công việc thì không thể trông được. Chả nhẽ lại ngồi thụp xuống hè, lấy răng nhổ chiếc đinh còn lại, rồi lấy đá củ đậu ghè? Nhưng đóng nhờ hàng guốc thì không thể được! Thanh không cần phải nghe câu nói mát của họ mà chỉ bị họ đưa mắt cũng đủ gai người.

Một đồng hai bạc tiền học trò giả. Đôi dép cũng chỉ đóng hết đồng hai thôi! Thanh tính mãi, nghĩ mãi... Cuối cùng Thanh phải lấy món tiền đó giả tiền tháng nhà. Thanh đã chọn những đồng hào bạc cũ xỉn và tiền xu mà giả cho mụ đội Nhị. Còn đồng bạc mới, Thanh đưa lại cho bà Ly để đong gạo. Trước hôm đưa lại đồng bạc, Thanh gói vào cái khăn tay để ở dưới gối. Thanh cũng không đám đưa cho Ngơ giữ và cũng không để nó cầm lâu. Còn Ngơ, mặc dầu rất sợ Thanh nhưng thấy đồng bạc nó liền nắm lấy từ trong tay Thanh, rồi lật đi lật lại, hết gại vào cạnh, lại giơ soi hình người, rồi lại lật đi lật lại, cân cân trong lòng bàn tay:

- Đồng bạc đấy nhỉ. Tiền này tiêu lâu hết hơn nhỉ? Còn tiền nào quý hơn, tiêu được lâu hơn không?

Thanh không giả nhời, cất tiền đi. Thanh cũng ngơ ngẩn mất mấy ngày khi đồng bạc nọ đưa lại bà cụ Ly, còn chỗ tiền hào tiền xu thì mẹ đội Nhị thẽo thượt bỏ vào cái tráp trầu. Con mẹ chẳng thèm chào lại Thanh lúc Thanh ra về chào nó.

"Thôi! Cứ nghĩ lăng quăng mãi thế này. Ngày kia đã phải giả sách rồi mà cả trưa hôm nay mới đọc được hơn chục trang".

Thanh đứng dậy, vội vàng vào nhà. Nhưng chỉ đọc thêm được hơn trang sách, Thanh lại đặt sách xuống, hai cánh tay lại ấp lấy trán!

Làm sao Thanh lại có được khoảng đất chỉ bằng nửa miếng đất ở Nam Định của bà ngoại Thanh. Thanh dùm dúm lên đây chỉ hai gian thôi để thoát được cái ách cái tội thuê nhà và để tổ chức đời sống. Phải! Thanh chỉ dám mơ ước có lấy hai gian thôi. Một gian để ở, một gian làm lớp học. Cái gian làm lớp học kia Thanh sẽ quét vôi vàng, trổ hẳn ba cửa sổ. Thanh sẽ xoay hoặc mượn, không có thì vay tiền mua hai bộ bàn ghế học trò hẳn hoi mà kê vào. Bàn thầy giáo chưa cần vội nhưng cái bảng đen thì phải cố mà có. Thanh sẽ viết bài trên bảng cho Ly, La, Nghĩa chép. Thanh sẽ ra tính, sẽ viết chữ mẫu trên bảng cho chúng nó trông mà viết đường hoàng, Thanh khỏi phải viết vào từng quyển vở. Thanh sẽ gọi từng đứa đứng ra trước bảng: thằng Ly đọc bản cửu chương, thằng Nghĩa, thằng La, thằng Định đánh vần sách chữ in, thằng Côn, cái Bưởi đánh vần trắc. Thằng Ly sẽ làm cho Thanh một cái thước to như cái thước bảng của thầy giáo Thanh dùng để trỏ cái bản đồ địa dư ngày xưa. Thanh sẽ cầm thước đứng xa mà trỏ tới những chữ, những câu cho học trò của Thanh đọc, chép...

Cái bảng đen treo trên vách... Ba bộ bàn ghế nhỏ sáu đứa ngồi tha hồ thoải mái... Ba cái cửa sổ mở toang... Những vách lề vôi cát và quét vôi vàng... Lại thêm giàn lý, giàn mướp bắc ngoài sân, trước cửa giồng hai khóm đinh lăng, trắc bách diệp thì đẹp mắt bao nhiêu. Thanh sẽ dạy thêm Ly cả buổi tối, và nếu có thì cả mấy đứa học trò lớn, chúng nó chịu khó học như Ly. Thanh sẽ đem tất cả những điều Thanh tìm hiểu với cái vốn học của Thanh mà trau chuốt cho chúng nó. Ly và chúng nó sẽ là em Thanh, là bạn Thanh, là rồi đây những kẻ cùng đi một đường lý tưởng với Thanh.

Có tiếng gậy và tiếng hắng giọng ở ngoài sân. Cụ Cam bước lên thềm, tay giơ vịn lấy cửa. Thanh giật nảy người, đứng dậy. Theo sau ông cụ, một thằng bé mặt chảy xệ, mắt híp, nhớn rồi mà mũi vẫn sụt sà sụt sịt, quần trắng áo trắng còn sột soạt những nếp gấp mà nhiều chỗ lại vừa vàng ố, vừa lấm bẩn. Thằng nọ vừa vào trong nhà thì một mùi gây hôi sực ngay lên. Không như thằng Nghĩa hay thằng Ly, thằng nọ chỉ dám nhìn Thanh một tí rồi thì mắt mũi quýp cả xuống, và cứ sì sì ở lối đi. Cụ Cam phải gọi:

- Thằng Húp chào cậu giáo đi!

Thanh cũng chẳng nghe thấy mấy tiếng chào lí nhí của Húp! Không phải vì nó chào nhỏ quá mà vì Thanh còn choáng váng. Đúng là thằng cháu ông lão ăn mày mù ở cái lều ngoài bờ đầm. Tuy nó vận quần áo mới, tóc mới cắt hẳn hoi, và vẻ mặt khác hẳn đi, không nhấc nháo như những lần trước Thanh để ý, nhưng Thanh không thể nào không nhận ra ngay. Cụ Cam đã ngồi xuống chõng bên cạnh Thanh. Cụ ngước mắt như nhìn vào Thanh:

- Đây là thằng Húp, cháu ông cụ ngoài bờ đầm. Ông cụ còn được mỗi mình nó. Người con giai ông cụ cũng bằng tuổi thằng bố Cam nó nhà tôi. Năm tôi mới ra đây, hai thằng cũng đi làm thuyền đất bên Xi măng đấy. Dạo này có hàng phở ngoài phố thuê ông cụ xay bột, ông cụ không đi ăn mày nữa. Ông cụ nhờ tôi nói với cậu cho cháu được theo cậu học. Lại còn mấy nhà nữa. Một bà đi làm Máy tơ ở xóm trong, nhà bác gánh nước thuê ở đầu ngõ và nhà cụ bếp Kèn cũng lại định nhờ tôi nói với cậu cho mấy đứa con cháu nhà họ. Ta cứ nhận. Họ cũng túng thiếu mà cứ cố cho con đi học mới quý. Ừ... ừ... cậu giáo nhỉ, ta cứ nhận. Rậm người hơn rậm của. Chữ là chữ của thánh.

Thanh còn đương nghĩ, thằng Húp đánh sụt cái hít nước mũi rồi giơ tay áo quệt lên. Mấy con ruồi chỉ bay tản đi thoáng giây lại sà đến bâu vào cái mũi đỏ ướt và cặp má xệ đóng cao đóng cáu của Húp.

- Cậu giáo của Tề Thiên Đại Thánh và Trư Bát Giới đấy! - Những cái phẩy phẩy bàn tay với những tiếng cười hô hố của những trẻ ngoài phố lại thúc vào trí tưởng Thanh.

"Rồi đây lại còn là cậu giáo của ăn mày nữa!"

Thanh tự nhủ. Mặt đỏ lên. Thanh lại nghĩ đến việc mẹ Thanh buôn thịt lợn lậu đi bán ở bên Hạ Lý trong ngõ nhà thổ, tiệm hút, lén lút như trộm cắp, như tù trốn. Còn Thanh, nếu Thanh sẽ nhận dạy Húp thì số học trò lên bảy đứa. Ấy là chưa kể những trẻ của mấy nhà đã nhờ cụ Cam nói lót. Dạy học tư như Thanh chỉ được sáu đứa là nhiều nhất. Thêm một đứa là phạm luật. Đội xếp, mật thám nguyên ở xóm này cũng đã nhiều lại còn đội xếp, mật thám trên bóp, trên sở luôn luôn về sục sạo, thì làm sao Thanh dạy giấu được? Mà nhỡ ra bị khám bị bắt thì sẽ sao? Tâm trí Thanh nhoi nhói. Cụ Cam lại hắng giọng rồi chậm rãi nói với Thanh:

- Như vậy, sáng mai thằng Húp nó sẽ theo bọn thằng Ly, thằng Nghĩa đi học... Nó học cậu là vỡ lòng đấy! Ông cụ ông nó còn nói với tôi cho ông cụ gửi cậu tiền trước tháng học và nhờ cậu đóng cả sách vở cho cháu nữa...

Ông cụ Cam đặt lên bàn Thanh bảy hào bạc. Thanh bàng hoàng. Cái tiếng hai đồng xu bõ Quý ném cục cục vào lồng xương ngực gày đét và đen cháy của ông cụ Húp hôm hai ông cháu chầu ở mãi ngoài gốc bàng cổng trại Đức Sinh, và tiếng cười sằng sặc của bõ Quý khi y hét rủa thằng Húp, lại xốc hẳn tim Thanh lên. Thanh kêu khẽ khẽ trong tâm trí:

"Thế nào cũng phải dạy thằng Húp! Thế nào cũng phải dạy thằng Húp! Sao lại có nhiều sự xảy ra không thể nào tưởng tượng được thế này?"

- Cậu giáo nhớ nhé, bác Sấm nhắn tôi tối nay cậu có rỗi đến nhà bác ấy chơi. Bác ấy muốn mượn lại cậu quyển sách gì ấy. Bác ấy còn muốn hỏi cậu những chuyện gì nữa! Thôi! Húp, mày về nói với ông mày, cậu giáo nhận nhời... sáng mai mày đi học với chúng nó đấy...

Cụ Cam sờ sờ đầu thằng Húp bảo nó chào Thanh rồi về nhà...