Sóng Gầm Chương 8
Bây giờ bốn chị em Dâng ở thu lại cái gian chái còn gian rộng thì mẹ con nhà La và mẹ con bà cụ Xim ở chung. Bà cụ Xim quen với bác Sấm; bác Sấm nhờ Gái đen tìm nhà cho mẹ con bà cụ. Gái đen thu xếp vừa đúng lúc cả mẹ La và chị em Dâng đều không sao chạy được một tháng hơn đồng bạc tiền thuê nhà và cũng đã hỏi han nhiều nơi nhưng cũng chẳng có đâu lấy hạ cả. Chỗ cụ Ước nằm bây giờ kê giường mẹ con bà cụ Xim. Còn chỗ ông Dâng, mẹ con nhà mẹ La kê hai tấm phản, tối đến kéo cái chõng để ở ngoài hiên vào ghép thêm nằm.
Mẹ La không làm than trên phố nữa. Dạo này, mẹ đi khòm khòm và phải chống gậy. Trông người mẹ, nếu ai không phải là người quen biết thì tưởng rằng mẹ là một bà cụ còng sáu, bảy mươi tuổi. Có hôm mẹ vừa buốt đầu vừa sút lưng, cả ngày nằm cứ liệt một chỗ. Thằng La lại phải nghỉ học, nó đi bán nước, bán bánh cho mẹ. Ngọt để lại cho mẹ La cái tủ kính, cái giành, cái vò. Mẹ La dọn hàng ngay đầu ngõ bán kèm thêm bánh chưng, khoai luộc. Mẹ La lại sống lần hồi với những người đi làm Sáu Kho, Máy tơ, kéo xe, làm ba gác như tất cả những người về già hay ốm yếu nghèo đói ở trong xóm.
Mẹ con bà cụ Xim làm Máy tơ. Bà cụ làm từ ngày nhà máy còn chạy tơ, cu li, thợ máy chỉ có vài trăm người, cho tới ngày nhà máy chuyển sang lắp máy chạy sợi; cu li, thợ máy làm hai kíp, mỗi kíp hàng nghìn rưỡi người, còn khu nhà máy thì mở ra gần hết nửa làng Lạc Viên đến giáp Sáu Kho. Bà cụ nghỉ vì mắt bị lóa và người bị "phong giật", chân tay lẩy bẩy, gân cốt bấy bớt như trẻ con ốm ấy. Bà cụ nói mãi mới xin được cho Xim vào làm thay. Năm ấy Xim mười sáu tuổi. Năm Xim mười tám tuổi, đứng được một mình một máy thì Xim lấy chồng. Người chồng làm bên Xi măng ở nhà tháo. Xim được một con thì chồng chết. Năm nay Xim đoạn tang chồng đây. Con bé con như thế là lên bốn. Năm Xim lon ton biết chạy thì Xim cũng bồ côi cha.
Thế là cả nhà chị em Dâng, nhà mẹ La, nhà mẹ con bà cụ Xim đều không có người đàn ông nào. Kỳ tiền ngoài Sáu Kho và Máy tơ mới đây, thằng La cõng em ra phố thì gặp bố.
- Chuyến này ông phải về trông coi cho mẹ con nhà mày mới được.
Lão La trợn trừng gọi thằng con lại nói. Như mọi lần, thằng La chỉ giương mắt lên nhìn mà cười thầm:
"Bố Hươu lại mò về rồi!"
Không để bố phải gọi, La buông em xuống, đẩy nó lại gần bố, vẫn cười một cách ranh mãnh.
- Đưa tiền con mua cho một "hươu" (1)nào!
⚝ ✽ ⚝
(1)Hươu: rượu nhãn con hươu. Thứ chai nhỏ độ hai mươi phân lít.
Thằng La cúi xuống giơ giơ tay em lên:
- Bố có mía đấy, ổi đấy, khoai đấy...
Lão La cũng lại như mọi lần, trợn ngay mắt, đưa quả tống lên dứ dứ trên đầu La:
- Ông thì đánh chết! Ông thì chỉ cho một cái này là chết! Mày lại bắt chước cái con mẹ lắm điều lắm nhời, con mẹ mày khinh ông. Ông thì đánh chết!
Cũng như mọi lần, lão La lại thùi ra chiếc bánh tai voi cho đứa con gái bé. Con bé tay thì cầm bánh, chân lại lùi lùi. Mắt lão La càng đỏ lờ, nhìn con quăm quắm. Bất giác, lão đưa tay ra định nắm lấy tay con. Con bé ôm vội lấy đùi anh, hét lên một tiếng, rúc rúc đầu trốn vào háng anh. Lão La giằng con bé ra, thùi thêm chiếc bánh nữa.
- Bố cho nữa! Ra bố cho nữa!
Lão cố dúi bánh vào tay con bé rồi lại đưa quả tống lên đầu thằng La:
- Ông thì đánh chết! Mày cứ về mà bô báo với cái con mẹ lắm điều lắm nhời con mẹ mày. À! Mày lại còn cậy biết chữ nữa! Giỏi! Ai chả biết mẹ con nhà mày giỏi! Nhưng cho chúng mày có tài giỏi bằng giời mà không có cái thằng ông thì cũng không ra sao! Chuyến này ông phải về trông coi cho mẹ con nhà mày mới được!
Lão vừa nói vừa đảo cả người như đảo đồng. Một chân lão đã thọt, lão lại còn rượu chuếnh choáng nên bước đi càng liêu xiêu, chỉ bị đụng cái là lăn chiêng. Nhưng thấy vẫn chưa đủ say, lão cười hề hề nháy nhó với con bé, cho thêm nó chiếc bánh nữa rồi lại đến hàng rượu.
Thằng La về nói với mẹ. Mẹ La rên lên:
- Mày nghe nó nói thế sao mày không đẩy nó xuống hồ đền Tiên Nga hay đẩy nó vào gầm ô tô cam nhông, xe quả lu cho nó trông coi có được không!
Vừa nói mẹ La vừa ngồi nhỏm dậy, búi búi lại tóc:
- Bà thì cấm cửa! Cái đòn kê bà để ở xó cửa kia, cứ lần về đến gần đầu ngõ là bà phang cho một cái què nốt.
***
Mấy hôm nay giở giời. Đêm đã thấy lạnh. Mẹ La lại phải để thằng La đi hàng. Nấu nước, luộc khoai và cả thổi cơm nữa, La làm hết. Thằng bé sắp sửa các thứ lúc chập tối rồi dậy từ gà gáy sáng, hấm húi một mình dưới bếp. Mẹ La sút lưng quá, chẳng đỡ thằng La được việc gì cả. Mọi khi cái Lu cứ phải nằm gối đầu tay mẹ mới ngủ, nay nó phải nằm với anh, ôm lưng anh rờ rờ cho đỡ nhớ cái "thèm" của mẹ. Mẹ La nằm nghiêng cũng đau, cánh tay làm gối cho con bé chỉ một lúc là dại đi không thể nhấc lên được. Mẹ chỉ nằm mà nhìn, thỉnh thoảng lại rên rỉ gọi La:
- Con rửa kỹ chè và tráng lại cái vò nhá.
- Được rồi, u cứ nằm đấy.
- Sắp khoai thì phải nhẹ tay nhá. Lúc đun đừng để to lửa quá vừa phí củi, vừa cháy nồi.
- Có thế mà cũng cứ phải dặn đi dặn lại mãi.
- Xem có cái bát nào cáu thì lấy gio mà đánh.
- Đi hàng về là con rửa ngay, bát đĩa ôten cũng chỉ sạch đến như thế.
- Gấp cho gọn cái bao tải đậy giành nước. Gánh đi thì phải trông người trông xe đấy!
- Được rồi! Con không ghè vò, đập tủ, đổ nước đổ khoai của u đi đâu!
Người mẹ lại càng rền rĩ:
- Thì tao dặn mày chứ có dám nói gì mày đâu!
Vẫn còn tối đất. Thằng La ì ạch nhấc gánh lên vai. Cái giành nước và tủ hàng gần sát mặt đất. Gánh đã nặng, thằng La còn cắp hai cái ghế nhỏ mà nó sợ không dám gửi ngoài ấy vì nhà người nọ cũng có một lũ con nghịch như giặc. Ngoài đường càng xậm xịch người đi. Mẹ La nghe thấy rõ từng tiếng bước chân, tiếng cười nói, tiếng ho của những người quen thuộc. Bằng giờ mọi khi mẹ La cũng ra đi, cũng gọi cũng chuyện, cũng cười nói ồn ĩ như thế. Từ ngày khôn lớn đi lam đi làm tới năm đẻ thằng La, mẹ nào có biết cái ốm cái mỏi là gì. Người mẹ tuy thấp bé lũn cũn nhưng mẹ đội những thúng than đến những giai khỏe cất lên cũng phải nhăn mặt. Đẻ thằng La được một cữ mẹ đi làm ngay. Trưa về cho con bú, tối thì thổi nấu, ba bốn giờ sáng đã dậy giặt giũ. Nhiều bận mẹ dọn dẹp xong còn ngủ lại được một giấc giời mới sáng.
Năm ấy, lão La còn làm phụ bếp dưới tàu Giang Môn, tháng ăn uống, diêm thuốc rồi còn được năm, sáu đồng bạc. Nhưng mẹ La chẳng bao giờ hỏi đến tiền nong của lão hay khiến lão lo liệu việc cửa việc nhà. Thôi việc dưới tàu, lão lên bờ đi làm cho hết hiệu cao lâu này đến hiệu phở khác, lão vẫn làm khỏe, chịu khó, sạch sẽ và rất mực thật thà, nhưng chẳng đậu nơi nào được lâu vì cái tính rượu của lão. Càng giời nóng bức lão càng rượu tợn. Không thế thì lão kêu nhạt mồm nhạt miệng, trong người như bị ai rút hết tủy hết xương, chẳng còn thiết làm ăn gì cả. Nhưng uống nhiều thì say. Bao nhiêu lần lão say khốn say khổ. Lần thì lão chất củi để cháy cả ba cái chảo gang, lão bị trừ hàng năm cũng không hết nợ. Lần thì lão giết gà, lão cắt tiết gập đầu gà vào dưới cánh hẳn hoi rồi mà gà vẫn sống, nhảy vỡ hàng bàn bát đĩa toàn đồ sứ Giang Tây. Lần cuối cùng, lão làm cháy nhà. Nhà này là nhà người bạn trước cùng làm dưới tàu với lão. Y nhóm rau, nhóm bếp mãi mới được cái cửa hàng phở ở đầu Chợ Con, hàng đương được khách thì bị lão La thiêu cho một trận sạch sành sanh.
Từ bấy đến nay, lão chỉ vất vưởng ở các bến tàu, các tràn, các cửa hiệu, gặp việc gì làm việc nấy. Lúc nào vớ được món bổng, hay không thì lúc nào cũng túng, rồi ốm yếu quá, lão mới về nhà. Nhưng thường là lúc lão ốm. Cứ như thế mẹ La được với lão nếu trời để trứng sống thì tám mặt con. Tám mặt con... Hai mươi bốn năm giời được cái tiếng có chồng. Mẹ La lại phải nghĩ. Mẹ nghĩ đến mình bây giờ đau yếu không còn cất nhắc được việc gì. Mẹ nghĩ đến các con còn bé dại. Và mẹ nghĩ đến cái câu của "nó" nhắn thằng La về. Mẹ La lại lộn cả ruột gan:
- Nó mà vác cái mặt mo mặt thớt về lần này nữa thì bà cứ phang cho què... cho què...
Có tiếng lục sục ở đầu giường. Mẹ La nghển lên. Hai con chuột to như hai con mèo nhí nháu với nhau rồi cắn nhau đánh chóe, nhảy quào qua mặt mẹ La. Mẹ La giờ mới để ý đến đĩa khoai thằng La để phần cho mẹ. Củ to nhất bị lăn ra giường, mấp mé rơi xuống đất.
- Tao đã chết đâu mà chúng mày đến cào đến cắn ngay trên đầu tao thế này?
Mẹ La với lấy cái lõi vỏ ăn trầu ném theo hai con chuột. Mẹ nhặt củ khoai vào đĩa. Củ khoai chuột gặm này tuy hà nhưng là khoai lợn ỉ vừa to, vừa bở đỗ. Mấy củ nhỏ thì bằng đầu ngón chân cái, bằng chuôi dao. Đáng ra thì phần La là củ to, còn những củ nhỏ là của hai em. Hôm qua, hôm kia cũng vậy, La đều nhường cho mẹ mà chỉ ăn những mẩu khoai hay khoai nhỏ bán ế. Như thế là thằng bé nhịn cho đến tối mới được miếng cơm. Mẹ La xuýt xoa trong bụng. Mẹ lại ì ạch ngồi dậy.
Giời đã sáng rõ. Những người dưới Trung Hành, Hạ Lũng, Sâm Bồ tấp nập gánh rau dưa, hoa quả, tôm cá lên các chợ Lạc Viên, Tám Gian, chợ Cấm. Cũng vẫn những người mà mẹ La thuộc cả giọng nói, cả kiểu gồng gánh, dáng dấp của họ. Những tiếng quen thuộc khác cũng rào rào trong các xóm ngõ chung quanh. Tiếng xa quay, tiếng kéo bễ, tiếng đánh búa, tiếng máy khâu, tiếng gò nồi, gò thùng và tiếng loảng xoảng ngoài máy nước. Trùm lên các tiếng nọ, tiếng gió ngoài sông Cửa Cấm thổi vào với tiếng nhà Máy tơ. Mẹ La nhìn ra đường. Mẹ La nhìn lên mảng trời sáng trên sân; mẹ La nhìn xuống bếp. Mẹ La nhìn ra cầu rửa. Mẹ La nhìn đến đống củi, thúng khoai và rổ bát đĩa. Bếp đun, tuy La đã vun vén nhưng vẫn còn mấy mẩu củi. Cái chậu sành rửa chè vẫn tênh hênh cạnh chum nước. Thúng đựng khoai, rổ bát vẫn thìa lìa dưới gầm chõng ngoài hè. Thằng bé cũng có ý đấy nhưng bằng sao được mẹ. Và làm sao nó làm được bằng mẹ, nó kiếm được bằng mẹ? Làm sao cho mẹ nó lại dậy mà đi làm kiếm gạo nuôi chúng nó?
Mẹ La thở một cái như người bị rút ruột. Mẹ men men ra cửa. Mẹ gọi cái Lê đang cào chấy với cái lược cũ của Ngọt. Mẹ bảo nó vào với em, dặn em có dậy thì cho em ăn củ khoai to, còn phần nó hai củ khoai nhỏ. Mẹ khòm khòm cái lưng, nhăn nhó xuống bếp. Cất được một bước, mẹ La lại thấy mặt mày hoa thêm, lưng càng đau sụn, đầu buốt lọng lên không tài nào chịu nổi. Nhặt mấy mẩu củi để vào xó bếp, lần ra cầu rửa bưng cái chậu vào gầm chõng, mẹ La gần như hết hơi. Mồ hôi toát ra, mẹ lạnh phát run. Mẹ phải ngồi thụp xuống gục mặt lên hai đầu gối. Một lúc sau, mẹ lại quàng tay ra đấm đấm lưng rồi ì ạch đứng dậy, lần từng bước. Cứ như thế mẹ lại lần ra cầu rửa giặt giũ mấy cái quần áo cho thằng La và con bé, rồi vào bờ hè sắp nhặt chỗ khoai và chè tươi để làm hàng ngày mai.
Bà cụ Xim cũng để cháu ngồi với mấy nắm chim chim cơm trong cái bát gỗ, lần lần xuống bếp đun nước và nhặt rau. Thấy tiếng mẹ La thở, mẹ ngồi như ôm lấy cái rổ khoai ở thềm nhà, bà cụ Xim đến he hé mắt nhìn và nói:
- Có cái bếp, cái bờ hè để tôi dọn cho, đi mà nằm nghỉ.
- Con cất nhắc cho nó khuây khỏa bà ạ.
- Còn sống thì còn làm nhiều. Mà đem khoai ra làm
gì đấy?
- Con sắp sẵn cho cháu nó luộc bán cả chiều!
- Thì để tôi sắp cho. À thằng bé nó đã kiếm được rau ngải cứu chưa? Tối nay tôi nướng gạch tôi chườm cho.
Mẹ La giữ lấy rổ khoai không cho bà cụ Xim đem đi. Trong nhà, con bé đã dậy. Cái Lê bế nó ra cho mẹ. Mẹ La kéo vạt áo lau nhử mắt cho con rồi bóc khoai đưa nó ăn. Mặt trời lên quá nóc nhà. Nắng làm cho con bé hấp háy mắt. Nó vừa dụi mắt vừa ngoạm khoai. Nó nhoen nhoẻn nói:
- Con chó êu bu nhé!
Mẹ La chưa kịp giả nhời, con bé giãy lên. Cái Lê vội vàng nhắc mẹ:
- Kìa nó bảo nó có yêu bu, bu cũng phải chó êu nó đi.
Mẹ La ôm con bé vào lòng:
- Ừ thì bu cũng chó êu con. Thế con chó êu thằng anh La không?
- Chó! Chó!
- Thế thằng anh La nó có hay đánh con không?
- Chó! Chó!
- Thế con chó êu chị Lê không?
- Chó! Chó!
- Thế thằng anh La về con chó cho nó ăn cơm chịt chá của con không?
- Chó! Chó!
- Bây giờ thì cái gì cũng chó, chó!
Mẹ La hít hít vào cái đầu chốc của con bé. Khi mẹ vừa quay mặt ra thì mẹ lại sa sầm cả mặt mũi, từ vai xuống ngang hông mẹ lại như có những quả tạ dọi xuống. Mẹ La rít lên một tiếng. Mẹ vịn bức vách lần vào nhà. "Còn sống thì còn làm nhiều". Câu nói của bà cụ Xim đảo lên, quay tròn như sao tua rua trong đầu óc mẹ La với bao nhiêu ý nghĩ khác. Không! Ta phải sống với con nhớn con bé của ta. Ta lại phải khỏe, lại đi lam đi làm mà nuôi chúng nó. Ta lại đội than đến nửa đêm cho chúng nó có bữa cơm, có miếng thịt miếng cá. Thằng La không thể để đi bán hàng cả ngày được. Lại phải cho nó đi học...
Mẹ La day day nặn nặn từ hai thái dương vào giữa trán. Mẹ sực nhớ đến hôm nay lại là kỳ tiền mà tiền tháng học trước của thằng La vẫn chưa giả được, nhưng Thanh cũng chẳng nhắc chẳng hỏi gì cả. Đã thế thằng Nghĩa, thằng Ly cứ chiều chiều lại veo véo gọi thằng La:
- Eeng ơi! Eeng ơi! Hôm nào thì mày đi học?
- Eeng ơi! Eeng ơi! Mày đem sách tao về mà chép bài rồi lấy tính về mà làm. Cậu giáo bảo thế đấy. Chúng tao được làm tính nhân ba con rồi.
Mẹ La nằm xuống giường, người cứ quằn lên. Nằm thẳng thì lưng y như có dùi xiên. Nằm nghiêng thì mỏi nhức. Nằm sấp thì tức không thể được. "Hay ngày mai ta chạy tiền lên đền Tiên Nga xin thánh một quẻ rồi về nhà làm lễ cúng vậy?". Mẹ La tự nhủ. Mẹ quay ra mé giường với lấy cái bình tích. Cái ấm vừa nhấc lên, tay mẹ còn run run chưa kịp đưa ghé vào miệng thì lưng mẹ đau nhói như gãy đôi ra. Mắt mẹ La lại nảy đom đóm. Cái bình tích rơi độp xuống đất. Mẹ La thót ruột lại, quờ vội tay xuống cái bình vỡ, nước đổ lênh láng.
- Giời ơi!... Cả nhà còn được cái bình tích này để lúc đưa cơm khỏi phải uống nước lã.
Bà cụ Xim chạy vào:
- Vỡ cái gì thế? Mẹ La làm sao thế?
Bà cụ đỡ mẹ La nằm lại:
- Đã bảo mà, phải nằm mà nghỉ chứ! Còn tham công tiếc việc làm gì?
Bà cụ nhặt những mảnh bình, lấy chổi quét nước rồi lại giường mình rót nước nóng bưng đến. Bà cụ một tay nắm lấy cổ tay mẹ La, một tay đặt bát nước lên:
- Uống đi, nước chè hột tôi mới pha có cho gừng đấy.
Nâng cho mẹ La uống hết bát nước, bà cụ hỏi có uống nữa không. Mẹ La lắc đầu. Bà cụ cất bát rồi bảo:
- Chỗ lá ngải đâu? Đưa tôi đi sao, tôi chườm cho.
- Cháu nó để ở thúng dưới gầm giường.
Bà cụ Xim lấy một nửa đem xuống bếp. Mùi lá ngải nóng sực trong nồi rang thoáng ngửi cũng đã dễ chịu. Bà cụ lấy vuông vải mới của Xim bọc chặt lại tròn như quả cam, lăn lăn, đập đập, miết miết từ trán ra thái dương, rồi xuống gáy, xuống lưng mẹ La.
- Cứ nằm yên. Rồi tôi nấu bát canh cho mà ăn. Tôi vừa mua được mớ cá rô của người ta tát đầm trong xóm.
Nghe bà cụ nói, mẹ La lại vừa rên vừa kể:
- Đấy mẹ xem cảnh con như thế có ai khổ hơn không? Không làm thì đói, làm thì chói xương hom. Lắm lúc con chỉ muốn đâm ngay đầu xuống cầu Rào, bến Muối cho thoát tội, nhưng chỉ vì còn mấy đứa trẻ nên con phải chịu thế này!
- Tôi không nghe những chuyện ấy đâu! Sông có khúc, người có lúc.
- Mẹ ơi! Mẹ mới đến, mẹ chưa rõ hết cảnh con đâu!
- Cảnh như thế nào mà tôi chưa rõ hết? Vợ chồng thì phải có lúc giận lúc lành, người được nết nọ thì người phải chứng kia. Liệu điều liệu nhời mà bảo ban nhau thì là êm thấm. Nhưng thôi, đừng nghĩ những chuyện ấy nữa. Bên tôi còn gạo đấy, cứ lấy mà thổi cho các con nó ăn. Để tôi hỏi con mẹ Xim nhà tôi nó còn tiền thì đỡ bác mấy đồng.
Mẹ La vẫn rền rĩ:
- Cứ những lúc nghe mẹ nói hay bà Gái nói thì con lại như cất được gánh nặng. Nhưng quên đi thì thôi chứ hễ nghĩ đến nó thì con càng thấy không thể nào lại nhìn cái mặt nó được! Mà thân đời con khổ nhục nào năm năm, ba năm cho cam? Hai mươi bốn năm giời rồi mẹ ạ!
Mẹ La cứ nhỏm nhỏm chực ngồi dậy. Bà cụ Xim cười:
- Gớm chết! Ừ thì cứ việc mà giận! Nhưng cứ nằm yên để tôi chườm cho.
Có tiếng thằng La ở ngoài ngõ và tiếng cười khanh khách của con bé con. Thằng La nhong nhong làm ngựa cho em:
- Eeng à! Eeng à! Eeng chó êu anh nhỉ. Eeng giả anh tiền rồi anh mua ổi nớ, mía nớ, chuối nớ, khoai nớ!...
La cõng em chạy vào, đặt phịch con bé xuống bên mẹ và một rá gạo đầy. Mẹ La nhổm lên, luống cuống:
- Con gửi hàng ai thế? Gạo nào thế này?
- Gạo cô Gái đong ở ngoài Kho gửi cô Ngọt về.
Con bé quờ lấy người mẹ, miệng nhoe nhoét chiếc kẹo bột, tay cầm đồng xu của anh dính kẹo, cứ dứ dứ ở trước mắt mẹ. Người mẹ choàng lấy cái đầu chốc của nó, lấy vạt áo chùi mũi dãi cho nó. Con bé ưỡn ưỡn ra, dụi dụi đầu vào nách mẹ:
- Con chó êu cả anh La bu nhé.
- Ừ con chó êu anh La, con ngoan con đừng quấy bu. Rồi bu khỏe bu đi làm bu mua chịt chá về cho con.
Lão La đặt tay bà lão bán hàng vào lòng bàn tay mình, phát đốp cái như kiểu các lái trâu bò ngã giá xong với nhau, lão trịnh trọng giao hẹn:
- Thế là hết nợ mẹ đấy nhé. Lần sau con mà không có tiền thì mẹ đừng có bán. Con có lạy, mẹ cũng không đong rượu. Mẹ mà mắng, chửi thì lại càng quý nữa!...
Bà lão cười, các khách ăn hàng cũng cười. Lão La miệng sặc hơi rượu, mắt đỏ nhoèn, loạng choạng vừa đi vừa nói với mình:
- Thằng này là thần tài của các hàng đây!
Lão còn tự khen thêm rằng lần này lão về nhà với vợ con thì vợ con phải biết là bằng lòng. Một là lão không say rượu nữa. Buổi chiều nào vui lão sẽ chỉ uống một "hươu" hay buổi trưa nào mệt lão cũng chỉ uống thế, tuy một "hươu" đối với lão chỉ đủ súc miệng! Hai là lão có tiền đưa về nhà hẳn hoi. Những hai đồng... à quên! Một đồng sáu thôi. Thiếu bốn hào vì lão vừa phải trả bà cụ ba hào, còn một hào thì mua quà cho con. Ba là... là gì nhỉ. À! Một là không say; hai là có những hai đồng... à lại hai đồng! Không! Chỉ còn có đồng sáu thôi; lão còn có đồng sáu bạc và một gói tướng quà đưa về cho con mẹ lắm điều lắm nhời và các con. À! Ba là... lão sạch nợ! Phải! Lão không còn nợ ai, không còn phải lo... món này món khác, phải sợ phải trốn ai nữa. Chuyến này yên tâm yên trí, chịu khó lam làm ở nhà với vợ với con, chả mấy lúc mà khấm khá.
Lão La chợt giật nảy người. Lão xọc tay vào túi áo. Rồi lão cậy cậy cái cúc hầu bao ở cạp quần ra. Cũng không thấy! Lão rờ rờ khắp người. Cũng không thấy! Lão đứng hẳn lại, tốc hẳn mấy lần áo lên. Đây rồi!... Mẹ cha nó, cái gói tiền lão cất ở tận cái túi nhỏ may gần nách trong lần áo thứ ba cơ mà! Đúng cái cuộn cuộn tròn tờ giấy bạc một đồng và sáu hào bạc gói với miếng vải xanh lão xin được của hàng thợ may quen, cái gói ấy đương cồm cộm ở dưới nách lão đấy! Lão La cười khì một tiếng, trách mình cứ hốt ha hốt hoảng. Rồi lão khen cho mình vẫn tỉnh. Lão tỉnh nên đã nhớ mặc cả hai cái áo rách vào người. Lão còn đem cả hai cái quần về nữa. Cái quần đùi thì còn mới, còn cái quần dài thì đã phải vá miếng đầu gối. Lão sẽ chữa cái quần dài cho thằng La. Còn cái quần đùi nó mặc vừa đấy! Thằng bé cao bằng bố rồi còn gì!
- Ừ, thằng La nó cao bằng bố rồi còn gì!
Lão La cười, gật gù nói hẳn lại cái ý nghĩ đó. Chưa đủ khoan khoái, lão La giơ hẳn hai cái quần ra. Lão ướm cái quần đùi rồi cái quần dài. Lão nghiêng ngó một lúc rồi giở gói quà ra. Này, con bé Lu lại được những hai cái bánh tai voi, tha hồ mà nhai côông côốc. Này, cái Lê đôi guốc sơn có cả hoa mà lão nhặt được ở cửa rạp xiếc. Này, thằng La cái mũ nồi vải trắng lão xin được của ông bếp quen dưới tàu Ănglê. Này những bốn quả cau tươi cho cái con mẹ lắm điều lắm nhời coi chồng như mẻ ấy! Lão La luýnh quýnh cuộn tất cả các thứ vào cái quần rách, lão cắp bên nách. Lão rảo bước, cái chân trái thọt nhiều lúc nhao hẳn đi. Lão chủi chúi mấy cái rồi tập tà tập tễnh vừa đi vừa lẩm nhẩm nói với mình, cười với mình. Lão qua cầu Carông lúc nào không biết. Nếu không có còi của những ô tô bến Kiến An sang và những tiếng ngựa hí của xe chở cá ở Đồ Sơn lên, thì lão La cứ tràn qua đường, đâm vào cổng sở Carông mất!
Mấy bà cùng làm ở các tràn than với mẹ La thấy lão La tay xách nách mang, khật khà khật khưỡng, vẻ mặt phớn phở hẳn lên, bèn gọi:
- Bố Hươu ơi! Đi đâu đấy?
Lão La sửng sốt nhìn quanh quẩn. Nhận ra người quen, lão cười bẽn lẽn. Một bà vẫy tay:
- Hẵng lại đây tí. Cho hỏi thăm mẹ nó cái nào.
Lão La rụt rè đi lại. Một bà khác hỏi:
- Mẹ nó đỡ chưa? Về nhà với mẹ nó đấy chứ?
Lão La gật gật. Cả mấy bà xúm lại giật lấy cái gói:
- Cho xem quà đưa về cho mẹ nó những gì nào?
Vừa mới giở ra, cả mấy bà liền tru tréo lên:
- Eo mẹ ơi! Thế này thì lại chuyển mưa chuyển gió mất! Chít! Chít! Chít! Này bánh cho con này... này guốc cho con này... lại cả cau tươi cho mẹ nó này... Chít! Chít! Chồng con người ta thế này chứ như chồng con nhà mình ấy!...
Lão La đứng lâu quá, nhăn nhó dở cười dở mếu. Một bà phải giằng lại những thứ nọ, gói lại đưa giả cho lão La.
- Thôi đi về nhé. Cố chạy gạo cho mẹ nó ăn mẹ nó khỏe mẹ nó còn đi làm.
Lão La gật gật đầu cười. Chợt lão nhận ra tràn than cửa đóng im ỉm, cả mấy cái xe bò đều chỏng gọng ở giữa sân, còn dưới sông không hiểu sà lan, thuyền to đi đâu hết, chỉ còn hai chiếc thuyền nhỏ với hai con chó ngồi vêu trên mui với mấy đứa trẻ con. Lão La nhìn ra gốc xoan tây chỗ mẹ La vẫn ngồi nghỉ. Mấy người đàn bà cũng lôm lếch rách rưới như mẹ La, nằm gối đầu lên những bao tải những bị mà ngủ. Dưới cửa cống nước rút, trơ lại những đống sắt vụn và rác. Mấy bọn trẻ cùng trạc thằng La đương móc, thỉnh thoảng lại lấy bùn tung tóe nhau, bắn cả lên những người nằm ngủ.
- Tràn nghỉ việc lâu thế à?
Lão La ngờ ngạc nhìn vào tràn, nhìn xuống sông. Một bà chép miệng:
- Chỉ ngồi chơi đấy thôi. Chả mấy khi được nghỉ cho giãn xương giãn cốt.
Một bà đương chải tóc, phào lên thở dài:
- Công việc mãi thế này đến chết đói mất! Rồi đến phải kéo nhau đi cao su đất đỏ hay Tân thế giới hết!
Lão La lại cười:
- Có gì tôi cũng theo các bà đi nhé!
Lão La chào đi chào lại mọi người rồi đi. Bước chân của lão lại như đi một kiểu khiêu vũ đặc biệt trên bờ hè ngổn ngang những đống gỗ, gạch, càng xe, sắt, và người nằm ngồi từng dãy la liệt.
- Than không về, các tràn lại đóng cửa, con mẹ nó có khỏi cũng chưa đi làm được. Mình cũng thế, tràn không ăn gạo nữa, sang tháng may ra mới có việc. Như thế đồng sáu này về phải đong gạo ngay. Ừ, đong hết gạo. Mắm muối thì mua chịu. Rồi phải đi kiếm cái ba gác làm nhùng nhằng ở bến tàu. Phải đi ngay để gỡ gạo mới được! Ừ ừ... đồng sáu bạc này cứ là phải đong hết gạo.
Lão La về đến đầu ngõ cô Ba chìa. A! Ai kia kìa. Ai mà trông như mẹ Nghĩa rằng và cô Gái đen đương ăn bún ốc vậy? Lão La hết sức định thần nữa lại mà nhìn. Lão rón rén đến sau lưng hai người, òa lên một tiếng. Lão ríu cả lưỡi:
- May quá! Ra ngõ gặp giai có khác! Về nhà là tôi phải bảo với cái con mẹ lắm điều lắm nhời rằng bà Nghĩa với cô Gái bảo tôi về chứ không phải tôi thèm về đâu nhé.
Mẹ Nghĩa chỉ quờ tay ra đụng vào người lão La mà lão đã xiêu đi, phải bíu lấy cột đèn mới đứng vững. Gái đen bỏ bát bún xuống, reo lên:
- Sao hôm nay lão bảnh thế này? Chào! Quà bánh những gì mà tay xách nách mang nhiều thế kia? Này! Đây bảo, chuyến này về thì đây cấm rượu, mà nếu còn uống rượu rồi giở cái lối ấy ra với vợ thì đây gọi ngay mấy người trói lại và cho xơi mấy cái quả này này...
Gái đen cũng giơ quả tống lên dọi dọi vào đầu lão La như khi lão La dọa thằng con. Nhưng thằng La thì trợn mắt lên nhìn bố chứ lão thì rụt cổ lại, mắt nhắm nhắm, môi mép xệu cả xuống, lão "vâng vâng" rất là ngoan, rất là hể hả. Trong khi Gái đen đe nẹt lão La thì mẹ Nghĩa túm lấy ngực áo của lão mà xoắn mà giật và mím môi bảo:
- Vâng, bây giờ thì phải nhớ nhé... nhớ nhé!
Lão La càng cúp cả người lại:
- Vâng ạ... thật nhớ ạ... nhớ mãi ạ ạ ạ...
***
Lão La nằm ngoài bờ hè, chỗ mọi khi ông Dâng ngồi xay bột và cụ Ước nhặt chè, đan lát, uống nước. Cả những đêm mưa to cũng thế. Gian bếp không chật quá thì mấy nhà đều vui lòng để lão kê chõng ngủ ban đêm. Vừa phần lão La cũng không muốn phiền bà con, vừa phần lão cũng thích tỏ mình. Đã ngủ, thì phải kéo một giấc cho đến bạch nhật chứ đương dở mắt phải lịch kịch dậy bê chõng ra bờ hè ngủ vì có người đun nấu sớm thì có là phải tội!
Lão La nằm như thế không phải vì mẹ La. Thật là vì nhà chật quá, lão chẳng còn thể ghé gẩm được vào chỗ nào. Nhà một gian một chái, kê bốn cái giường, lại toàn đàn bà con gái! Dạo này hanh khô, bà Gái cho lão mượn tấm liếp vẫn che bếp, để lão che chỗ nằm. Lão La chỉ dựng liếp ở đầu nhà, và khi ngủ cũng không đắp chăn. Lão trùm có chiếc chiếu, nằm rúm con tôm mà nghe canh khuya rì rào, ầm ì các thứ tiếng mơ hồ xa xôi. Nhiều lần lão cứ tho ló cái đầu mà nhìn mãi trời sao rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, sáng ra thấy trong người nhẹ nhõm lạ. Lão La cũng đã ngủ ở mái hiên các tràn, các lán gỗ, ở thềm hè Nhà hát Tây, ở bực đá bờ sông... nhưng không bao giờ lão thấy khoan khoái bằng bây giờ được.
Thực ra, chỉ vì từ ngày về nhà, lão La chỉ có việc ngủ thẳng một giấc rồi dậy đi làm. Cơm ăn mỗi bữa đánh hàng bốn bát cơm vật mà lại uống ít rượu. Chiều chiều, cái Lê đi mua cho bố đúng một "hươu". Có bữa lại chỉ được một nửa. Lão uống xong thì cơm cũng còn nóng, canh cũng còn nóng, ăn no cật sức vẫn thấy thòm thèm. Cơm nước xong, tối có giăng, lão cõng con gái bé ra ngõ chơi, đi các nhà nói chuyện. Đi chơi xong, lão ôm con ngồi trên chõng nghe thằng La học lại bài của thằng Nghĩa nhờ ánh đèn bên nhà bà Gái.
Nhưng hai hôm nay, chập tối, lão La không cõng con đi chơi, la cà chuyện trò với các nhà nữa. Cơm chiều xong, lão bần thần hết ở thềm nhà bếp lại lên thềm nhà trên. Lão ra ngoài ngõ ngồi chán ở dưới cái cổng gạch rồi lại lần lần ra cửa nhà thờ, mon men đến gần mấy hàng nước, ngồi khượt ra. Cuối cùng lão lại nằm bẹp ở chõng mà chịu các thứ dấm dứt trong ruột trong gan, trong tâm trong trí. Mẹ La thì vẫn lúc đau lúc đỡ. Công việc dưới tràn vẫn không thấy nhắn gọi gì cả. Tối rét, Sáu Kho không có tàu to về, đường xóm ngõ cứ vắng tanh. Thằng La chỉ bán hàng có buổi sáng và cũng chỉ luộc có nửa nồi khoai.
Tuần trước, lão La được mấy buổi làm boóng ở lán gỗ đầu cầu xe lửa rồi cũng nằm khàn ở nhà. Lão còn thuê lại hai buổi xe ba gác nhưng lỗ tiền thuế xe mất cả. Buổi kéo được mấy tạ gạo cho mấy người chạy chợ Quán Toan và buổi chuyển mấy bọn đồ từ Hải Phòng sang Kiến An, thì phải hai hôm nắng. Lão vừa đói vừa mệt nhưng được có ba hào nên lão thèm rượu khốn khổ mà chỉ dám uống có một cút để lấy sức về nhà. Chỗ gạo đong hết từ năm hôm nay. Nhà lại ăn một bữa. Rồi lại phải đong chịu. Mình thằng La chạy vạy với vò nước, rổ khoai, vài chục bánh chưng làm sao đủ gạo cả nhà ăn?
Nhưng lão La đâu phải chỉ cần có cái ăn? Khí huyết lão bây giờ gần như không phải là khí huyết của cơm gạo nữa. Người ta đùa lão kể cũng không ngoa ngoắt quá! Người ta bảo lò rượu nào được bộ xương của lão mà cất thì đến mấy mươi đời cũng không phải mua men và không lò nào ngon hơn được. Giờ lão ngẫm nghĩ câu nói ấy, lão thấy ghê ghê. Lão thấy xương tủy của lão quả thật không phải là của lão nữa, mà là của trùng rượu mất rồi! Lão đói bụng đến đâu, cơm dẻo canh ngọt nóng sốt đến đâu, nhưng không có rượu thì lão vừa ăn mà vừa thấy như ăn cháo lá đa, càng ăn nhiều lại càng bã bời nhạt nhẽo.
Lão chỉ mong được hai "hươu" là hay nhất, không thì một "hươu" thôi. Cốt nhất là bữa chiều. Được đĩa lòng lợn, hay cái đầu gà, hay mấy miếng dồi chó, hay ít nhộng rang với chiếc bánh đa, hay không chỉ mấy con rạm nướng, vài củ lạc luộc là lão đủ cái sự mãn nguyện. Dù vất vả đói cực đến đâu nhưng khi rửa cái tay lau vào chiếc áo cũ, chân chùi chùi vào chiếc chổi lúa, rồi ngồi vào mâm, chai rượu để sẵn rót ra cái chén móng, tợp một ngụm, nghe hơi men phào phào cồn lên trong người, nhón con rạm, bẻ mẩu bánh đa nhai lốp cốp... Phải! Chỉ được như thế thôi là lão quên hết mọi nỗi, ngủ một giấc, giá có ai khiêng bỏ xuống ao cũng không biết, rồi sáng mai muốn làm việc gì lão cũng làm được hết. Trong bữa ăn như thế nếu lão lại còn được có các con nhớn con bé ngồi cạnh nữa. Lão bẻ miếng bánh cho đứa này, lão đút củ lạc cho đứa kia; lão gắp con nhộng hay xắn miếng dồi mà bón cho đứa con bé. Miệng nó há ra đớp lấy như chim bồ câu ra ràng. Không có con thì lão uống với trẻ con thiên hạ. Ở nhà hàng, lão coi cũng như ở nhà mình! Người già, lão gọi bằng bố bằng mẹ. Trẻ con giai lão gọi: thằng cu ngẩu, chú cu ngẩu. Trẻ con gái, lão gọi: cái đầu gà má lợn, cái gái rượu. Lão nhẹ thênh, sung sướng có khi còn hơn cả những tiên ông uống rượu ở vườn đào của Tây Vương Mẫu.
- Chầy ơi! Con chó êu chầy nhé.
- Ừ, con có yêu thầy, thầy cũng có yêu con. Thầy lại mua nhiều bánh tai voi cho con. Thầy đi đặt ống lươn về nấu cháo cho u ăn...
Mấy bữa liền, con bé Lu ngồi hẳn lên đầu gối lão, hơn hớn cái miệng đón những đũa thức ăn của bố bón cho. Mẹ La trước còn vè vè nhìn lão, chẳng nói chẳng rằng. Sau mẹ cũng phải bắt nhời:
- Yêu! Yêu! Lại chỉ được mấy bữa rồi lại đi... có bao nhiêu tiền là nốc hết cho sướng cái lỗ miệng!...
Lão La nhề cái mồm ra, nhại lại mẹ La, rồi gại gại cái cằm lởm chởm râu vào má, vào gáy con bé Lu:
- Con đừng nghe cái con mẹ lắm điều lắm nhời nhé. Chuyến này trên phố có việc đều, thầy đi làm, thầy may áo mới cho.
Con bé thấy buồn buồn cười sằng sặc, rụt cổ lại. Lão La lại tợp một tợp rượu, bón nhộng rang, bánh đa cho con. Còn mẹ La quay ra lấy thêm nhộng sẻ vào đĩa cho chồng:
- Thôi uống đi rồi ăn cơm kẻo nguội. Người ta còn phải dọn.
Mẹ La quay ra bảo cái Lê:
- Cho thêm cái củi nữa vào bếp nồi riêu để tí nữa thầy mày ăn cơm cho nóng.
Cái Lu vẫn như sáo sậu:
- Chầy vuống rệu đi! Chầy bảo anh La mua rệu nữa cho chầy vuống...
Lão La đương nằm lại nhỏm dậy. Lão chỉ ngồi thẳng giây lát rồi người lão lại rũ ra, đầu gối quá tai. Lão bần thần nhìn bóng tối chạng vạng dơi bay và ran ran tiếng muỗi. Giời lại nổi gió. Gió ù ù nghe như có bão cồn, có sóng vỗ, có thuyền chạy. Cái lạnh của tiết thu sao mà thấy rợn. Chiều nay cả nhà chỉ thổi có hai bát gạo. Lão ăn không được hai lưng bát. Cơm ăn đã thiếu, rượu lại không có lấy một giọt. Lão La cứ thấy trong bụng róc ra róc rách và ruột gan lại như có ong có kiến đốt. Chợt lão La "xuýt" một tiếng và hếch mũi lên. Mùi nước dùng của gánh phở nhà Bếp Béo vào bán trong ngõ bỗng ngào ngạt trước gió. Những vờn lửa ở cái bếp thùng sắt tây đi trong tối như vẫy gọi thêm lão La.
Giờ, ở ngoài đường, người đi làm Sáu Kho vẫn về. Chuông xe đạp của mấy ông ký bấm ran từ đường cái vào. Có cả những tiếng xe bò ình ình và tiếng ván, xẻng cuốc bị xô xốc. Quầng sáng ngoài Sáu Kho như đám cháy vạc lửa, còi tàu um um văng vẳng. Chuông nhà thờ đã giục ánh ỏi... Mới bảy giờ thôi mà! Ở trên phố bằng giờ mới là bữa cơm chiều của lão La.
Lão La chẹp chẹp nuốt nước bọt. Mặt lão càng ngẩn ra. Chợt lão đảo mắt trông xuống bếp và trông vào trong nhà. Mẹ La vẫn nằm im. Anh em thằng La đi chơi cả. Bà cụ Xim ôm cháu ru ngủ. Chị em Dâng sang bên nhà Gái. Nhà Thanh bên kia lặng ngắt. Bà Thanh và Ngơ đã đi nhà thờ từ lúc chưa kéo chuông. Thanh đi xuống phố đọc sách. Lão La lại đảo mắt trông chung quanh lại một lần nữa. Trên nhà, dưới bếp vẫn chỉ có ánh đèn hoa kỳ loi nhoi và tiếng muỗi.
Ngày mai, thằng La chỉ nấu nước và cất bánh chưng bán mà nghỉ luộc khoai. Cái nồi đồng to để ngay dưới chân giường ở xó cửa ra vào ghếch lên cái đòn kê gỗ nghiến. Lão chỉ quài tay là nhấc đi không ai biết cả. Cái nồi ấy còn mới, của bà Gái cho mượn. Bà Gái lành như đất, thế nào cũng xong thôi. Lão mà đưa nồi đi chỉ nhấm nháp đến hào rưỡi là cùng. Bà lão hàng cơm quen ở đầu cầu Carông bây giờ dọn về rồi chứ không cũng chẳng cần phải làm cái việc nhọ nhem như thế. Còn mấy hàng khác cũng quen đấy nhưng lâu nay lão không đến, giờ bỗng mò lại ăn chịu, phải nói năng thì mất cả sĩ diện đi. Tốt nhất là đến mấy cái hàng ở chợ Vườn hoa đưa người. Mấy hàng này đã quen với cái giống khách ông nhỡ bà nhàng rồi! Quần áo, xoong nồi, ruột tượng, khăn vuông, săm lốp ô tô, vải bạt, áo dạ lính, tông đơ, dao kéo, kìm giũa và cả bát hương, dọc tẩu nữa,... cái gì gán cũng được. Miễn là của mười đồng chỉ ăn một, muốn chuộc lại chỉ được hạn có mấy ngày...
Không! Không!... Lão chỉ uống đến một hào rượu và nhắm nháp dăm ba xu thôi! Nội nhật ngày mai lão sẽ xoay tiền chuộc lại. Nhất định sớm tối ngày mai là lão chuộc. Có khi chỉ trưa mai là lão đã đưa nồi về, con mẹ nó mà không để ý thì cũng không biết. Vả lại, lão chuộc ngay ngày mai cơ mà. Hào rưỡi hay hai hào, gặp việc chỉ một buổi công là trang trải xong. Không thì lão đi vay mấy ông già dưới kho gạo. Hay cùng quá lão nói nhỏ với cậu giáo Thanh, với cô Dâng làm gì chả giật lửa được!...
Mẹ La vẫn rên rỉ. Xách cái bị trong bỏ cái nồi đồng to như thế, lão La ra đến đầu ngõ rồi mà vẫn chưa gặp ai hỏi han gì cả. Sắp qua mấy cửa hàng cắt tóc, thợ may, đèn điện sáng choang, kèn hát lanh lảnh ở ngoài ngõ, lão La vội thụt đầu lại cho cổ áo nhô lên và đi loáng cái, suýt đâm bổ cả vào cột điện ở bờ đường. Ngoài phố càng sáng đèn, càng đông hơn. Những tranh, những biển và cửa những rạp hát Lạc Mộng Đài và rạp chiếu bóng phố Cầu Đất cứ rực lên như những cửa động tiên mở hội. Mấy cửa hiệu to đều đua nhau mở đèn chạy chữ điện ngoằn ngoèo, và phóng loa máy hát. Công tử tiểu thư dập dìu từng đôi, từng đàn. Đèn xanh, đèn đỏ, kèn trống rập rình của mấy nhà đăng xinh càng làm lão La hoa thêm mắt, ù cả tai cả đầu cả óc.
Lão La đã đến ngã tư Cầu Đất rồi. Chưa đến chợ Vườn hoa đưa người, lão đã thấy la liệt những đèn chai, đèn bão, đèn hoa kỳ của những hàng thịt chó, bún sáo vịt, cơm thừa trại lính Cátdem, thầy bói, giầu nước, ống nhòm, ba que, bài tây ở các gốc cây, ở cả gần nhà đái và cả bờ sông Lấp.
Hàng thì nhiều nhưng đều ngồi vêu ra. Vẫn toàn những khách ngồi chầu hẫu, hút nhờ điếu, ghé gẩm chuyện cho đỡ buồn mà đỡ cả đói nữa. Giai, gái, nạ dòng, đàn ông đứng tuổi, nhà quê, thành thị túng đói, ông già bà lão ốm yếu tàn tật, mụ đưa người ma cô ma cậu, anh chị du côn, trốn chúa lộn chồng, bị lừa đảo vơ vất, mồi chài cho các sở mộ phu, thày cò, ông đồng bà rí... Quang cảnh lúc nhúc, ngao ngán, nhớp nhúa, vẫn như quang cảnh mọi tối, nhưng lão La thấy vui lạ hẳn đi.
Lão được hết hàng này đến hàng khác mời giật mời kéo. Hàng lão La sà xuống là hàng thịt chó. Đây, chồng đương pha thịt, một cái sỏ chó chặt côm cốp trên thớt, hàm răng trắng ởn nhăn ra cứ nhảy lên như vẫn muốn đớp người. Vợ thì quạt chả, cái bếp bằng hộp sắt tây to, mùi thơm và khói khét mù mịt. Hai khách rượu quần áo cũng rách rưới như lão La vừa ăn vừa chuyện vừa ngoái nhìn chiếc xe ba gác và gánh củi. Lão đặt cái bị kẹp vào hai đầu gối. Lão lấy đầu ngón tay trỏ lật đi lật lại một đùi chó vàng nhẫy và mớ dồi nhoang nhoáng mỡ.
- Ông xơi miếng nầm nhé? Hay ông xơi chỗ đùi này? Tiết canh cháu mới đánh ông xơi một bát. Dồi hôm nay đặc biệt lắm, ông lấy một đĩa nguyên dồi với gan. Cháu rót rượu ông. Nhựa mận, chả, ông xơi ạ ạ ạ...
Gã chồng mời khách cứ liên chi hồ điệp vần vè hẳn hoi như gã chủ quán ở các tích chèo vậy. Lão La ngắm lại một lượt nữa rồi gọi:
- Thái hai xu dồi không thôi và ba xu thịt nầm. Đong cho "hươu" rượu.
- Ông xơi được mắm tôm ạ? - Người vợ hỏi.
Lão La gật đầu:
- Cứ đưa chén mắm đây cho tôi. Cho tôi cả chỗ chanh kia. À cho tôi tí óc chó với tí muối, để vào cái đĩa riềng rau ngổ ấy!
Người vợ vừa đơm xong đĩa dồi và đưa rượu bày ở trước mặt lão La thì lão La đã lau lau cái chén móng với vuông khăn vải đỏ vắt ở vai. Lão rót một tí rượu vào chén láng đi láng lại rồi đổ vào chén mắm vắt chanh, đánh cho ngầu bọt lên. Lão ngắt chọn những ngọn ngổ ba lá và những miếng riềng hơi khô, dày và to bằng đồng hào đôi. Lão để đĩa bát đâu vào đấy ở trước mặt rồi mới uống. Tợp thứ nhất của lão La vừa hết nửa chén móng. Lão ho nhẹ một cái, gân cổ giật giật, vẻ mặt chìm đi nghe hơi men thơm sực trong cổ họng và sự ấm áp tê ran khắp người. Lão không gắp thức ăn, tợp thêm một hớp cạn chén rồi rót rượu tiếp. Lão đặt miếng dồi vào lòng bát với ngọn ngổ ba lá và tí muối ớt dầm với óc chó. Lão tợp thêm hớp nữa rồi mới nhắm thức ăn, cắn một góc miếng giềng và nhánh hành nhỏ.
Câu chuyện giữa lão La với người làm ba gác, người đi bán củi dần dần tơi tả xoắn xuýt như là của những bạn cố tri lâu ngày cách biệt giờ lại gặp nhau. Chai rượu chỉ còn nửa chén móng, và đĩa riềng, ngổ, hành đã phải gọi thêm lần nữa mà đĩa dồi, đĩa thịt nầm mới hết vài miếng. Nghe tiếng quạt phạch phạch, than lửa nổ sáng lách tách ở sau lưng, lão La uống cạn chén móng rượu đoạn ngoái lại trông. A! Lại còn bánh đa nữa! Lão La gọi thêm chiếc bánh đa của bà lão ngồi ghé bên hàng thịt chó và hàng nước. Lão nhai bánh, ề à, lốp cốp.
- Ừ, đong cho tôi nửa "hươu" nữa... Kìa hai ông uống đi... Ừ, một nửa "hươu" nữa. Cho thêm mấy nhát riềng, thái dày dày một tí bà hàng ạ. Nào... ta uống... Tôi là tôi chỉ thích chỉ quý người biết chuyện thôi!... Uống... ta uống...
Tay lão La vung ra. Một chân lão co lên ghế, đầu gối lại chạm mang tai. Lão nghiêng ngả cười rất to và nói cũng rất to. Mắt lão nhìn hai người bạn, nhìn vợ chồng gã hàng thịt chó, nhìn bà lão bán bánh đa, nhìn xe cộ qua lại, nhìn chung quanh, mắt càng ngà ngà như nghe ru, nghe hát, nghe múa, nghe ca trầm bổng, phơi phới vô cùng... Và chính lão cũng cùng ru hát vậy. Cho thật yên trí, lão La thọc hẳn cái chân lành vào bị. Lão lại gọi nửa "hươu" nữa. Lão bẻ nửa chiếc bánh mời hai người bạn. Lão còn gắp cả dồi, thịt nầm vào bát hai người bạn kia mời ăn nữa.
***
Lão La không còn thể nhớ được mình đã ăn uống như thế nào, hết bao nhiêu tiền, đã phải nghe những điều ăn tiếng nói gì của vợ chồng nhà hàng, và phải nói với họ ra sao. Lão lại khật khưỡng đi, không ra ngủ, không ra thức, không ra sốt, không ra khoan khoái. Nhưng lão lại nhớ rất rõ những chuyện cũ với bao nhiêu điều tỉ mỉ mà ít khi lão gợi đến.
Năm nay lão đã bốn mươi sáu. Hai thứ tóc trên đầu rồi. Quê lão ở ngay gần con sông Cầu Rào kia, đứng ở đầu xóm nhà cũng trông thấy các ống khói nhà máy Xi măng, Máy tơ, tàu Sáu Kho và cả ô tô chạy Hải Phòng - Đồ Sơn. Làng Lương Khê của lão vừa làm ruộng vừa có nghề đi lưới, ruộng công hàng hơn ba mươi mẫu, thế mà nhiều người phải bỏ làng ra Phòng và đi các nơi đấy! Lão bồ côi cha mẹ. Chăn trâu cho người họ khổ quá, lão phải trốn ra đi năm mới mười ba tuổi, còn cởi truồng và để chỏm. Lão gánh nước, quét nhà, cắp rổ đi chợ, lấy than, lấy củi cho mấy cửa hiệu hàng bánh, hàng phở trên phố rồi sau xin được làm "quýt" dưới tàu Giang Môn. Được năm năm lão mới vào phụ bếp. Ông bếp già mến lão lắm. Nhiều khi ông để "thằng chú" nó làm cả bữa cơm có những món sơn hào hải vị mà từ má chín, mại bản, ba toong, tài công, dì xế... ai ăn cũng không còn chê vào đâu được.
Nhưng đi làm như thế lão chỉ chôn chân ở mãi dưới tàu và tháng tháng cứ phải ngửa tay ra như kẻ đi xin tiền người ta thôi! Làm kiếp thằng người mà cứ mãi mãi chui rúc ở cái bếp chật như nhà ngục, giời nắng bức thì nóng như vạc dầu, ghê khiếp phát ốm lên được vì mùi mỡ, mùi thịt cá, mắm muối, sống như thế sao được?! Nhất là lão lại có vợ có con ở cả trên bờ. Nhất là lão lại còn kẻ nọ người kia họ hàng làng mạc. Phải! Phải! Lão còn cả cái làng Lương Khê và cái tổng Lương Sâm của lão nữa. Vợ lão cũng làm thuê làm mướn. Hai vợ chồng dù có kiếm được bao nhiêu chăng nữa cũng vẫn là thân nhục, mạt đời cũng không khá được!
Nghĩa là phải làm sao lão gây được một cái căn bản để lão lên bờ và vợ lão thì ở nhà với lão!
Lão sẽ ngồi bát họ "cùng" để lấy tiền làm dấn vốn. Lão sẽ đóng một cái xe phở bán ở đầu đường. Đóng cho lão cái xe này phải là những tay thợ giỏi. Nó giống như kiểu tàu Bắc Kinh, tàu mới đóng to nhất chạy đường Hà Nội - Nam Định vậy. Xe phở tàu sơn trắng, ống khói cũng kẻ cờ. Cũng boong trên boong dưới, cửa kính, lan can, đèn điện. Boong trên, treo thịt rau hành và bày bát đĩa sứ, chai lọ xì dầu, sáng sấu, tương ớt và rượu. Rượu hổ cốt, rượu Ông cụ và cả Mai quế lộ nữa. Boong dưới, để rổ rá, bát đĩa thường, dao thớt. Buồng máy là bếp lò, thùng nước dùng riêng, thùng xúc bánh riêng, nước sôi để pha chè riêng, nước tráng bát đĩa riêng... Khách ăn, bát đĩa dọn ngay chung quanh lan can. Chỗ ăn cũng đủ cả vịt giấm, nước mắm, lọ tương ớt, hồ tiêu dán giấy xanh đỏ, đề chữ Nho, chữ quốc ngữ, lọ hoa và mùa nào thức ấy, cam, quýt, chuối. Cà chua, hành, tỏi, thịt đều treo trong lồng kính. Thìa đũa bát đều có giấy bản lau thêm. Hành dúng gọi tha hồ. Các thứ nước chấm đều thượng hảo hạng. Phở đủ cả tái, áp chảo, xào giòn. Nước dùng và bánh phở xào giòn của xe phở Lương Khê tiếng tăm không những chỉ nức tỉnh Hải Phòng mà còn truyền đi các nơi, vào cả Sài Gòn Chợ Lớn, sang cả Hướng Coỏng, Tân Gia Ba nữa.
Lão sẽ cạnh tranh với cả phở nước Quảng Nguyên ở phố Cầu Đất cùng Hải Phòng với lão. Lão sẽ cạnh tranh với cả phở áp chảo Nghi Xuân và mỳ vằn thắn của Đông Hưng Viên trên Hà Nội. Cao lâu Viễn Lai, Nam Định khét tiếng bánh bao và cháo bồ dục, cháo cá cũng phải chạy xa phở Lương Khê. Những khách ăn đêm, ăn sáng sành ăn của Hải Phòng và các khách các nơi qua lại đều tìm phở Lương Khê, chờ phở Lương Khê mà ăn. Người làng Lương Khê và cả hàng tổng Lương Sâm ai ai lên Phòng cũng tìm đến lão. Họ đều ngạc nhiên vì lão, quý mến lão. Các cụ lên tỉnh có việc hay chơi hội hè sẽ đến hàng lão thưởng thức cái món phở tuyệt trần đời, danh vang bốn biển của lão, và nhớ mãi, về làng chuyện mãi với bà con...
... Tiếng chuông boong boong của xe phở lúc đẩy đến đầu ngã tư... Khói bếp lò bốc lên ở ống khói tợ như khói tàu to lúc đỗ bến... Những ngày hội chợ, hội Giăngđa, Cáttơ, tàu cũng phấp phới kéo các thứ cờ... Hai chữ Lương Khê bằng đồng lúc nào cũng sáng lộng ở đằng mũi vẽ mỏ neo hẳn hoi... Những ô kính, bóng đèn điện, bát đĩa, chai lọ lấp lánh. Rau thịt tươi ngon cứ roi rói trong lồng kính... Lão thì làm phở, vợ lão ở nhà tráng bánh, con gái lớn bưng dọn bát đĩa, tăm nước, chạy đi chạy lại sai vặt. Đời con, đời cháu lão sẽ gia truyền mãi cái hàng phở. Lão sẽ chuộc lại vườn đất ở nhà quê mà chú bác lão đã cướp của lão lúc lão còn nhỏ đem cầm bán đi. Lão sẽ làm nhà từ đường, xây mộ bố mẹ và các cụ. Lão sẽ mua nhiêu, mua lý phó... Lão sẽ lo cho con gái lớn gả chồng, con giai lớn cưới vợ... Lão sẽ...
Lão La đã lấy được đúng sáu chục bạc bát họ dốc ống cuối năm. Vợ lão cũng ngồi một bát họ được thêm hai mươi đồng. Lão chỉ chờ Tết xong là gọi mấy người thợ quen đã hẹn hò nhau từ mấy năm nay về nhà đóng xe tàu phở. Lão định lấy thêm bát họ non ba chục nữa để sắm sửa các thứ rồi nhờ các cụ xem cho ngày nào được thì khai trương cửa hàng. Thế là lão La lên hẳn bờ.
Một buổi sáng, lão La ở nhà chú Quay ra. Chú Quay là người đã xin cho lão xuống làm quýt dưới tàu và đứng ra bảo lãnh cho lão vào làm phụ bếp. Nhà chú Quay có việc. Chú ăn mừng đầy tháng thằng con trai. Chú đã ngót năm mươi, thím thì ba mươi chín. Hai vợ chồng mong ngày mong đêm mới được thằng bé nọ, sau cả thảy bảy bận đẻ con gái. Ông bếp già và lão La đến làm tiệc giúp. Tối hôm trước, ông bếp già và lão cơm rượu rồi ngủ lại ở nhà chú Quay. Sáng sau hai người vừa xách làn ra cửa định gọi xe thì thấy phố xá bỗng dưng sao mà lạ lùng kinh khủng thế này?
Tiếng kêu thất thanh "Loạn rồi!", "Loạn rồi!" cứ ồn ồn ồn ồn lên. Cửa hàng cửa hiệu đóng cửa sầm sầm. Xe đạp, xe tay, xe bò chạy bừa lên cả gồng gánh đàn bà trẻ con. Đòn gánh, dao phay, dao rựa, xà beng, cuốc chim đập phá, đâm chém rầm rầm túi bụi. Du côn máy nước, thằng quần đen, quấn khăn bông dòng dọc xanh đỏ, thằng quần dài nhiễu tây đen, choàng trên người khăn vuông trắng, cứ khoa dao, vác búa xông vào cướp phá mấy nhà khách ở bờ sông, ở gần chợ. Một thím khách tóc bím, chân bó, đi nhón từng bước, người đã béo lại sù sù quần áo, dắt một đứa con chới với gào khóc đòi lại bọc quần áo. Một thím khác mặt bê bết máu, dái tai chảy xệ bị giựt đứt đôi hoa tai vàng. Thím này cứ cầm miếng thịt tai bị rứt run lên cầm cập nhìn máu rỏ và tìm hoa đeo. Một chú Khách già bị chém, cánh tay sã ra, đi chui chúi ôm tai kêu khóc. Cái hòm đồ chữa giày dép lòng thòng dây gai, vải rách, da vụn cứ quấn lấy chân chú làm chú ngã dúi ngã dụi, dậy rồi lại ngã.
- Khách nó giết hết An Nam ta rồi bà con đồng bào ơi!...
- Nó giết hết An Nam ta rồi đồng bào bà con ơi!... Phá đi, phá đi...
- Bà con ơi! Phá đi... phá đi... Trên phố Khách, ngõ Hàng Cháo ta phá hết rồi!...
- Nó đốt nhà của ta bên Hạ Lý, nó cướp nhà của ta bên Cốt phát rồi!
Tiếng kêu hét, tiếng rú, tiếng gọi. Người chạy người ngã. Nhà cửa hàng hiệu sầm sầm tan hoang. Những tiếng "giết", "giết hết"... lão La càng nghe càng thấy gai rởn hết cả người và càng thấy tối sầm tối sịt cả mặt mày. Nếu không bị cái thộp ngực, giật tóc tưởng đến sụn ngực, bứt đầu ra, thì lão La cũng còn ngơ ngác, cố nghe ngóng thêm, nhìn thêm quang cảnh ở trước mặt. Hai thằng "doóc" ở bóp bến tàu cởi trần trùng trục, mình trổ đầy đầu rồng, đầu hổ, một thằng dằn mặt lão La ra, một thằng bẻ chéo cánh tay mà reo lên:
- A ha... chúng mày theo "khựa" (2)đi giết đồng bào An Nam, đi cướp phá đồng bào An Nam đây. A ha... cái thằng này nó đi theo thằng "khựa" Quay làm loạn đây!
⚝ ✽ ⚝
(2)Khựa: tiếng gọi khinh bỉ các Hoa kiều thời đó.
Sao lại thế này? Sao lại thế này?
Lão La chỉ theo chú Quay xuống tàu, và chú Quay thì làm phúc xin cho lão công việc, bảo lĩnh cho lão làm ăn, chứ sao lại có cơ sự đi giết đồng bào, cướp nhà phá cửa đồng bào? Còn chú Quay thì cả ngày chẳng nói chẳng rằng, chỉ chúi mắt chúi mũi xuống hết cái bàn tính lại đến sổ sách, mà lại là làm giặc làm loạn ư? Là giết người An Nam ư?
Lão La xanh mặt nhìn lên. Chính là thằng "doóc" của đội Nhị. Lão ríu cả lưỡi:
- Không!... Chúng cháu đến nấu cỗ cho nhà chú Quay... Chú Quay ăn đầy tháng con giai...
- Chúng cháu đến nấu cỗ cho nhà chú ký Quay... chú ký Quay làm ở dưới tàu Giang Môn với chúng cháu mà...
Cả ông bếp già và lão La cùng kêu lên. Hai thằng nọ lại kêu to hơn và càng tru tréo:
- Chúng nó theo Khách đi giết, đi cướp nhà phá cửa bà con An Nam đây đồng bào ơi!...
Hai thằng vừa tri hô vừa giật tóc vừa thụi liên hồi vào ngực lão La. Đội Nhị đeo dùi cui cao su đạp xe đến. Sau xe đội Nhị là xe xếp bóp. Xếp bóp đeo súng lục bao da, đạp xe thong thả vừa hút thuốc lá. Hai xe đạp nữa của hai cút lít ta đạp ở hai bên xe xếp bóp. Lão La thấy có cả xe ông đội và xe quan xếp liền mừng rú lên, cố giằng ra:
- Ối, ông đội ơi! Ối, quan xếp ơi!
Nhưng cả bốn xe càng lừng lững đạp như những buổi chiều rỗi rãi đi tuốc-nê các phố. Trong khi ấy, ở bên kia sông Lấp, dọc đường Bonnan, có mấy thằng "doóc" ăn mặc kiểu nhà quê và phu xe cứ chạy rống lên và cũng tri hô thất thanh, cũng hò hét, chồm chồm trỏ sang khu phố Khách: "Chúng nó giết hết An Nam ta rồi bà con đồng bào ơi! Cùng máu đỏ da vàng mà chúng nó giở mặt đến thế! Chúng nó phá hết nhà cửa, cướp hết của bà con đồng bào ta ở bên phố Khách, Hạ Lý rồi!"
Cầu Carông đã quay ngang lúc nào không biết. Đầu đường ngã tư chợ Vườn hoa, ô tô cam nhông mật thám Sở cẩm đứng chắn, nội bất xuất ngoại bất nhập. Lão La vừa kêu gọi, vừa lạy van, nhưng cả bốn ông, từ quan Tây đến thầy đội ta đều như không nghe thấy gì, không trông thấy gì cả...
... Khi bọn các quan, các thầy đạp xe đi khỏi thì lão La bị đạp một cái vào mạng mỡ, tống thêm vào ngực, ngã dúi vào góc tường. Lão như chết đi mấy phút. Lúc lão lồm cồm ngồi dậy, chùi máu mồm, máu mũi xong, sực rờ đến làn mây, đến hầu bao thì cả làn mây, hầu bao với món tiền hơn sáu chục bạc của lão và mười lăm đồng bạc của chú ký Quay, ân nhân của lão nhờ lão đi sắm sửa làm tiệc mừng con giai kia đều không thấy đâu nữa!
Hôm ấy, mẹ La về Lương Khê để nhờ các cụ biết chữ trong làng mở lịch xem ngày cho, và mời các cụ hôm nào khai trương cửa hiệu thì lên xơi chén rượu nhạt mừng cho vợ chồng nhà y. Sáng hôm sau, mẹ vừa ra khỏi cổng làng thì ô tô cam nhông Sở mật thám, Sở cẩm đã trấn ở ngoài đường cái. Không biết bao nhiêu cút lít, mật thám bổ đi các xóm bảo rằng khám bắt các đồ trên phố bị cướp bị lấy về trong trận loạn hôm qua để giả về các chủ. Bao nhiêu đồ đồng, đồ sứ đều bị hỏi giấy biên lai. Cả hoa tai vành cánh cũng bị hỏi giấy vàng, giấy hiệu. Nhưng có giấy cũng bị lấy, không có giấy cũng bị lấy... Mẹ La và đứa con gái nhớn cũng bị khám, mẹ mất đôi khuyên vàng hai đồng cân và bộ xà tích bạc, con mất đôi khuyên vàng một đồng cân...
... Cái xe phở kiểu tàu Bắc Kinh dần dần chỉ còn chờn vờn thăm thẳm trong tâm trí lão La sau cái năm loạn to giữa An Nam và Khách ấy! Từ ngày đó, lão uống rượu nhiều hơn và chiều nào lão cũng uống. Nhưng những bữa rượu về chiều nọ không phải là những bữa bên cái xe phở, vợ con quây quần ở đằng mũi, một bát to thịt nhừ, một đĩa to thịt tái, một bát hành giấm trộn làm hắt hơi nhức cả mũi, và tương gừng ngọt thỉm... Lão thì khề khà với các con, đứa nhỏ ngồi trên đầu gối, đứa nhỡ ngồi cạnh đùi, con nhớn xới cơm cho bố, còn vợ lão cặp con bé vừa ăn vừa bón cho nó.
Và cái làng Lương Khê, ruộng công cấy được cả chiêm lẫn mùa hàn