← Quay lại trang sách

Sóng Gầm Chương 9

Chiều nay thứ bảy, lại vào tuần đầu tháng. Mới một giờ mà cả các ôten Tây, nhà đăng xinh, hiệu buôn lớn đã bật đèn sáng trưng. Các bầu đèn pha lê, thủy tinh tráng men, các cột lồng kính gương và mắc hoa, các chân tường góc cột đều chói lên rực rỡ. Đường Bônbe ô tô chạy cứ vun vút, loang loáng. Cánh tay bọc vải trắng và chiếc chày cao su sơn trắng của những đội xếp đứng trên các bục giữa ngã tư, giơ ra, cụp vào, xoay bên trái, quay sang phải như múa! Tiếng còi cầm trịch cho người và xe cộ qua đường nhịp theo hách dịch, kiểu cách. Con đường Cầu Đất xuống Quần Ngựa còn nhộn nhịp hơn với những ô tô của những quan khách Hà Nội và các tỉnh đổ về dự cuộc đua ngựa "Khai mạc Mùa đua ở Hải Phòng" mà hầu hết các ngựa thi và dô kề đã từng giật những giải lừng tiếng của Hà Nội, Hải Phòng đều có mặt. Cờ tam tài, cờ vàng giăng suốt từ đầu đường Cầu Đất, qua Trại lính khố xanh xuống mãi Cầu Rào. Cách mấy cột cờ lại có một đội xếp quần áo dạ màu lá cây đứng gác. Những đội xếp Tây đeo bao súng thì đứng đón ở các đầu ngã tư và cửa nhà "seéc" Quần Ngựa.

Trời nắng. Gió nhẹ nhưng đủ lạnh. Những áo nhung màu tươi nhất, lộng lẫy nhất, những áo măng tô kiểu mới nhất, cầu kỳ nhất, đều diện đi ra hết ngoài phố, lượn bên cạnh những bộ âu phục và những bộ tóc chải hết sức mỡ màng. Tất cả các nhà đăng xinh đều rậm rật tiếng kèn trống xập xình, mõ lốc cốc, chũng chọe xoang xoảng. Ô tô, xe tay Ômích (1)bóng nhoáng xếp thành dãy dài ở trước cửa treo đầy đèn và kết hoa. Các rạp hát rạp chiếu bóng cũng đông nghịt người ở cửa, cũng sực lên mùi nước hoa, phấn sáp, và cũng có đủ các thứ kiểu quần áo, đầu tóc và giọng cười nói diễu lượn. Đèn, hoa giấy và từng dàn tranh ảnh dựng ra cả ngoài bờ đường. Biển quảng cáo tên những vũ nữ nhảy múa đặc biệt chiều nay, đêm nay, và biển quảng cáo những vở hát sắp tới với những đào kép trứ danh mà tên thì nghe như người ở những Ba Lê, Nữu Ước, Thượng Hải mới về, ảnh thì phóng to cũng như những ngôi sao của màn ảnh Hôlyút hiện thân, đều được chiếu đèn sáng lòa.

⚝ ✽ ⚝

[1] Ômích: xe loại sang của hãng Ômích.

Ở những hiệu kẹo bánh thực phẩm và đồ chơi to nhất của phố Tây, phố Khách, từng gian hàng đã dành riêng ra để bày những thứ hàng đặc biệt mới ở Tây sang. Tuy còn non tháng nữa mới đến ngày lễ Thiên chúa giáng sinh nhưng ở những hiệu này đã có những hang đá đủ cả thiên thần, mục đồng, dê cừu và ba vua đến chầu chúa Giêsu hài đồng bằng đất nặn mà quần áo nhung, len, kim tuyến cũng đưa từ Tây sang và thi nhau bày cho khác lạ. Những ông già Nôen râu tóc quần áo trắng như tuyết, những chiếc kẹo, những ổ bánh hình quả trứng, hình chiếc giày to bằng chiếc nia cũng mắc đèn kết hoa lá, bày trong những tủ kính với những bìa lịch, ảnh bưu thiếp, sổ kỷ niệm, anbom ảnh in, thêu các phong cảnh nước Đại Pháp ngày mưa tuyết và buổi bừng xuân.

Ông ký Thái vừa đi qua những con đường của cái thế giới hoa lệ nọ.

Ông ta bước chân lên thềm nhà giấy thì người loong toong mở toang cánh cửa. Ông lấy ở cái túi nhỏ cạnh cạp quần ra chiếc đồng hồ quả quýt Ômêga vỏ mạ vàng hai nắp, cất trong một cái hộp da cài dây khóa cũng bằng đồng mạ vàng móc vào thắt lưng. Chiếc đồng hồ ấy cũng như ông - không sai một phút nào với đồng hồ sở cả. Đúng hai giờ kém ba phút. Ông ký Thái rút mùi soa lau mắt kính và mồ hôi trán. Ông thấy đầu nhẹ thêm được một chút. Trưa nay ông dậy muộn hơn mọi buổi mất gần mười phút. Thấy trong người ngào ngạt, ông phải xoa dầu bạc hà Nhị Thiên Đường vào thái dương, mỏ ác và cả gan bàn chân. Ông còn uống ba cùi dìa cà phê đường pha với nước nóng và năm giọt rượu Tây cũng là bạc hà rồi cài lại chiếc khăn len mỏng che ngực, đội mũ, cắp cặp đi làm.

Vẫn đúng bằng giờ mọi ngày: hai giờ kém hai mươi. Dọc đường, ông ký Thái hắt hơi liên tiếp, nước mũi nhiều hơn. Bước chân thấy mền mệt. Cái cặp da ôm xếch lên gần ngực thấy nặng nặng và ngực thì tức tức. Ông luôn luôn nhìn đồng hồ các hiệu các nhà. Cái thì hai giờ kém mười, cái thì kém năm, cái thì những hai giờ năm. Vì thế khi đến sở thấy vẫn không chậm phút nào thì ông ký Thái thở phào một cái vừa như để trút khỏi cái mệt mỏi nặng nề trong người, vừa như để gắt để chửi những cái đồng hồ tồi tàn nọ. Phủi phủi lại mặt bàn giấy và ghế ngồi xong, ông ký Thái lấy ở tủ ra cuốn sổ to và tập hồ sơ các giấy tờ của bàn giấy kế toán phòng bên đưa nộp ban sáng. Ông đặt ở mé tay trái. Rồi ông mở ngăn kéo to thứ hai cũng ở tủ đó, lấy cặp thư từ của các nhà băng, công sở, hãng buôn gửi đến. Ông đặt ở mé tay phải. Cuối cùng ông mở tủ két lấy cuốn sổ cái với tập hồ sơ thống kê và dự toán. Ông đặt ở giữa bàn đoạn ngồi xuống ghế sau khi bỏ chùm chìa khóa vào ngăn kéo con ở bàn giấy.

Cặp mắt kính của ông cúi xuống loang loáng đưa trên những trang sổ và giấy tờ. Đầu bút chì đỏ chăm chăm trên những con số và những dòng kết toán. Cái trán ngắn, da đã nhăn nheo càng nhăn hơn vì suy nghĩ. Bộ mặt ông xương xương, gồ gồ, miệng vừa móm, trông ông càng khắc khổ. Ông ký Thái là thư ký đầu bàn giấy của nhà Đờvanhxy. Ông làm từ đời Đờvanhxy cha, ngày y mới thôi Sở lục lộ ra mở thầu khoán. Hăm nhăm năm trước đây, ông cũng ngồi ở khu nhà này, bộ phận bàn giấy này. Ngày ấy, khu đây chỉ có ngôi nhà một tầng chung quanh có hàng hiên, chia làm nhiều buồng, vừa là nhà chủ ở, vừa là sở, nhà giấy. Sau dãy nhà chính, cách quãng một vườn rộng, có dãy nhà nhỏ để làm nhà bếp, kho, nhà tiêu và nhà nuôi gia súc. Chung quanh khu nhà đã trồng một hàng rào ô rô dày sít đến con chim sẻ, con chuột rũi cũng không lách vào được, lại còn một hàng rào sắt. Cây cối um tùm, bãi cỏ có cả cỏ lác mọc rậm sịt, lại ngập sâu như đầm, khu nhà của sở thầu Đờvanhxy cha, tục gọi là sở thầu Tây cụt, trông xa như một đồn trại ở đường rừng vậy. Các khu ở trước mặt, ở phía sau cũng rộng, cũng lảnh, và cây cối như thế.

Giờ, những tòa gác ba tầng, những kho hàng, nhà xe, những phòng giấy rầm rập hàng mười bàn đánh máy của nhà Đờvanhxy con, chiếm gần cả dọc đường ra Cầu Ngự. Mé tay phải, trông sang nhà băng Đông Dương, nhà băng Ănglê, mé tay trái trông ra đường Bônbe. Trước mặt là vườn hoa, nhà kèn và bến tàu. Những tòa nhà của Đờvanhxy tuy không đồ sộ như khu nhà băng Đông Dương, hay lịch sự kín đáo như khu nhà băng Ănglê, nhà băng Pháp Hoa, nhưng cũng rất là đặc biệt. Mỗi một tòa một kiểu. Tòa thì tầng dưới xây toàn bằng đá xanh. Tòa thì xây đổ xi măng cốt sắt, mài nhẵn như đá hoa. Tòa thì bằng những thứ gạch ngói đặt làm riêng với nhà máy gạch Vật Cách. Các kho hàng kho xe cũng xây kiểu mới, vừa kiên cố, vừa nguy nga. Kể cả các vườn và các dãy nhà phụ thuộc thì khu sở Đờvanhxy còn to hơn cả khu nhà băng Đông Dương và sang hơn cả tòa đốc lý.

Nhưng đây chỉ là nhà sở và bàn giấy. Còn nhà riêng Đờvanhxy thì ở cách đấy một phố, gần khu tòa đốc lý, đối diện với nhà chủ nhất Xi măng. Đờvanhxy bố mất thì Đờvanhxy con ở Pháp sang. Được một năm thì khởi công xây hai khu nhà nọ. Đờvanhxy con ra kiểu. Ông ký Thái làm dự toán và trông coi mọi khoản chi tiêu. Ngày khánh thành biệt thự, nhà giấy, kho hàng của hãng Đờvanhxy con, ông ký Thái được tăng lương lên hẳn tám đồng. Trước lương ông tháng ba mươi hai đồng. Ngày ông mới làm cho Đờvanhxy bố, lương ông có mười tám đồng. Cứ ba năm, lương ông lại được tăng sáu đồng. Tới nay, mỗi tháng ông lĩnh sáu mươi tám đồng.

Năm ông ký Thái lương tháng được ba mươi sáu đồng là năm ông ngồi bát họ nghìn hai và được Đờvanhxy thưởng đặc biệt cho ông một nghìn nữa vì một món thầu Đờvanhxy vớ to mà ông ký Thái làm dự toán rất khớp! Ông làm cái nhà ở đường Quần Ngựa với những vật liệu Đờvanhxy vừa bán vừa cho. Chính Đờvanhxy muốn ông ký Thái ở ngay sở, dùng bao nhiêu buồng hay đồ đạc tùy thích. Nhưng ông ký Thái không nhận. Cái nhà ông xây tuy chỉ một tầng nhưng đủ cả vườn hoa, vườn giồng rau, và các cây như na, bưởi, chanh, cam, đào, mận, cau thì toàn là những giống quý. Lại có cả ao thả cá nữa. Nhà ông vừa ở vừa làm nhà thờ vì ông là trưởng họ.

Đờvanhxy còn muốn ông ký Thái dùng riêng một ô tô. Ông cũng không nhận. Ông bảo ông có máu chóng mặt. Ông đi bộ bốn buổi, đi về ăn uống thấy ngon. Có điều này ông không nói ra là ông giữ ý với anh em trong sở và bà con quen biết. Ai nắm tay thâu ngày đến tối?! Ông rất giận cái "thằng giáo" ở dưới Cấm, em họ ông. Vợ chồng nó làm ăn thế nào mà vợ thì có một cửa hàng vải to ở chợ huyện, chồng thì dạy học lương tháng hơn hai chục đồng, về hưu trí cũng ăn lương, chỉ phải nuôi hai thằng con đi học, vậy mà vợ thì vỡ nợ, chồng thì cầm quá vòng tử sổ lương hàng hai năm, đến nỗi giờ nhà bữa ăn bữa nhịn, rồi vợ cứ thậm thụt thậm thụt vay mượn vợ ông, lấy cả từng bữa gạo, khiến ông muối cả mặt với họ hàng đằng vợ mình! Chỉ vì vung tay quá trán! Chỉ vì đua đòi với các ông thông ông phán ông thừa, sắm sửa may mặc ăn chơi...

Ông ký Thái không nhận đi riêng một ô tô của chủ còn là vì ông sợ tai nạn. Vì thế ta thấy từ nhà đến sở, ông toàn đi bộ, cả những hôm mưa gió. Ông đi nép vào trong cùng bờ hè, không bao giờ va vấp một đứa trẻ, một gồng gánh, không bao giờ phải giật mình vì ô tô hay bất cứ xe cộ gì, ngược lại mọi người cũng không bao giờ giật mình hay bị tai nạn vì xe cộ của ông.

... Ngoài trời vẫn nắng. Nắng vừa đủ phấp phới những cành lá của hàng cây và giàn hoa leo rủ xuống hàng hiên trước buồng giấy ông ký Thái. Những đàn chim khuyên tiếp nhau đến ríu rít trong các chòm hoa lá. Có con sà hẳn xuống chậu lan của ông giồng riêng bày trên lan can chỗ ông qua lại để sang các buồng giấy phụ thuộc. Cái đồng hồ treo ở buồng to bên cạnh nghe rõ từng nhịp quả lắc! Trống ngực ông ký Thái cũng như đập theo nhịp đồng hồ trong khi những con số, những dòng chữ đều đặn, lần lượt, rành mạch đi qua dưới mắt kính và đầu bút chì đỏ chăm chắm của ông. Những con số tổng cộng các khoản chi trong niên khóa. Những con số tổng cộng các khoản nhập trong niên khóa. Những con số của các món tiền gửi nhà băng Đông Dương và chuyển về nhà băng bên Pháp. Cho đến hôm nay, các khoản chi tiêu từ mấy hào, mấy xu lẻ đến hàng vạn, hàng năm mươi vạn, một trăm vạn của các sổ vẫn cắn khớp vào nhau hơn cả những khớp bánh xe đồng hồ tinh vi nhất. Và từ ngày ông ra đời, đi làm năm hai mươi mốt tuổi tới giờ - ông kém bốn tuổi đầy năm mươi, cũng chưa một lần nào ông để sổ sách trật một khớp, sai một con số cả.

Đúng 3.750.592đ86, ông ký Thái đọc từng chữ ba triệu bảy trăm năm mươi ngàn năm trăm chín mươi hai đồng tám hào sáu xu tổng cộng tiền thu nhập. Và đúng 1.679.427đ78, một triệu sáu trăm bảy mươi chín ngàn bốn trăm hai mươi bảy đồng bảy hào tám xu tổng cộng tiền chi tiêu. Bản dự trù số tiền lãi mà ông làm cho Đờvanhxy duyệt trong công việc toàn niên có thể gọi là khớp với ý muốn của Đờvanhxy. Đúng nhất là lãi của bốn món thầu cầu cống nhà cửa và sáu món hàng bán lại cho công ty hỏa xa Vân Nam, hãng tàu Lapic và Sở lục lộ thủy Hải Phòng. Ông ký Thái lẩm nhẩm đọc những con số lãi. Bút chì đỏ của ông còn gạch thêm một lần nữa vào đít những con số ghi riêng trong cuốn sổ tay của ông mà ông viết nắn nót ngoài đầu bìa bằng chữ Pháp: Mémorandum 1936.

Như thế là nhà Đờvanhxy năm nay tuy được lãi hơn một triệu đồng nhưng lại thu kém năm ngoái những 560.750đ44. Đúng năm trăm sáu mươi ngàn bảy trăm năm mươi đồng bốn hào bốn xu. Còn tiền ông Đờvanhxy gửi về Pháp cho bà ấy và các con chỉ có 1.000.000đ00. Đúng! Chỉ có một triệu đồng, kém năm ngoái 200.000đ00. Hai trăm ngàn đồng... hai trăm ngàn đồng kém năm ngoái. Chà! Chà!... Lại sắp kinh tế rồi đây! Lại sắp khó khăn rồi đây! Hội đồng kinh tế tài chính Đông Dương lại phải làm việc đây!...

Ông ký Thái đặt kính và bút chì xanh đỏ xuống bàn. Ông lấy khăn mùi soa thấm thấm trán! Trán ông lại nhăn nhăn, đôi mắt nhỏ nheo lại nhìn ra ngoài trời. Nhưng không phải ông ký Thái nhìn ánh nắng hay bóng cây. Cũng không phải ông nghe chim hót, hoa lá reo gió. Ông vẫn nhìn và nghe những ý nghĩ, những hình ảnh, những con số thì thầm trong tâm trí.

- "Cái dự án đưa cảng Hải Phòng ra Hòn Gai lớn lắm! Ông Đờvanhxy vận động chắc phải được. Đến 1939 hay 1940 thì khởi công chăng? Nhà Đờvanhxy chuyến này phải mở thêm công tơ (compte) ở cả Nhật, cả Luân Đôn nữa. Thế nào chả có dịp mình theo ông ấy về Pháp hay sang Anh sang Nhật?"

Những nếp nhăn ở cái trán ngắn hơi giãn ra. Ông ký Thái gật gù:

- Rồi mình phải ra ở hẳn ngoài Hòn Gai với ông Đờvanhxy. Mùa bức ở Bãi Cháy thì cũng tốt. Nghỉ mát Bãi Cháy cũng sang đấy!

Ông ký Thái vừa dứt câu thì trán ông lại nhíu lại. Thế là tâm trí ông lại lan man rồi! Năm ông hai mươi tuổi ông đã ra đây một lần. Ông ra ăn cưới người chị ruột, do thế mà quen một người con gái. Tuy không chuyện thẳng với nhau, và chỉ được cùng nhau đi với họ hàng một buổi chơi thuyền các hang gần đấy, nhưng hai người hình như cũng yêu nhau. Mấy lần ông đã tự hỏi mình xem có nên yêu không và nhất là có nên viết thư cho người con gái đó không, thì cuối cùng ông thấy con đường tình là nhiều cái điều nguy hiểm lắm, nên chỉ vài lần chào hỏi chuyện đôi câu với nhau rồi ông thôi hẳn. Năm hai mươi ba tuổi thì bà mẹ lo vợ cho ông. Người vợ đảm đang quán xuyến của ông ngày nay! Bãi Cháy! Ông lại ra Bãi Cháy kể cũng hay đấy! Xem cảnh xem người ngày nay ra sao. Còn nếu ông ở hẳn thì lại có phụ cấp. Ra Bãi Cháy!...

Ông ký Thái vội lắc đầu:

"Bãi Cháy, ừ thì tốt, sang! Nhưng bằng sao được Hải Phòng và nhà mình! Chà! Chà! Mấy cây cam mùa này quả sai phải biết! Còn mùa hè, tối bắc ghế ra gốc khế ngoài bờ ao, uống chè mạn sen ăn bánh đỗ xanh Hanh Tụ gửi mua ở trong Nam Định ra thì tuyệt! Chả Bãi Cháy, Sầm Sơn, Đà Lạt nào bằng được... Nhất là thằng út nhà ta nó lại sắp đi thi thành chung!"

Có tiếng gió ào qua cửa. Mấy chiếc lá khô rơi lộp bộp và chạy loạt soạt trên nền gạch hoa. Ông ký Thái giật mình, ông đưa vội cặp kính lên. Ông lại chăm chắm cúi xuống những con số với đầu bút chì đỏ.

3.750.592đ86 tổng cộng số thu, đúng!

1.679.427đ78 tổng cộng số chi, đúng!

Ông ký Thái nhẩm đi nhẩm lại rồi gạch mạnh đầu bút chì vào đít dòng con số ở sổ tay. Ông thở đánh phào rồi đứng lên mở tủ két cất cuốn sổ cái vào. Ngoài buồng to, đồng hồ ngân nga điểm thêm mười lăm phút nữa. Hai giờ rưỡi. Trống ngực ông lại đập đều, bình yên như cũ. Ông sắp xếp các thư từ quan hệ vào một hồ sơ để đệ lên bàn giấy Đờvanhxy. Ông nghiên cứu thêm mấy bức thư và công văn để giải quyết. Trong ba mươi phút nữa, ông phải viết giáp cho thư ký đánh máy hai thư cho công ty Mỏ than Hòn Gai và nhà máy Xi măng về một số hàng giao không đúng mẫu đặt và đúng kỳ hạn.

Chợt cánh cửa thông sang buồng giấy bên cạnh lại nhẹ nhẹ mở. Người thư ký trẻ lần này rón rén đến hẳn sau lưng ông Thái, hắng giọng:

- Thưa cụ... dưới Sở vệ sinh lại có người lên!...

- Sao? - Ông ký Thái ngước mắt lên, nhớn nhác. - Tôi đã dặn ba giờ kia mà. Bây giờ mới ba giờ kém hai mươi.

- Thưa cụ, ông cai già lên trình khẩn cấp với cụ là hai cu li ở trại ốm rức đầu chết rồi ạ.

- Lại có dịch đau màng óc à? Ồ thế thì rầy rà quá! Cu li vệ sinh cũng bị đau màng óc chết!?!

- Thưa với cụ, con chỉ thấy trình ốm rức đầu vừa mới chết.

- À! Chỉ rức đầu mà ốm chết? Thế nhưng mà hai người cùng ở một nơi, cùng rức đầu, rồi cùng chết, như thế có thể là dịch chứ gì?

Ông ký Thái gật gù bằng tiếng Pháp:

- Phải! Rất có thể là dịch đây!

Người thư ký trẻ tuổi đắn đo:

- Thưa cụ để cụ hỏi ông cai già ạ... Ông cai già nói với con thưa với cụ còn có một việc nữa ạ...

Cặp mắt kính của ông ký Thái loáng lên:

- Lại còn việc? Chiều thứ bảy lại còn việc gì nữa? Thôi để tôi ra gặp ông cai vậy. Chà... chà... mới ba giờ kém mười!

Ông ký Thái xếp, chặn lại giấy tờ sổ sách, soát lại khóa tủ két, khép cửa kính lại rồi mới đi ra phòng chờ. Nhìn đồng hồ ngoài này, ông lẩm bẩm:

- Ba giờ kém sáu phút! Chà chà... thôi được!

Mười lăm phút sau ông ký Thái trở vào bàn giấy, cái trán ngắn nhăn rúm hẳn lại, trống ngực đập cứ thòm thòm:

- Công việc lại rắc rối rồi! Hai cu li rức đầu ốm chết một ngày. Một người làm cho sở đã mười lăm năm, một người bảy năm. Vợ con đã xin tiền mai táng lại còn xin mấy tháng lương làm phúc. Đó là một việc. Còn việc nữa. Mùa rét rồi, cu li xin đi đổ thùng sớm. Luật thành phố chỉ cho phép xe thùng đi trong phố từ một giờ đến năm giờ sáng. Cu li xin đi từ mười một giờ. Chà chà... đã tiền mai táng lại còn mấy tháng tiền lương. Tháng trước đã thêm cho mỗi xe một người, nay lại xin đi sớm!

Ông ký Thái ngồi phịch xuống ghế, nặn nặn thái dương:

- Người nhà cu li chết ngồi chờ đây kia! Cai cu li cũng chờ đây kia! Ông Đờvanhxy chiều nay lại không đến sở. Mà gọi điện thoại trình công việc với ông, xin ông ý kiến vào giờ này! Chà chà... những công việc như thế này sao lại không đến vào sáng thứ hai! Cu li chết, mai táng cỗ áo quan hai đồng rưỡi. Không! Phải ba đồng rưỡi, bốn đồng. Hai đồng rưỡi là của nhà thương làm phúc, gỗ mỏng đóng đinh chưa hạ thổ đã nứt toác ra. Ừ! Cỗ áo quan hạng gỗ xấu nhất cũng phải bốn đồng. Thuê đòn và người đi chôn mất tám đồng, vị chi là mười hai đồng. Năm kia năm kìa sở đã giải quyết hai "ca" như thế này rồi. Lần thứ nhất cũng một cu li chết nhưng vào năm kinh tế, cả áo quan và tiền chôn mất có năm đồng. Năm đồng mà nhà cu li lại lãi. Họ mua lại cái áo quan của bọn nhà pha chôn người ở nhà thương có một đồng rồi họ khiêng đi chôn lấy. Lần thứ hai, một cu li làm cầu bị ngã giập đầu chết thì cai bao khoán phải chịu. Lần này cho hai người mất là mười sáu đồng. Nhưng còn tiền lương? Ồ! Khó quá! Không! Phải có ý kiến ông chủ. Lần trước, với người cu li vệ sinh gọn ghẽ chỉ chi có năm đồng thôi mà ông chủ còn bảo đó là một trường hợp đặc biệt mà ông đã trót nhân nhượng. Khó thật! Cu li chết xin tiền mai táng và tiền lương. Người thì vợ già, con cái không có. Người thì một lũ năm đứa con nhỏ và vợ lại đương có mang. Cảnh như thế thì phải làm phúc cho người ta chứ. Còn đi làm sớm hai giờ, luật thành phố chứ phải giờ giấc riêng của sở đâu! Nhưng tội nghiệp, đã hôi thối lại còn rét mướt mưa gió. Mười một, mười hai giờ thì còn cửa hàng cửa hiệu nào mở nữa. Trừ ra có các rạp chiếu bóng, rạp hát tan mười một giờ... À à... còn những đăng xinh và các hiệu ăn, nhất là các ôten lớn! Ồ nếu như thế thì khó khăn thật. Nhưng phong thanh đâu ngoài Hòn Gai và trong Sài Gòn, cu li, thợ người ta còn đòi sở tăng lương, làm việc phải có giờ giấc thế nào nữa, mà họ nghỉ hẳn việc, nghĩa là đình công mà còn được cơ mà! Chà chà!... Rắc rối quá!...

Chợt ông ký Thái giơ hai cánh tay vung lên và nghiêng cái đầu gật một cái. Ông lại nói hẳn lên thành tiếng. Ông nói bằng tiếng Pháp:

- Ta cứ theo đúng nguyên tắc và làm nhiệm vụ của một viên chức thừa hành. Ta cứ gọi điện thoại để trình công việc cho ông chủ biết rồi xin ông ý kiến. Phải! Ta cứ theo đúng nguyên tắc, ta chỉ là một viên chức thừa hành...

Ông ký Thái vừa dứt câu thì lại sửng sốt vì tiếng đồng hồ điểm ở buồng bên.

- Chà chà... ba giờ rưỡi rồi!

Ông cứ để nguyên hai cánh tay mở ra giơ cao cao ở trước mặt và cái đầu nghiêng nghiêng ấy đến chỗ hòm điện thoại. Ông gọi người gác máy:

- Bác cho tôi nhà dây thép.

Thấy tiếng "alô" hỏi trả lời, ông ký Thái vội nói bằng tiếng Pháp với người đầm lai túc trực:

- Alô xin cô cho tôi 320. Vâng 320. Thưa cô 320 đương bận... Vâng tôi đợi. Xin cám ơn cô.

Ông ký Thái một tay khum khum giữ ống nói ở trước miệng, một tay rút hộp lấy chiếc đồng hồ quả quýt ra xem. Cái trán ngắn của ông lại nhăn sít lại:

- Bốn giờ kém mười lăm rồi!

***

Trước cổng biệt thự Hoa Thiên lý của Đờvanhxy, ô tô đỗ ra mãi ngã tư đường Bônbe. Ô tô của Đổng lý văn phòng phủ thống sứ, của Thường trực hội đồng kinh tế tài chính Đông Dương, của Chánh mật thám Hà Nội, Chánh mật thám Hải Phòng, của chủ nhì mỏ than Hòn Gai, chủ nhì nhà máy Xi măng, chủ nhì Máy tơ Hải Phòng, của chủ công ty vận tải và xuất nhập cảng duyên hải Bắc Kỳ, của Giám đốc phòng thương mại Bắc Kỳ. Những tài xế toàn quần áo dạ đen dạ tím, dạ màu lá cây, mũ lưỡi trai nẹp đỏ và bao tay da đứng từng đám chuyện với nhau ở bờ hè. Chuyện các kiểu biệt thự. Chuyện các yến tiệc với các nhân vật tiếng tăm có cả Hoa Kỳ, Ănglê, Hà Lan, Thụy Sĩ. Chuyện các món chi tiêu, may mặc và rượu uống của chủ. Chuyện các gái bao, các thứ đĩ của các quan An Nam, nhà giàu đưa vợ con đến cung tiến. Và chuyện của chính họ. Những chuyện "săn được bò lạc" ở Lim, Thủy Nguyên, Việt Trì. Những chuyện thuốc phiện vớ hụt. Những canh bạc bốc giời. Những món bổng bất ngờ...

Đường phố im như tờ. Trẻ con, xe bò, xe tay, người gồng gánh không dám đi qua, không dám rao gọi. Cả những người đi ở đầu ngã tư ngoài kia cũng chỉ len lén nhìn vừa rảo bước.

Đúng bốn giờ kém mười lăm, quan khách của Đờvanhxy kéo ra để xuống dự lễ khánh thành mùa đua ngựa ở nhà "seéc" Lạch Tray. Tiếng cười nói ran ran. Những bộ quần áo cực kỳ đắt tiền và kiểu tối tân nhất ở Ba Lê giở ra trưng diện. Khói thuốc lá thơm như mùi thuốc phiện hay mùi rượu ngọt quý. Những chó béc giê, chó Nhật Bản quấn quýt lấy chủ. Chánh mật thám Hà Nội người cũng cao và tóc bạch kim bồng lên như Đờvanhxy, dáng ung dung, vừa đi vừa đập nhẹ nhẹ đôi bao tay len trắng. Cặp mắt xanh và sắc như diều hâu của y đưa nhìn viên Thường trực hội đồng kinh tế tài chính Đông Dương. Y nhún vai cười:

- Chúng ta hãy kiên nhẫn đón chờ xem những kết quả tốt đẹp của cái gọi là Mặt trận bình dân trên nước Pháp của chúng ta đương bị nguy cơ chiến tranh hăm dọa!

Chủ nhì mỏ than Hòn Gai và chủ nhì nhà máy Xi măng tròn mắt cố làm ra ngạc nhiên. Chủ nhì mỏ than thì cố ra vẻ hốt hoảng:

- Và chờ đón cả xem những kết quả của Đệ tam quốc tế giải phóng giai cấp vô sản thần thánh và kiến thiết thiên đường xã hội chủ nghĩa bằng... quốc tế ca... lý luận Mác - Ăngghen... và nước dãi...

Tiếng cười vang lên. Chủ công ty vận tải và xuất nhập cảng duyên hải Bắc Kỳ không cười mà nghiêm trang cúi xuống đập đập vào mõm con béc giê hơn hớn cọ đầu vào chân y:

- Rồi mày sẽ có cái vinh dự được chọn làm vật lễ thiêu và món ăn đặc biệt cho công nông xứ Đông Dương chúng nó ăn mừng những ngày lịch sử cách mạng đỏ đấy!

Tiếng cười sặc hẳn lên trong những mùi soa. Đờvanhxy từ nãy đến giờ vẫn lạnh lùng nét mặt. Y bắt tay viên Thường trực hội đồng kinh tế tài chính Đông Dương, nghiêng mình:

- Chúng ta còn gặp nhau ở nhà riêng người chủ nhân hiếu khách kia. - Y nháy một mắt, hất hàm về phía chủ nhì nhà máy Xi măng. - Và như thế là sáu giờ ba mươi chiều mai chúng ta gặp lại nhau ở Mêtờpôn Hà Nội...

- Đồng ý! Đồng ý!

- Tạm biệt! Tạm biệt!...

- Thượng lộ bình an...

Những ô tô như những đường ánh sáng của những hình khối ngọc huyền, kim cương khổng lồ nối đuôi nhau lao trên đường xuống "seéc" Quần Ngựa. Tiễn xong khách, Đờvanhxy quay ra buồng giấy gọi điện cho ông ký Thái. Ký Thái vẫn đứng chờ ở bàn máy nói, nghe thấy chuông reeng reeng báo hiệu thì choàng người lên, suýt rơi cả kính. Đờvanhxy ngồi ghếch bên mép bàn, tay bỏ túi quần, chân đung đưa:

- Tôi đây... ừ tôi nghe. Ừ tôi nghe rõ. Ừ tôi nghe rõ lắm. Ông thư ký già và có tính thận trọng của tôi, ông cứ bình tĩnh mà báo cáo. Ừ tôi nghe rõ. Hai cu li ở trại rức đầu chết cùng một buổi. Một đứa đã làm được mười lăm năm, một đứa bảy năm. Phải mùa rét rồi... Chúng nó xin đi làm từ mười một giờ đêm. Thằng cai bảo chúng nó xin như thế. Báo cáo của ông thư ký già của tôi chỉ có như thế? Chỉ có như thế để tôi giải quyết! Hà hà!... Đây tôi giải quyết... Ông nghe tôi, ông thư ký có tính thận trọng của tôi, nghe tôi đây. Nhà Đờvanhxy chứ không phải là sở cứu tế hay hội bảo hiểm. Như vậy ông chỉ cho lệnh phát ngân mười lăm đồng cho nhà thằng cu li mười lăm năm, và mười đồng cho nhà thằng cu li bảy năm để chúng nó làm ma hay làm gì mặc xác chúng nó. Còn lương... ồ ồ ồ... mấy tháng lương!... Chúng nó có làm việc thì mới có lương chứ! Trừ phi bao giờ thuê được cả người chết làm việc, nghĩa là... không thể nào có thứ tiền giả một cách vô lý như thế. Ông nghe rõ chứ? Đấy! Công việc thứ nhất mà ông cần quyết nghị của tôi. Còn việc thứ hai, ông bảo cai về truyền cho chúng nó phải đi làm như cựu lệ. Ông nghe rõ chứ. Phải! Chúng nó cứ phải đi làm như cựu lệ. Và tôi muốn nhắc ông để ông chú ý thêm: Nhà Đờvanhxy tuyệt đối không bao giờ chấp nhận một yêu sách nào, một điều thỉnh cầu nào có tính chất vận động đấu tranh hay bị vận động đấu tranh của cu li, của thợ, của các người làm. Phải! Bất kỳ yêu sách nào cũng chỉ được vào sọt rác và những kẻ đứng ra đề xướng sẽ bị trừng trị rất nặng ngay lập tức. Chúng nó chỉ có thể hỏi xin và được ban cho tất cả những điều gì thuộc về sự làm ăn sinh sống của chúng nó. Thôi! Đó là quyết nghị thứ hai của tôi, ông thư ký già có tính thận trọng của tôi ạ. Thôi! Ừ, sáng thứ hai tôi sẽ nghe ông trình bày về bản kết toán chi thu năm 1936.

Ở ống nói đằng sở, ông ký Thái mồ hôi trán toát ra, kính tụt xuống gần mũi. Thấy Đờvanhxy sắp buông ống nói, ông ký Thái luống cuống:

- Alô thưa ông... thưa ông...

Đờvanhxy lại cười, giọng lại dịu đi, chân lại đu đưa:

- Lại còn việc thứ ba nữa! Ờ nhỉ! Xin lỗi ông thư ký già tin cậy của tôi, tôi quên đấy!... Những quà gửi ngày Nôen cho thằng con giai nhỏ và đứa con gái lớn của tôi, và quà ngày đầu năm cho vợ tôi! Ừ... cám ơn ông! Phải, bộ đồ chải tóc đồi mồi ở Cao Miên và những khăn thêu giải bàn, bày lọ hoa của Hàng Châu ấy, ông cho gửi về sau. Cám ơn ông! Còn collection bướm và vỏ ốc biển thì ông liệu gửi sao cho thằng con tôi nhận những quà của nó đúng sáng Nôen... Ừ ừ... cám ơn ông. Thôi nhé. Sáng thứ hai, chín giờ ba mươi tôi lại gặp ông. Chào ông thư ký già tin cậy của tôi và chúc ông một chiều thứ bảy và ngày chủ nhật đầy hạnh phúc.

Đờvanhxy ra khỏi cái buồng khách sực lên những mùi rượu, bánh, hoa quả và ngập ngụa các thứ chai cốc chén đĩa, vỏ cam, quýt, lê táo, thuốc lá, y giải quyết xong mấy công việc cuối cùng, vội lên gác rửa mặt. Chải lại tóc và thay bộ quần áo khác, Đờvanhxy lại thấy trong người lâng lâng khoan khoái. Y rót thêm một ly rượu uống và ăn thêm mấy miếng mứt cam và lững thững đi ở hành lang. Những mẩu chuyện ban nãy lại thoang thoáng trở lại trong tâm trí y. Y gật gù tự nhủ:

"Cuộc vận động thả bọn tù cộng sản ở Đông Dương mà đảng Cộng sản Pháp đương mở rộng trên báo chí và trong quần chúng ở Pháp lại là một cuộc đấu tranh của Đệ tam quốc tế chỉ đạo đây! Và chính sau cái hội nghị lấy quyết nghị, chỉ thị của Đệ tam quốc tế ở Mạc Tư Khoa về mới có những sự rục rịch và những mòi đấu tranh ở Đông Dương này vậy...!"

Đờvanhxy lim dim mắt trông ra ngoài trời và nghiêng nghiêng tai như để nghe một thứ mạch đập gì, một thứ phập phồng gì ở chung quanh y. Những ý nghĩ vấn vít những đêm vừa qua khi y đọc báo Nhân đạo, báo Tiền phong ở bên Pháp gửi sang, và đọc tập báo cáo mật của phòng chính trị của phủ toàn quyền mà y đặc biệt nhận được, lại dần dần như thắt lấy đầu óc Đờvanhxy. Đờvanhxy lắc đầu:

- Thế là nghị định ân xá bọn tù cộng sản ở Đông Dương được thi hành! Thế là cuộc điều tra về đời sống của dân chúng ở đây sẽ chính thức tiến hành với cuộc đi kinh lý của một đảng viên đảng Xã hội. Thế là những cái mà bọn Đệ tam quốc tế gọi là đấu tranh cho quyền lợi quần chúng cần lao sẽ công khai khêu mòi lên... A! Dù chỉ là một bước nhân nhượng với bọn cộng sản và Đệ tam quốc tế ở Pháp, dù chỉ là một chính sách khoan hồng cần thiết ban ơn cho thuộc địa, nhưng rồi phải siết ngay lại. Phải! Phải siết ngay lại! Bằng đủ mọi cách mà siết lại! Và phải triệt bỏ mọi hậu quả...

Đờvanhxy đưa hai tay ra nói như người đứng ở trên sân khấu diễn thuyết. Chợt y nhún nẩy vai lên và cười nhếch một tiếng. Y nhắc lại câu nói với ông ký Thái ban nãy và thêm một đoạn:

- Nhưng chúng nó chỉ có thể hỏi xin và được ban cho... hỏi xin và được ban cho đến một mức nhất định thôi! Cái mức ấy không hơn không kém để dành cho những dân bản xứ, những nô lệ ở các thuộc địa mà ta phải tốn công khai hóa!

Đờvanhxy quay vào rót uống thêm ly rượu rồi xuống gác. Người bồi chạy theo y ra sân, mở cửa xe ô tô. Đờvanhxy phốc vào xe, đóng sập cửa lại, vút ra đường, không nổi còi gì cả. Y không đến Quần Ngựa. Y đến nhà riêng thứ hai của y. Đó cũng là một biệt thự ở khu phố Tây nhưng là khu phố lảnh còn nhà thì lùi mãi trong ngõ, đằng sau cũng giáp một hồ sen. Nhưng không phải nhà Đờvanhxy làm mà là y thuê ở. Tất cả những khoản chi tiêu về biệt thự và người ở đây đều không ghi trong sổ sách của ông ký Thái.

Người ở biệt thự này với Đờvanhxy là Dậu.

Dậu đương tha thướt giữa một vườn cúc nở từng cụm vồng lên mà Dậu có thể ngả người nằm lên được. Dậu vẫn một màu đỏ từ đầu xuống gót chân như cái đêm cách đây hơn một năm Dậu đi khách về say rượu bắt đền cụ Ước kể chuyện ở cái gian nhà nhỏ có cả Thanh và mẹ La. Nhưng gài ở mái tóc Dậu bây giờ không phải là chiếc nơ bướm bằng nhung mà là con bướm bằng hồng cẩm thạch nạm hẳn kim cương. Áo dài của Dậu vẫn màu tiết dê nhưng bằng nhung the của Đờvanhxy gửi mua cho Dậu ở bên Tàu về cùng với quà cho vợ y bên Pháp. Quần Dậu bằng cẩm châu thật là hàng Hàng Châu. Dậu đi giày nhung gót cao bằng nguyên một khúc li-e. Móng chân, gót chân không bôi đỏ nữa mà đi thứ bít tất màu da cam, đồng màu với thứ phấn Dậu thoa mặt.

Dậu béo hơn xưa nhưng vẫn lẳn. Mắt vẫn đánh quầng với thứ sáp thơm tuyệt hạng của hãng Tôcalông. Ngực Dậu càng nở căng; chân đi giày cao gót nên đùi dài thêm. Mỗi bước Dậu đi hay mỗi khi Dậu đứng lên ngồi xuống thì các đường uyển chuyển của thân thể đều rung rung và bật nổi lên. Dậu vừa ngắm nghía, vuốt ve và nâng ngửi hết bông cúc ở luống này lại đến luống khác. Và luôn luôn Dậu đưa tay lên xem giờ ở chiếc đồng hồ vàng chỉ nhỉnh hơn cái cúc áo Dậu mặc.

Ở luống hoa hồng mé vườn gần hồ sen có một thằng bé khệ nệ xách bình tưới cho hoa: thằng La. La đội mũ nồi dạ tím đen, mặc áo gilê len, quần vải sòng sọc trông như thằng bé nào ấy. La cũng luôn luôn ngước lên nhìn nhưng không nhìn ra phía cổng mà nhìn cái Lu đương lê la ở dưới nhà bồi. Thấy anh vừa làm vừa nhìn xuống chỗ mình, con bé càng trông theo và cứ như sắp mếu. Nó cũng mặc quần áo vải sòng sọc và áo gilê len. Chỗ nó ngồi đủ cả bát đĩa gỗ sơn xanh đỏ, bi đá bi ve, con ọ ẹ lúc lắc bằng nhựa, chim vịt bằng cao su và mấy mẩu bánh tây, táo tây ăn dở.

Mẹ La bị xử sáu năm tù. Hàng xóm đương bàn tính cách cưu mang ba anh em nó thì Dậu về chơi xóm, nhận nuôi thằng La và cái Lu. Còn cái Lê thì ở bế con cho bác Xim.

Thằng La cứ phải nhìn luôn đến em vì nó sợ em gậm vỡ những đồ chơi thủy tinh, nuốt bi hay ăn bẩn. Phần nó sợ em theo nó ra vườn. Giờ này là giờ "ông" đến với cô. Cõng em đi chơi thì không được. Tưới thì tưới đủ rồi. Chỉ còn nhặt những lá sâu lá úa và nhặt cỏ. Trong người thằng La bứt rứt không thể sao chịu được.

Chợt có tiếng còi ô tô ngoài đường. Dậu reo lên. Người bồi mở toang cánh cổng chờ. Xe Đờvanhxy lừ lừ vào, cửa xe vừa mở, con chó Nhật Bản mặc áo nhung, đeo kiềng vàng liền bổ ra, sủa rối rít. Dậu cũng bắt chước Đờvanhxy tung cho con chó nghiện kẹo nọ một chiếc kẹo hạnh nhân bọc sôcôla. Bước chân của Đờvanhxy chốc chốc lại vấp phải bước chân líu ríu của Dậu. Dậu khoác chặt cánh tay Đờvanhxy cùng vào phòng khách.

- Em bắt đền anh đấy. Anh để em phải chờ mãi! Hôm nay anh cho em đi xem thi ngựa chứ?

Đờvanhxy ôm ngang hông Dậu cho đến lúc ngồi vào ghế, y đỡ bổng Dậu nằm trên đùi, tát nhẹ nhẹ vào má Dậu:

- Con búp bê lém lỉnh này quấy lắm! Sửa sang lại mái tóc đi rồi anh đưa đến ôten Ba Lê.

Dậu nguẩy người:

- Thế sao không đến "seéc" Quần Ngựa?

Đờvanhxy nâng cằm Dậu lên, cười nhìn vào cặp môi đỏ nhẫy của Dậu hé hé trước hàm răng trắng muốt:

- Chiều nay tôi muốn nhảy lại với con búp bê bài tănggô, con búp bê ạ. Có mấy con gái nhảy hoa khôi Thượng Hải mới sang, tôi muốn cho chúng nó xem con búp bê của tôi biểu diễn chỉ mấy bước thôi và để tôi nhảy với chúng nó mấy bài. Phải! Chiều nay tôi thích thế: nhảy, uống rượu, ăn hoa quả, ăn mứt và hút thuốc lá. Con búp bê nũng nịu lém lỉnh của tôi, thôi sửa soạn ra xe đi... Chóng ngoan, con búp bê và con gái yêu của tôi!

Đờvanhxy cúi xuống ôm và hôn cắn vào môi Dậu.

***

Dâng bưng chậu nước nóng và khăn mặt xà phòng thơm đi theo người u già đến giường Giáng Hương. Giáng Hương nằm trong chiếc chăn len mỏng nói ra:

- U Hùng! Tôi ra buồng rửa được mà.

- Ông đã dặn chúng con ở nhà không được để bà

ra gió.

- Dào ôi!

U Hùng luống cuống. Giáng Hương hỏi:

- Giời vẫn nắng chứ?

- Thưa bà giời... nắng... nhưng râm rồi.

- Thế thì cuốn cái rèm ngoài hiên lên và kéo rèm cửa ra. - Giáng Hương trở mình nhìn Dâng lật bật với chiếc rèm bằng trúc rủ từ cao xuống - Nắng lại đẹp thế kia cơ mà! Cứ cuốn hẳn rèm lên. Mở cả các cửa sổ nữa.

Giáng Hương nằm lau qua mặt. Y quăng cái khăn cho u già đón lấy rồi khoanh tay trên ngực, nhìn những bóng lá và ánh nắng xô đuổi nhau trước khung cửa, và nghe những tiếng vang động ở dưới nhà đưa lên. U già lại rón rén đến nói:

- Bà uống thuốc ạ. Ba giờ rồi.

- Thuốc gì?

- Thưa bà... thuốc... thuốc của bà.

- Thôi để tí nữa tôi chỉ xông rượu bạc hà với nước nóng cũng khỏi. Tôi vẫn xông như thế khi người váng vất.

- Thưa bà... ông đã dặn chúng con phải nhắc bà uống thuốc đúng giờ. Thuốc có một viên thôi ạ.

Giáng Hương cười:

- Một viên cũng là thuốc! Mà lại còn bát thuốc kia nữa! - Giáng Hương nhăn mặt. - Những vị gì mà ngọt một cách quái quỷ như thế?! Có phải lại sâm không? Trời ơi! Lại sâm! Sâm! Và lại còn bát gì kia? - Giáng Hương cuống quýt. - Yến hấp đường phèn à? Trời ơi! Tống ngay những thứ ấy đi mau cho tôi!...

Như người phải làm những việc gì đằng đẵng, nhọc nhằn hết sức rồi, Giáng Hương duỗi khượt chân tay ra, lào thào:

- U Hùng cứ đi gọt cho tôi mấy quả sấu và lấy cho tí muối ớt. Rồi ra... để tôi nằm, có gì tôi bấm chuông gọi. À này u Hùng...

U già vặn lại cái nắm sứ cửa rồi mới quay lại, Giáng Hương hỏi:

- Huệ Chi ở nhà hay đi nhà thờ?

- Cô Chi lên trại ạ.

Giáng Hương cau mặt:

- Có hẹn mấy giờ về không?

- Thưa bà đến tối cô Chi mới về. Cô ăn cơm trên cụ. Bác tài đánh xe về bảo.

- À, tài xế lại đánh xe về. Thôi được!

U già băn khoăn nhìn Giáng Hương, mãi mới lại cất tiếng:

- Con bảo cái Sen ra lấy nước sôi vào để bà pha nước xông ạ.

- Thôi u Hùng và nó cứ ra, tí nữa tôi gọi.

Người u già và Dâng ra khỏi, Giáng Hương trở mạnh người một cái, quay ra phía cửa sổ làm nệm giường rùng bật lên, nhấp nhô một lúc lâu. Giáng Hương ngẩn mặt ra, ngước nhìn mãi trời nắng rồi mở bàn tay ra lại nhìn cái vòng huyền nhỏ xíu. Chợt Giáng Hương thở dội lên:

- Hai mươi năm rồi đây!

Chiếc vòng nọ là của người chị cả Giáng Hương mua cho Giáng Hương một buổi sáng chủ nhật hai chị em đi chơi. Khi còn bé đi học, ở lớp những giờ tập đọc, hay ở nhà học tối thêm, Giáng Hương thường ngắm nghía chiếc vòng, lấy nước bọt sấp sấp ngón tay, chùi chùi rồi cọ đi cọ lại chiếc vòng với tay áo, với cả tóc nữa, để rồi lại ngắm nghía. Giáng Hương thích nhất là để ánh sáng đèn, đặc biệt là ánh nắng mặt trời chiếu qua những kẽ lá lấp lánh trên cổ tay, rồi tưởng tượng như sẽ có cô tiên đến cầm tay mình dạy múa, hay có những chim sơn ca, vàng anh đến đậu hót trên chiếc vòng bỗng ngời lên.

Trước cửa nhà Giáng Hương có một thằng bé cũng lên bảy. Chị nó cùng lớp với Giáng Hương, còn nó học với thằng em Giáng Hương. Thằng này trán đã ngắn, mắt xếch, không hiểu sao nhà nó lại còn bắt nó húi trọc. Giời rét, có giày bít tất thì nó đi chân không. Giời nắng, có mũ thì nó đầu trần. Khi nó đi học về, buông đũa buông bát xong là mất mặt. Ai muốn tìm nó thì chỉ ra bờ hồ hay lên Bách thú. Nó không đào dế thì bắt bướm, không bắt bướm thì săn bọ ngựa, cánh cam, hay đi đánh nhau. Không một trận đánh nhau nào ở phố, ở trường mà không có nó! Bọn Giáng Hương đi học có nó đi cùng thì không còn thằng nào dám khoèo chân, lẳng guốc, hất nón, té bùn hay có khi xông cả vào mà cùng nhảy dây nữa.

Thằng nọ hay cho Giáng Hương bướm và các lá cây, các hoa rất lạ để ép sách. Giáng Hương cũng thích bọ ngựa nhưng chỉ sợ bọ ngựa cắn, chém, nhất là bọ ngựa sổng ra và sổng ở trong giờ học. Tuy cùng đi học với chị nó và được nó luôn luôn cho thứ này thứ khác, toàn những thứ rất lạ, rất khó kiếm, nhưng Giáng Hương vẫn sợ nó. Đặc biệt là sợ chị em bạn học bĩu môi trước những đồ chơi của nó cho. Cho tới một ngày Giáng Hương không dám nhận gì của nó nữa. Hôm đó nó chạy ở bờ hồ về, tay cầm một tờ giấy gấp đôi, vừa thở vừa reo gọi thằng em Giáng Hương:

- Bướm hùm! Bướm hùm này mày ơi!

Giáng Hương cũng chạy sầm lại, giằng lấy tờ giấy. Giáng Hương nhanh tay hơn em, giật được tờ giấy mở ra. Thì vù cái, con bướm bay lên. Con bướm to còn hơn cả bàn tay Giáng Hương, sặc sỡ như gấm. Thằng nọ hét lên "Bướm bay mất rồi!", vằng tay Giáng Hương đi. Chiếc vòng huyền đập chát vào cột đèn, Giáng Hương cũng hét: "Vỡ vòng mất rồi!", co tay lại xoa xuýt.

Chiếc vòng chỉ xát một vết. Vết đó Giáng Hương chùi mãi nước bọt, cọ mãi vào tóc, vào áo len vẫn không mất. Thằng nọ, sau buổi đó, vẫn gọi cho Giáng Hương đồ chơi. Một lần, hai lần,... nhiều lần nó gọi nhưng Giáng Hương chẳng nói chẳng rằng chỉ bỏ đi chỗ khác. Ngoài mặt như thế nhưng trong bụng lần bỏ đi nào Giáng Hương cũng tiếc; và càng thấy nó đem cho những đứa khác lại càng ngẩn ngơ... Sau năm ấy, cái thằng Cương đầu trọc kia đi học trường khác, và nhà nó cũng dọn đi phố khác. Từ bấy đến nay Giáng Hương không gặp lại "thằng Cương bọ ngựa" lần nào nữa.

Bao nhiêu vật kỷ niệm Giáng Hương không giữ cái nào cả. Cái bằng ngọc thạch, bằng kim cương. Cái ghi tặng ở bờ biển, ở trên núi. Cái ký trên một chuyến xe lửa tốc hành, trên một boong tàu biển đêm trăng. Nhưng nhận xong, Giáng Hương chỉ giữ ít lâu rồi hoặc cho đi, hoặc bỏ đâu mất, rồi một phút nào chợt nhớ đến chuyện cũ, Giáng Hương lại bĩu môi nhún vai:

- Trẻ con! Trẻ con!

Không hiểu sao Giáng Hương chỉ giữ chiếc vòng huyền này. Đó là vì của tuổi thơ ấu hay là vì cái vết rạn và những chuyện của nó. Cả đến giờ đây Giáng Hương cũng không phân tích và cũng không muốn đặt câu hỏi ấy ra làm gì. Có lẽ Giáng Hương giữ vì thấy nó ngồ ngộ và đã qua nhiều trường hợp Giáng Hương bỏ quên, Giáng Hương đánh rơi tưởng đến mất hay vỡ nát, thế mà chiếc vòng vẫn lại thấy y nguyên, lại trở về nằm gọn trong một góc ví xách của Giáng Hương. Mấy bận, cả bạn gái, bạn giai, cả những người yêu của Giáng Hương nữa, ngày Giáng Hương còn ở nước ngoài, đã hỏi xin Giáng Hương chiếc vòng. Họ khẩn khoản, nâng niu như thấy nó làm bằng một thứ châu ngọc gì quý báu không thể có tiền mà tìm mua được. Chính những lúc ấy, Giáng Hương càng lạnh lùng từ chối. Khi họ đi khỏi, Giáng Hương lại nhún vai, bĩu môi:

- Lợi dụng! Những quân lợi dụng!

Nhưng rồi Giáng Hương lại cho họ những thứ thật đắt tiền thật cầu kỳ, những thứ mà họ không thể nào ngờ tới.

Vuốt vuốt chiếc vòng lên chăn len và ngắm những nhấp nhánh đen bóng, Giáng Hương chợt có ý nghĩ nếu Giáng Hương có con và là con gái để Giáng Hương đeo cho nó chiếc vòng này. Nhưng Giáng Hương lại thấy không đời nào người ta chịu để cho con Giáng Hương đeo, hoặc có thấy con Giáng Hương đeo thì người ta phải cho vòng đó là bằng gỉ bằng gì quý lạ lắm! A! Nếu Giáng Hương có con?

Năm Giáng Hương hai mươi, hai mươi mốt có hai người bạn trai, một học y khoa bác sĩ, một học kỹ sư cầu cống đã yêu Giáng Hương, và Giáng Hương cũng đã yêu họ. Nếu Giáng Hương lấy người học y khoa bác sĩ kia! Hay năm hai mươi hai tuổi Giáng Hương lấy người bạn của anh Giáng Hương, y đỗ luật khoa cử nhân sau đi làm tri huyện. Người này nhờ chị cả Giáng Hương giới thiệu. Hắn mê Giáng Hương như điên như cuồng chỉ vì có một lần gặp Giáng Hương đi thuyền ở Hồ Tây. Phải, nếu Giáng Hương lấy chồng sớm mà có con thì năm nay con Giáng Hương cũng lên bảy, lên tám. Hay nếu Giáng Hương có ngay con với Thy San thì nay con Giáng Hương cũng ba, bốn tuổi...

- Ồ! Lại chuyện trẻ con!

Câu nói kia vừa rộ lên trong tâm trí Giáng Hương thì không như mọi khi Giáng Hương lại nhún vai bĩu môi liền. Lần này Giáng Hương chưa dứt ý nghĩ đã cau mày lại, thở mạnh một cái:

- Ta cũng phải có con chứ!

Giáng Hương tự nhủ và lại tự hỏi:

- Hay vì cái ắcxiđăng (2)ô tô ở bên Pháp phạm đến dạ con mà ta chậm thai nghén? Có thể vì thế được không? Có thể hai lần đốc tờ khám, chúng nó khám không đúng, hay chúng nó nói dối? Hay vì thế mà Thy San giữ ý không bao giờ nhắc đến chuyện con cái với ta trong khi anh rất chăm sóc sức khỏe cho ta còn hơn cả người thầy thuốc tận tình nhất?

Giáng Hương duỗi phịch chân ra lại làm nệm rung bật lên:

- Ta sẽ đi chiếu điện. Tự ta đi chiếu điện không cho người nhà biết, không cho cả đốc tờ biết ta là ai...

Giáng Hương phải nhắm mắt lại, nằm rất im cho đầu óc bớt căng. Khi trên trán Giáng Hương vừa dịu dịu man mát thì Giáng Hương lắc đầu, thở dài nói:

- Cách giải quyết vẫn chỉ là tạm thời! Hạnh phúc của ta đâu phải chỉ là có con? Phải! Đâu chỉ là có con? Chao ôi! Buồn nản quá! Buồn nản vô cùng! Sự sung sướng tuyệt vời là sự sống thế này ư? Cứu cánh của đời ta là thế này ư?

Giáng Hương bóp chặt chiếc vòng trong tay. Giáng Hương lại thở như người chạy. Giáng Hương lại nghĩ đến bao nhiêu mơ ước phải dẹp đi, bao nhiêu mộng đẹp sẽ lụn tắt hẳn. Phải! Tuổi xuân của Giáng Hương sẽ bị thời gian và sự ê chề cướp đi...

Miss Giáng Hương! Jeanne Harloow Hanoienne (3)!... Lái xe nhẹ vút như chim bay... Những bước khiêu vũ như sóng cồn mây tản... Âm nhạc, hội họa hiểu biết và thưởng thức đến độ làm những nghệ sĩ tài hoa nhất cũng phải ngạc nhiên. Tâm hồn là cả một cơn lốc xoáy với những cảm giác mới lạ... Chao ôi! Giáng Hương có bao giờ lại tưởng đến trở về nước sống mà lại là sống ở cái thành phố gọi là kỹ nghệ và cái hải cảng sập sùi buồn thiu này đâu? Có thể Giáng Hương ở Vơnidơ, ở Luân Đôn, ở Nữu Ước, ở San Phờrăngxítcô hay ở Tôkyô v.v... chỉ là một người làm công thôi, nhưng Giáng Hương không sống trên lưng chồng. Giáng Hương làm cái nghề may mặc hoặc ở một cửa hàng, hoặc dạy học ở một trường trung học, nay nước này, mai nước khác, thích đâu thì ở thì sống, chán thì đi. Không phải bận bịu vướng víu gì cả và cũng không làm ai bận bịu vướng víu vì mình...! Chao ôi! Bốn năm rồi! Thế mà thấm thoát đã bốn năm rồi! Giáng Hương sắp hai mươi tám tuổi. Rồi thì ba mươi...

⚝ ✽ ⚝

[2] Tai nạn.

[3] Nàng Giáng Hương! Giannơ Háclu của Hà Nội.

Giáng Hương trân trân nhìn chiếc vòng huyền nhỏ xíu trong bàn tay. Từ cái bé Hương thành Giáng Hương rồi thành Jeanne Harloow đến ngày nay thành bà Thy San. Còn cái thằng Cương bọ ngựa đầu trọc, gan góc nghịch ngợm mà thảo lảo kia thì thành gì rồi? Mà nó còn sống không? Trước mắt như tê như xót của Giáng Hương, cái bé Hương rụt rè hay sợ hay tiếc, mắt như mắt thỏ mắt nai, từ từ hiện ra, gương mặt rung rung đập đập như cài như soi trên đôi cánh bướm...

U già choàng choáng hớt hải vì tiếng chuông bấm như rít như gắt, vội chạy vào buồng:

- Thưa bà, con đưa nước vào bà pha rượu để xông?

Giáng Hương lắc đầu:

- U Hùng bảo cái Sen bưng nước vào tôi gội đầu.

U già không hiểu sao cả:

- Thưa bà... bà gội đầu?

Giáng Hương cười:

- U Hùng chế cho đặc cái nước rễ hương bài và pha nước nóng già cho tôi. U Hùng bảo cái Sen bưng vào đây.

Dâng lễ mễ bưng cái chậu bằng sứ vào buồng, chưa biết đặt đâu thì Giáng Hương bảo u già:

- U Hùng bưng cái ghế con ở bàn kia lại giường đây. U lấy tờ báo có tranh ảnh kia mà lót. Thôi để chậu lên ghế ấy. Lấy lược và khăn bông đi...

Vừa nói Giáng Hương vừa trằn trằn lưng đến nằm ngả đầu xuống cái chậu. Chiếc nệm rung rung, Giáng Hương mặt phừng phừng, mắt long lên. U Hùng run rẩy đỡ lấy đầu Giáng Hương, quay ra bảo Dâng:

- Sen lấy cho tôi cái bát.

Giáng Hương lắc lắc đầu:

- Thôi u Hùng để Sen nó gội cho tôi. Mà u xuống nhà xem Hùng nó gọi gì kìa!

Dâng còn đương luống cuống không hiểu ra sao thì Giáng Hương đã truyền:

- Sen giội nước đi... giội thật đẫm vào... rồi gãi cho tôi, gãi thật mạnh cho tôi, cào cho sướt máu ra cũng được...

Làn nước nóng thơm sực cứ rón rén như sắp chảy xuống trán, xuống mắt, xuống thái dương Giáng Hương rồi lại thôi. Có lúc Giáng Hương trằn hẳn người lên ngửa đầu ngập hẳn xuống chậu nước mà lắc lắc.

- Không! Sen cứ cào! Lấy móng tay mà cào! Cào nữa! Cứ cào nữa! Tôi đã bảo cứ cào sát máu đầu ra cũng được. Hì hì... Hì hì... hí hí hí hí... Đấy! Sao lại thế! Đã bảo cào bật da đầu ra cũng được cơ mà!

Giáng Hương cười lên sằng sặc, mắt lim dim, nhắm nhắm rồi lại mở ra. Đôi mắt càng sáng như của người lên đồng. Dâng run và thấy bàn tay như không phải của mình. Tuy Dâng không dám trông vào mắt Giáng Hương nhưng Dâng vẫn thấy mắt Dâng bị chói, bị giật. Trống ngực Dâng đập thùm thùm. Cái mớ tóc lồng bồng và cái đầu cựa quậy trên tay Dâng sao mà nặng, chỉ rình ngập xuống nước hay đẩy cái chậu nghiêng đổ đi. Cuối cùng Dâng phải quỳ một đầu gối xuống cho vững để nâng giữ, giội nước và gãi, và cào cho Giáng Hương. Dâng vắt chanh, và gãi đầu tóc Giáng Hương mấy lần nữa thì u Hùng bưng chậu nước khác vào để Giáng Hương gội lại.

- Thưa bà, con lấy quần áo để bà thay.

Giáng Hương lắc đầu:

- U Hùng lấy thêm cái khăn nữa cho Sen bao tóc cho tôi. Rồi u mở nước nhà tắm. U cho vừa ấm thôi. U sắp quần áo cho tôi tắm.

- Thưa bà... bà tắm cơ ạ?!

- Tắm nước nóng là phương pháp chữa bệnh tốt nhất, quen thuộc của tôi đấy!

Giáng Hương tắm, mặc quần áo, trang điểm xong thì bấm chuông gọi tài xế. Người lái xe vội đóng bộ chạy lên. Cả u già cũng lên theo.

- Thưa bà, bà lên trại?

- Không! Bác xem lại xe cho tôi. Bác cứ ở nhà. Tôi lái lấy.

- Thưa bà, bà đi đâu để con lái!

- Thưa bà, bà để bác tài lái ạ...

- Không! - Giáng Hương sầm sầm xuống gác. - Hôm nay tôi muốn lái lấy!

U Hùng chạy theo:

- Bà xuống nhà đốc tờ thăm ông ạ? Ông đến sáng thứ ba thì về, ông vẫn còn phải kiêng. Quan đốc tờ vẫn chưa để ông ra ngoài.

Giáng Hương cau mày:

- Chỉ vẽ! Cúm thôi mà phải cẩn thận đến như thế! À quên. Sen! Lên buồng lấy cho tôi cái măng tô, cái măng tô len trắng ấy!

Giáng Hương vẫn mặc áo nhung the, màu tím hoa cà. Vừa khoác chiếc áo choàng len, Giáng Hương thoăn thoắt ra cổng. Qua rặng hoàng lan và khoảng vườn toàn cúc trắng và hồng bạch, mùi nước hoa của Giáng Hương thoáng thơm át cả đi. Người tài xế còn băn khoăn, sắm nắm ở bên xe, Giáng Hương đã giật mở cửa xe, ngồi phịch xuống chỗ lái! U già chới với chạy theo hỏi:

- Thưa bà, bà lên thăm ông rồi về xơi cơm ạ.

Giáng Hương chỉ lắc đầu, mở điện, phóng xe đi. Giáng Hương không đến với Thy San. Giáng Hương lái thẳng lên ngã tư Cầu Đất rồi rẽ xuống Quần Ngựa.

***

Ba chị em Huệ Chi, Bích Nga, Hùng theo Giáng Hương ra cả ngoài cổng. Bích Nga băn khoăn:

- Rồi cô gọi điện ngay cho ba và chúng con biết tin bà trên nhà nhé. Cô có quên gì không?

Giáng Hương nhấc nhấc cái áo choàng, đứa mắt nhìn vào chỗ ngồi:

- Áo choàng, chai rượu bạc hà, bình nước nóng... thôi đầy đủ rồi!

Người tài xế giật cánh cửa ra:

- Thưa bà lên xe.

Chiếc xe nổi một hồi còi dài, rẽ ra đường. Khi xe phóng khỏi nhà dầu Sen chạy bên con sông Dế, Giáng Hương rùng mình lạnh, phải nhỏm lên khoác áo măng tô.

Dây thép gọi Giáng Hương chỉ có hai chữ: "Mẹ mệt", Giáng Hương đương trang điểm, định lái xe ra phố một mình đi như chiều qua rồi xuống trại hỏi mẹ chồng xem ngày mai Thy San ở nhà đốc tờ về thì làm tiệc mừng thế nào, bỗng nhận được tin. Bích Nga đưa dây thép vào. Cả Huệ Chi và Bích Nga đều xin cho cùng lên Hà Nội nhưng Giáng Hương bảo phải chờ Thy San về và Giáng Hương xem sự thể thế nào rồi hãy để cả "bà" và "ba" lên.

Đồng hồ cây số trong xe lên từ bốn mươi lăm, năm mươi rồi sáu mươi. Đến những quãng đường lượn và phải tránh các xe bò, gồng gánh đi cứ như rùa, lềnh ngà lềnh nghềnh, cũng như đến những quãng đường vừa chữa xong, sỏi rải còn lạo xạo, xe của Giáng Hương kêu xiết lên, làm các người đi đường bổ nháo bổ nhào dạt về bên. Nhưng Giáng Hương vẫn không bợn trí đến bên ngoài. Những ý nghĩ dồn dập trong đầu óc Giáng Hương cùng tốc độ của xe như cuốn đi với nhau và dìm cả người Giáng Hương vào một sự cồn cào ngùn ngụt.

Mẹ Giáng Hương đã ngoài bảy mươi tuổi. Bà cụ ngay lúc khỏe nhất cũng vừa xanh vừa gày, chỉ một tay xách nhẹ. Bà cụ sinh nở tất cả mười bốn lần. Năm bốn mươi nhăm còn đẻ. Đó là thằng em đốt dưới Giáng Hương. Tuy gày yếu nhưng bà cụ không chịu ngồi yên, mặc dù con cháu và kẻ ăn người ở trong nhà đều giằng giữ những công việc mà bà cụ cứ quơ lấy. Không lọ mọ đi sấy bột cho cháu, sấy cau để dành, đem những quần áo cũ của các con cháu ra phơi phóng sắp xếp, bà cụ lại lau dọn chỗ bàn học của các cháu, nhặt nhạnh các giày dép cũ của chúng chờ người thợ quen lại chữa, hay mua khế, mua mận mơ về làm ô mai dầm cho mấy đứa cháu gái bán làm vốn riêng. Chỗ bà cụ nằm có đến mười chiếc khăn bông chỉ nhỉnh hơn bàn tay, để chùi mũi, lau mặt cho các cháu. Những quần áo