← Quay lại trang sách

Sóng Gầm Chương 10

Chấn ở Sáu Kho về. Hai tay đút túi quần, Chấn đi qua Sở mật thám. Gió sông Cửa Cấm thổi ở đằng sau Chấn như sóng đuổi. Trời nắng và quang mây. Thỉnh thoảng một tầng mây trắng ở đỉnh trời lại tản đi nhẹ nhàng và ngon lành như những sợi kẹo bông mà ngày còn đi học, Chấn mê mải nhìn ở cái xe hòm của người hàng kẹo bán trước cổng trường. Phía xa xa cũng có những núi mây như thế tụ lại, lở ra, rồi tan đi. Khoảng không xanh bao la càng mát dịu. Ở những chòm cây cơm nguội hai bên đường như có những làn mưa bằng phấn nắng. Những đàn chim khuyên hết đàn nọ bay đi, lại đàn khác đổ đến, chuyền nhảy ríu rít. Giữa tháng chạp mà giời đẹp ấm như giữa mùa xuân vậy.

Có tiếng chuông boong boong, tiếng đàn tứng tưng và giọng hát chầu văn vẳng đến với mùi hương đen. Vẫn cái điện thờ ở Vườn hoa chéo với những thầy bói cô đồng, me Tây me Tàu, các bà thông ký, phán và kẻ buôn bán lễ bái. Tuy điện đã xây thêm hai gian cửa võng ở hai bên, và chỗ hóa vàng có cả một cái đình gạch rất to ở trước cửa, sự chật chội và khói bốc vẫn cứ như trong hũ nút. Cái chốn tối linh thiêng để mọi người xa gần đến cúng lễ, xin quẻ, và đi thề nọ, hễ ai nhạo báng thì bị "Ngài" vật chết tươi, vẫn lù lù ở trước cái nhà tên quan năm mà người ta cứ gọi là dinh ông Sáu.

Chấn mủm mỉm cười. Duy chỉ có các đền, các miếu, nhà thờ, đăng xinh, rạp hát, xi nê, là thấy một ngày một nhiều, nguy nga, choáng lộng và sầm uất thôi. Những cải thiện dân sinh, xã hội, và tôn trọng "tự do" của đế quốc khéo thật! Tài thật!

Chấn lại nhớ lại những cảm giác, cảm tưởng hôm Chấn ở dưới tàu trông thấy Đồ Sơn, rồi tàu cặp bến Sáu Kho, Chấn lên Sở mật thám xong được tha, đi lu bù khắp Hải Phòng luôn mấy ngày. Tuy sáu bảy năm liền, hết ở Sở mật thám lại đến đề lao, và qua từ Hỏa Lò - Hà Nội lên nhà tù Sơn La rồi ra Côn Lôn, không ở "banh" thì lại bị phạt hầm, Chấn đã tưởng phải bàng hoàng khi được về trông lại thành phố nhất là cái thành phố có cả một hải cảng tàu to đỗ và nhiều nhà máy lớn là Hải Phòng nọ. Thì ngay khi ở Sở mật thám thở phào một cái, run run bước chân xuống đường rộng, Chấn không về nhà người họ vội mà cứ thế đi tràn chơi các phố, Chấn cũng không bỡ ngỡ lắm. Đã thế Chấn lại còn thấy cả thành phố, nhà cửa, đường sá như nhỏ hẹp hẳn đi. Đặc biệt là cái Sở mật thám. Phải! Cả cái Sở mật thám như hang như vực, nặng nề thăm thẳm, trước đây Chấn đã phải dong đi dong lại, trải qua tất cả những trận đòn cực hình nhất của một chế độ thù với những chân tay thừa hành của nó như không còn phải là giống người, - cái nhà từ tầng gác đến cầu thang, đến hành lang và xà lim mà Chấn không thể bao giờ quên được ấy, cũng không còn chất ngất đè sập xuống người Chấn như trước nữa.

Nhưng như thế không phải là Chấn không hồi hộp trước một cảnh cũ nay giở về nhìn lại, tuy sự hồi hộp đó là do những cảm nghĩ đối với những cảnh vật thay đổi không vui nào.

Vẫn những phố ấy, đường ấy, bến tàu, nhà máy ấy, không những không mở mang xây dựng gì thêm, trái lại nhiều chỗ tồi tàn, suy sút hẳn đi. Rõ rệt nhất là những khu Xi măng, Cốt phát, Hạ Lý và các bến tàu. Bến tàu Tây điếc và cái đà để sửa chữa tàu mà lần đầu tiên Chấn được người chú họ đưa đi xuống xem cả buồng máy dưới tàu, rồi đi theo ra mãi ngoài Cẩm Phả, nay chỉ còn là cái bến vắng tanh với hai cái tàu chẳng thấy có người có hàng gì cả. Còn cái đà thì vỏ hà, bùn đất bám chặt vào tưởng như một bức tường, một đống đất bỏ hoang. Cả hai khu sửa chữa tàu bè của hãng Sacờrích và Vĩnh Tường Long dấu vết cũng chỉ còn những đống sắt ngổn ngang, gỉ vụn và hai cái đà mốc meo.

Chính ở đây, Chấn và mấy anh em cùng học trường kỹ nghệ được bắt mối rồi đi thoát ly hoạt động...

Nhà máy Cốt phát nơi Chấn tổ chức được hai cơ sở quần chúng thì còn lạnh hơn cái nhà mồ. Bụi bậm đất cát bám lấy hai quả gang nghiền thành một lớp vỏ dày đến hai đốt ngón tay. Xà, cột, tường, dây điện, máy móc đều chăng kín mạng nhện và các thứ dây dợ. Có những đám rũ xuống lòng thòng trông như những con cáo, con cú nào chết vướng ở đấy. Bến đò Cốt phát và phố Cốt phát trước đây Chấn đặt liên lạc với xứ ủy và một dạo chạy cơ quan ấn (1)ở bên phố sang, giờ sao mà vắng quá thế! Thỉnh thoảng mới có vài ba người đi đò. Nhà thì đóng cửa im ỉm. Hai ba gian liền cả nhà dưới trên gác đều treo biển cho thuê mà biển cái thì gỗ gần mờ hết chữ, cái thì chỉ còn một mẩu dây thép treo. Mấy kho hàng và xưởng chữa ca nô ở bờ sông thì thành nhà xí, ỉa đái bừa bãi. Sân bãi thành ruộng rau muống và chuồng lợn.

⚝ ✽ ⚝

[1] Cơ quan in.

Chấn đã đứng lại lúc lâu trước căn nhà gác ngày trước bọn Chấn đặt cơ quan ấn. Dãy cửa hàng tạp hóa, hàng phở, cà phê ở đây đi đâu hết. Trừ có hai hàng cà phê và mỳ vằn thắn của hai nhà Hoa kiều còn lại là có kẻ ra người vào, còn mấy cửa hàng hoa quả bánh bún bán ở bờ hè đều ngồi vêu ra. Trong nhà, giường chõng xộc xệch, chiếu tã ùn lên, buồng nhớn buồng nhỏ buông màn cửa tùm hụp, nền đất lội đi nhớp nhúa. Ông già bà lão trẻ con cứ lào xào, lào xào, mặt mày hốc hác vàng vọt, như trong những nhà thương hay trại ăn mày kẻ khó.

Cái chợ Cốt phát khi xưa Chấn ở trên gác thường ghé mắt qua khe cửa để nhìn ra cho đỡ nhớ phố và cũng để đỡ ngột ngạt trong người, cho bớt căng đầu óc vì hàng tuần lễ không được ra khỏi buồng in, khu này mới lại càng tiêu điều. Cả chợ có được mươi hàng mắm muối rau đậu và quà bánh. Người bán cũng chẳng buồn đuổi ruồi nữa. Người mua tay xách bó củi mớ rau, tay ẵm con, dắt con, vừa đi vừa kêu rên giời đất khó khăn! Ăn mày và cả những trẻ không phải ăn mày cũng lê la ở những hàng ốc luộc, nhặt những con ốc ăn rồi mà mút, mà moi lại ruột.

Chấn đã không dám quay giở lại. Chấn sang đò bến sông Tam Bạc để xem thêm một cảnh thổ khác.

Sang bến đò đây, một phía trông sang Xi măng, một phía trông xuống khu sông Lấp, Chấn mới lại thấy vui vui. Bên Xi măng tuy không sầm uất như những năm 1927, 1928 nhưng nhìn lên những tầng máy, những ống khói, vẫn thấy không khí hoạt động hẳn lên. Ngoài nhà máy, thuyền đá, thuyền đất, sà lan, ô tô và ba chiếc cần cẩu vẫn có hàng lên xuống: tuy người làm thưa thớt chỉ bằng một nửa trước kia. Những nhà máy Carông, Comben vẫn làm vang động đường phố với những tiếng máy chạy, búa đập. Ở bến đò Nhật Bản và bến đò Cát Cụt, thuyền, xiệng và các lán củi lán gạch cũng còn nhộn nhịp. Mấy hàng quà trên sông, tiếng rao lanh lảnh, hàng này chưa dứt, hàng khác đã cất lên.

- Bảy năm phát triển của nền kỹ nghệ, khoa học, văn hóa của đế quốc đấy!...

Chấn quay lại nhìn lần nữa cái Sở mật thám ở tít đằng cuối đường, và nhìn cái điện thờ lúc nhúc người lễ bái ở cái vườn hoa mà chẳng có lấy một cây hoa ngay trước khu nhà ở của tên quan năm cai quản quân đội của cả thành phố hải cảng Hải Phòng và Quảng Yên, Đông Triều, Kiến An nọ. Cái hình ảnh một mụ già móm mém nhưng mặt mày tóc tai hết sức chải chuốt đội một vòng lá vạn thọ, có hàng mấy chục bàn tay như râu bạch tuộc, và cầm súng cắm lưỡi lê, dao máy chém, dùi cui cao su, túi đựng vàng, sách kinh, vừa quờ vào mồm thịt, rượu, mà Chấn tưởng tượng ra để làm hiện thân cho đế quốc Pháp, lại làm Chấn vừa gai gai vừa buồn cười. Chấn nhăn mặt, lắc đầu, Chấn bỏ những ý nghĩ và hình ảnh nọ, lại nhìn lên trời cao và những chòm cây ở hai bên đường.

Đến vườn hoa Nhà kèn, Chấn sững sờ vì tiếng chuông xe đạp, tiếng cười nói, nô đuổi nhau và những áo màu của nữ học sinh đương tỏa ra ở ngã tư Cầu Đất:

- Chưa hai giờ! Học trò còn đương đến trường. Từ đây xuống nhà thằng Lương chỉ hai mươi phút. Người ta mời ăn cỗ chiều thì sớm ra cũng phải bốn giờ!

Chấn đương phân vân cứ đến nhà Lương rồi cùng đi, hay đến thăm vài nơi nữa hãy đến rủ Lương thì chợt nhận ra có mấy chú học sinh cứ nhìn mình chằm chặp. Mấy chú khác thì bấm nhau, huých huých tay nhau:

- Chính trị đấy! Người Hải Phòng đấy!

- Côn Lôn về đấy!

- Một ngày ngàn thu đấy!

Một cảm xúc giật hẳn tim Chấn lên. Tuy từng phen bị xúc động nhưng chưa lần nào Chấn thấy như thế. Chấn cười cười nhìn lại mấy chú nhỏ. Bỗng một đứa chạy hẳn đến trước Chấn. Thằng này không cắp cặp, cũng không đội mũ đi guốc gì cả. Nó cõng em, đi giữa hai thằng bạn: một thằng tóc cợp lên, da nhăn, mốc, mắt xếch trợn trà trợn trừng; một thằng cao cao, mắt ti hí, người vậm vạp, quần áo gọn ghẽ sạch sẽ khác hẳn thằng da mốc, tóc cợp. Thằng cõng em xốc xốc em lên rồi đưa tay nắm lấy cánh tay Chấn:

- Ông ở Côn Lôn về à?

Thằng cao cao, mắt ti hí vội suỵt:

- La! Sao mày lại hỏi thế?

Bọn học trò ăn mặc tử tế đứng xa nhìn Chấn, đều trố mắt nhìn thằng La. Nhưng rồi không đứa nào bảo đứa nào, chúng ùa lại chung quanh Chấn. Mấy đứa tranh nhau nhấc cái ngón tay đeo chiếc nhẫn gáo dừa của Chấn lên mà vuốt mà nhìn. Thằng La thì cứ nhìn như muốn lột lấy những cái sẹo ở đỉnh đầu, ở trán Chấn.

- Sao các em biết tôi là tù chính trị? Là ở Côn Lôn về?

Thằng Nghĩa - đúng cái thằng da nhăn, mốc, tóc cợp lên ấy - cười:

- Tại ông nhiều sẹo.

Chấn cười hẳn lên thành tiếng:

- Cứ nhiều sẹo là tù chính trị, là ở Côn Lôn về?

Nghĩa cười bẽn lẽn:

- Tháng trước cháu đưa cơm cho bu cháu ở Sáu Kho, cháu thấy giải các ông ở dưới tàu về Sở mật thám, cháu còn nhớ mà.

- Ừ thì nhớ vì có nhiều sẹo. Nhưng sao còn nhiều người khác cũng có nhiều sẹo nữa và cũng giải dưới tàu lên Sở mật thám, vậy mà em vẫn nhận ra tôi và biết tôi là người Hải Phòng?!

Thằng Ly ti hí mắt, rẽ ràng đáp:

- Trẻ con Sáu Kho chúng cháu đều nhớ như thế đấy. Có những lính thủy, những mạch nô người Xênêgale, Marôkeng chỉ vứt lên bờ cho chúng cháu cái bánh mà mấy năm sau tàu lại đến, chúng cháu gặp lại vẫn nhận ra, "mét sì mét sì" bắt tay họ. Chúng cháu cho lại họ từng túi ớt, họ thích lắm, cứ khen "nhau nhau tông keeng bố cu bồồng"(2)mãi!...

⚝ ✽ ⚝

[2] Trẻ con Bắc Kỳ tốt lắm.

Thằng La lắc lắc tay Chấn:

- Cháu nhận ra ông vì ông nhiều sẹo với lại người ông cũng xanh, ông cũng đeo nhẫn gáo dừa như bu cháu.

- Bu cháu làm sao? Bị bắt giam ở đâu?

La vẫn hơn hớn nét mặt nhìn Chấn, nhưng La nói sang chuyện khác:

- Xóm cháu có ông Cam cũng đi Côn Lôn đấy.

Tâm trí Chấn lại bị giật lên. Nhưng giờ là một sự đau xót không gì bằng, không thể nào tả được. Chấn xoa xoa đầu La:

- Cháu ở dưới Cấm à? Chốc nữa tôi đến ăn giỗ ông Cam đây. Còn bu cháu làm sao mà bị bắt và giam ở đâu?

La vẫn cười, lắc lắc đầu, không nói gì cả. Ly, Nghĩa vội kéo tay La để buông Chấn ra. Lũ trẻ học trò kia thì bổ nhào đến trường vì trống báo lần thứ nhất đã đánh. Chấn vẫy vẫy tay chào lại chúng rồi quặt ra phố Cầu Đất để xuống nhà Lương.

- Nên đến sớm để sửa soạn cho cái thằng Nhăn này. Không biết hôm nay nó có chịu mặc bộ quần áo khác và đi giày đi dép không.

Chấn lại nghĩ đến đôi guốc của Lương. Lương đẽo lấy guốc bằng một cục gỗ mà đến cả anh em khổ sai cũng chịu không biết là thứ gỗ gì. Gỗ gì mà đanh hơn cả gỗ lim, đen nhánh như than đá, có lần anh em vạt một miếng đốt thì thấy khét như sừng. Hỏi ra thì "ông" Lương nhặt được ở bãi bể, có lẽ là ván tàu hay ván sà lan. Chân Lương đã là loại chân bàn cuốc, Lương lại còn đẽo rộng bản. Lương không đóng quai da mà chằng bằng dây thép. Chẳng ai dám xỏ chân vào guốc của Lương. Anh em bảo đấy là khí giới của Lương để dùng trong những cuộc đấu tranh lưu huyết. - "Không! Thằng Lương nó hành cái thân nó, đeo thêm một thứ xiềng đặc biệt thì phải hơn!"... Nghe anh em pha, Lương trước chỉ cười. Sau anh em cứ lấy đôi guốc ấy ra thêu dệt thêm không biết bao nhiêu chuyện, khiến Lương phát rồ, văng tục và văng cả guốc vào mặt người chế giễu.

Chuyện thứ nhất là Lương đi guốc như thế đày ải thêm cái thân để quên... Chả là Lương bị vợ bỏ. Vợ Lương bỏ ngay Lương khi Lương ra Côn Lôn. Vợ chồng được một đứa con gái. Vợ Lương đã không giả con cho họ nhà chồng cũ mà lại bắt nó đi bế em. Bế thằng bé con của mẹ ăn ở với người chồng mới.

Chuyện thứ hai là Lương đi đôi guốc như thế để làm như kiểu các nhà hiền triết, triết học, triết gia đời xửa đời xưa như Điôden chả hạn. Trong số anh em học triết học và chính trị kinh tế, Lương là một người trong đám chịu khó nhất. Chịu khó cho mình và chịu khó giúp đỡ các anh em. Lương vừa chăm vừa có một trí nhớ khá đặc biệt. Ăngghen sinh năm nào chết năm nào; Mác xuất bản những sách gì, năm nào, ở đâu; chiến tranh nha phiến, cuộc ăn cướp hôi của giữa ban ngày của liên quân đế quốc Anh - Pháp ở Thiên Tân diễn ra từ ngày nào, và ngày nào Trung Hoa phải ký hiệp ước; Cônggô thuộc Bỉ diện tích bao nhiêu cây số; số than đá khai thác ở hạt Rua hàng năm bao nhiêu tấn; tiền vốn và trị giá vàng, kim cương của những vua thép, vua dầu hỏa, vua ô tô ở Mỹ và của nữ hoàng Anh là bao nhiêu; Khổng Minh sang Đông Ngô phó hội thiệt chiến quần nho như thế nào; Đại Thánh tẩn Trư Bát Giới mấy trận về cái tội hớt lẻo và xúc xiểm; hàng năm dân Đông Dương phải uống, phải hút bao nhiêu rượu Phôngten và thuốc phiện... và những ngày tháng, những tên người, những điển tích, những chi tiết đặc biệt trong những cuộc tranh luận về triết học, chính trị nổi tiếng trên thế giới... anh em nào quên hay khi xảy ra những cuộc tranh chấp về sự chính xác đều tìm đến hiền triết gia Điô Lương hỏi, mà nếu không được gặp ngài thì cứ gõ đôi guốc của ngài ba cái lên trán mình thì khắc nghĩ ra, nhớ ra...

- Lương ơi! Thế mày có nhớ ngày sinh tháng đẻ và số tử vi của vợ mày có những ngôi sao nào đóng ở cung nào không?

Vẫn còn có người trêu Lương, để Lương đuổi khắp banh vừa chửi vừa ném guốc... Lương cùng trạc Quất, bố Gái đen và Cam. Ở Côn Lôn, hai người rất thân với nhau. Vào tù, Lương cũng mới võ vẽ đọc, ký tên có khi chữ còn thiếu nét. Hai người ở cùng nhóm nghiên cứu cho tới ngày Quất chết. Lương cũng bị kết án hai mươi năm khổ sai. Lương đánh xe ngựa cho lão cai hàng cá ở chợ Sắt bao thầu cá cho nhà Thy San. Lương giữ các mối giao thông binh vận, tán phát tài liệu và làm kinh tế nữa. Lương ghẹ vào cái xe ngựa mà chạy thịt cá cho một hiệu cao lâu cơ sở kinh tế của thành ủy. Anh em thường gọi Lương là Lương xe ngựa và Quất là Quất xi măng. Hai thằng ấy mà ra tù thế nào cũng gả con cho nhau.

Chấn đến giữa lúc Lương hí húi tìm ở các báo để ghi những con số công nhân đình công, bãi công, ngày tháng nổ các cuộc đấu tranh ở các nơi. Rủ Lương đi, Chấn nói mãi Lương mới chịu lấy cái áo tây cũ của người em họ mặc và đi cả giày tây của người ấy nữa, không thì Lương cứ đánh bộ quần áo của nhà tù phát cho mà Lương chỉ chữa lại có cổ áo tay áo và nhuộm xanh đặc trông chẳng ra quần áo cu li và cũng không phải quần áo Xạ Phang, Trà Cổ. Mặc thêm cho Lương cái áo sợi dệt cổ chui, đội mũ nút chai lợp ka ki hẳn hoi, Chấn xốc xốc lại cổ áo ngoài, vuốt vuốt nếp cánh tay áo cho Lương:

- Bảnh giai lắm rồi! Lấy vợ được rồi! Có gì thì làm rể thằng Quất cũng được. Con gái nó lớn kễnh lại có vốn riêng nữa. Không thông gia với nhau thì làm tế tử càng lãi! Chuyển rủi thành may có thuộc về biện chứng không hở ông Điô-Lương?

Lương cứ lạnh mặt đi. Chấn kéo Lương ra đường. Đi được một quãng, Chấn hất hàm bảo Lương:

- Này! Dù là đến ăn giỗ thì cũng đừng làm khổ não cái nét mặt. Gia đình người ta có hỏi chuyện nhất là chuyện lúc thằng Quất nó chết thì cũng nói qua qua thôi, bố Nhăn nhé!

Khi hai người đến, nhà cụ Cam đã đông. Khách ngồi ở cả chõng ngoài hè và ở bên nhà Dâng. Mẹ con bà Gái đều chít khăn sô. Thằng Côn cũng một cái khăn dài thượt. Cụ Cam cũng khăn trắng, nếp khăn to, quấn cao như mũ đâu mâu. Ban thờ bày đủ cả vàng hương, hoa nến và ngũ quả. Bài vị Quất do chính tay người cha già viết bằng chữ Nho lên miếng giấy trắng lồng trong tờ giấy vàng... Mùi hương vòng sực cả mấy gian nhà. Ngọn đèn ba dây sáng choang treo trước ban thờ làm nhấp nhánh thêm những mắt kính ở cỗ vàng và những lọ hoa, chân nến đồng.

Cụ Cam ngồi ở tấm phản ngựa giữa nhà với bọn Chấn, Lương. Hai người đã nói ngồi sang giường bên mà không được. Một cụ ở xóm trong và bác Sấm ngồi tiếp chuyện hai người. Tuy Chấn chỉ đến nhà bà Gái lần thứ hai nhưng thằng Côn đã quen rồi. Nó đứng lọt vào hai bắp đùi Chấn, có lúc còn ngồi hẳn lên đầu gối Chấn, hơn hớn cái mặt nghe chuyện. Tin cha Gái cha Cam mất, cho đến hôm mẹ con Gái đến Sở mật thám hỏi những anh em được tha mới biết đích xác. Nhưng ngày tháng Quất chết thì khi Lương đến thăm nhà Quất, vợ con Quất mới biết.

Đúng ngày hôm nay đây Quất mất, và như thế là đã ba năm. Bà Gái lấy hôm nay làm ngày giỗ hết, nhà phát phục cũng vừa đoạn tang. Tuy cụ Cam ngồi với khách nhưng ông cụ vẫn lẳng lặng như hàng ngày ngồi một mình lúc nhà vắng vẻ. Chuyện chè, rót nước, lấy thuốc lá giầu cau mời đều do Gái đen. Ngọt cũng sang tiếp khách giúp Gái. Gái đen gọi Chấn và Lương bằng bác. Một điều thưa bác... hai điều thưa bác. Cụ Cam cũng gọi như thế. Luôn luôn ông cụ kéo đĩa chén mời hai bác xơi nước. Gái đen chỉ quanh quẩn ở sau lưng ông và bọn khách nọ. Dưới dải khăn sô, nét mặt Gái đen lặng lẽ trông vừa già vừa đanh thêm. Mỗi lần rót nước mời Chấn và Lương, Gái đen tuy cúi cúi đầu nhưng vẫn đưa mắt nhìn trộm hai người.

Gái đen lại càng tủi và xót xa cho bố.

Lương thì chỉ được cái người cao nhưng da dẻ bủng bớt, mặt mũi hốc hác thế kia. Còn Chấn vừa gày vừa xanh trông hao hao giống Thanh. Chỉ có khác cặp mắt, cặp mắt Chấn không sáng, không sắc - không hiểu Chấn bị đau mắt hột hay lông quặm nên thỉnh thoảng Chấn lại lấy khăn tay chấm chấm - nhưng cũng quăm quắm như mắt ông Gái. Những khi Chấn đưa nhìn thì mắt Chấn loáng lên và khi Chấn có vẻ để ý việc gì thì mắt gằm lại, cương quyết vô cùng. Sức vóc Chấn so với bố Gái lại càng thấy yếu! Nhưng sao bố Gái lại không sống mà về dịp này? Bố Gái còn vậm vạp chắc người hơn cả chú Sấm; công việc nặng nhọc, khó khăn không ai làm được bố Gái cũng coi như không; ăn khỏe lại dễ ngủ nữa cơ mà! Từ ngày Gái lớn lên, Gái chưa thấy bố phải xông nồi nước lá tre, bôi tí dầu bạc hà, hay ăn bát cháo hành bao giờ. Lần mẹ Gái phải chạy thuốc cho bố Gái là ngày bố Gái ở Sở mật thám lấy cung xong giải sang đề lao chờ đăng đường. Mẹ Gái cắt thuốc bắc luyện giả làm chè kho vào phép cho bố Gái. Chuyến đưa quà bánh, thuốc men cho bố Gái ấy là lần thứ nhất và cũng là lần cuối cùng vợ chồng, bố con nhìn thấy mặt nhau trong chốn lao tù.

Thêm mấy bọn khách nữa đến. Có cả khách trẻ con. Bọn thằng La, thằng Nghĩa và mấy đám trẻ ở xóm trong. Thấy các ông tướng ấy mắt cứ như mắt long thần sấn sấn sổ sổ định rút thuốc lá, Cam phải đến hai tay xoắn lấy hai tai hai tướng, kéo vào cái giường ở gian trong. Mâm cơm cúng đã bày xong. Bà Gái bưng lên, Gái đen đỡ tay cho mẹ, đặt mâm trước bài vị. Đủ cả thịt gà, thịt lợn. Đồ nấu có cả mực, bóng, chim hầm măng miến. Củ cải, cà rốt, hành cũng tỉa thành hoa lá, vừa nấu độn vừa làm dưa góp. Lương, Chấn vừa ngạc nhiên vừa rưng rưng cả tâm trí thấy cạnh đĩa chả quế, giò lụa có một đĩa đậu phụ luộc và chén con mắm tép trên rắc hành củ chẻ tư và gừng thái nhỏ như chỉ.

Món ăn thích nhất của Quất.

Hồi kỳ còn ở tù, trong những cuộc tuyệt thực, những buổi tối chuyện gẫu, mỗi người kể một món lạ và ngon thì ai ai cũng có một món. Nào chim sẻ rán. Nào lươn bung. Nào lợn sữa quay. Nào chả chó. Nào cá quả nấu cháo ám. Nào giò gà. Nào chả cá mực. Nào tái dê. Nào thịt bò, băm viên bọc xương sông, quạt than hồng nướng. Quất không góp món gì cả. Nhưng một lần Quất cười, rủ rỉ với Lương món Quất thấy tuyệt nhất đối với Quất là đậu phụ luộc bẻ từng miếng chấm muối, hay ăn với mắm tép! Ngoài ra Quất còn cho biết thêm mấy món Quất thích như nhộng rang điểm tí lá chanh ăn với bánh đa nướng, hay mùa rét thì hành nén đá ăn với giò thủ, mùa bức thì canh cua rau muống điểm vài nhánh ngổ đả với cà pháo mắm tôm.

- Thế phải thêm tí tửu chứ? - Lương nằm quặp lấy Quất thích thích đầu gối vào lưng Quất, hỏi.

- Máu tao nóng thế nào ấy, động đến một tí rượu chỉ bằng giọt nước đái nhện là đỏ bừng đỏ tía cả mặt. Năm thuở mười thì ở nhà bố con vui lắm, nể ông bố già uống một chén móng rượu ngang ngâm thuốc của ông ấy, thì ngứa ngáy lục sục cả đêm... vợ nó cấu véo cho đến khổ!

Quất quặp chặt nữa lấy đầu gối Lương, cười khì khì...

Quất ra Côn Lôn sau Lương. Khi Lương đi làm ngoài, Quất còn ở trong banh. Dạo ấy đương thời kỳ khủng bố mà tổ chức anh em thì chưa được chặt. Cơm gạo mục chỉ ngửi đã sợ vì nồng vì đắng, cá xác ra toàn những dòi, thế mà chúa ngục vẫn không phát cho đủ suất. Nước để tắm rửa thì váng nhờn như nước ở những mả cải táng. Còn nước ăn cả ngày mỗi người chỉ được một lon sữa bò nước uống. Ai không bị lở ghẻ thì kiết lị. Mấy tháng sau nữa thì nhiều người mắt lòa đi, lợi mềm ra, chỉ lấy tay nhổ khẽ cũng rụng hai ba chiếc răng. Rau má, rau chua me mọc ngoài sân banh và những búp bàng và cả cỏ nữa cũng ăn hết. Có người đến giờ mở cửa banh ra sân liêu xiêu đi không được, anh em phải khiêng ra. Phần vì lòa, phần vì yếu gối quá! Và có anh em được xốc ra sân thì chỉ ngồi rù một chỗ, tay phát phiền như người hấp hối, bóc cả vẩy lở, vẩy ghẻ ăn.

Quất, Chấn cũng bị lòa bị bại liệt như thế. Chấn bị nặng hơn. Trước Chấn phụ trách cơ quan ấn. Lúc còn đi học mắt đã kém sẵn, giờ lại phải hàng tuần ở lỳ trên trần nhà và viết bản in, sao chép các tài liệu, nên mắt Chấn càng kém hơn. Lúc Chấn bị bắt, mật thám đặc biệt truy Chấn lấy ở đâu ra các tài liệu chữ Pháp và mực in, và truy về việc thẻ giả, căn cước giả. Chúng không những nhốt Chấn ở xà lim tối mà còn bịt mắt Chấn nữa. Chúng vừa quấn dạ đen vào mắt Chấn vừa cười khẩy:

- Một là khai hai là mù, hoàn toàn ở đồng chí tự quyết định lấy.

Mười lăm ngày chân cùm tay xích trong xà lim. Bỗng một hôm chúng tháo cùm tháo xích cho Chấn. Chấn lại chuẩn bị tinh thần theo chúng đi chịu những trận tra tấn mới. Chúng vừa đi bên Chấn vừa hỏi Chấn có khai không. Chấn vẫn không đáp nhời. Chúng bảo Chấn ra sân. Chấn đương ngạc nhiên vì thấy chúng khác hẳn mọi lần không đấm đá và chửi bới gì cả mà cứ để Chấn đi thong thả, thì Chấn rùng mình thấy đỉnh đầu, hai thái dương, gáy và trước mặt có một cảm giác nóng nóng. Ùa một cái, thằng Tây lai giựt miếng dạ bịt mắt Chấn ra. Nó đạp mạnh vào khoeo chân Chấn. Chấn khuỵu xuống. Nó kéo dằn mặt Chấn ngửa lên vầng mặt trời đương chói lọi giữa trưa. Chấn ngã vật ra, mắt và đỉnh óc như bị xé.

Ra đến Côn Lôn có những buổi chiều Chấn không thể đọc được chữ. Những ngày ăn đói và kiệt quệ thiếu sinh tố nọ, Chấn là người trước nhất bị lòa và lòa nặng. Chấn đi phải có anh em dắt. Anh em khổ sai đi làm ngoài phải hết sức kiếm chanh, kiếm sấu, chua me cho Chấn. Quất thì bị lòa sau Chấn hơn tuần lễ, nhưng chiều chiều nhìn vẫn còn thấy. Quất nhẹ cái mắt thì lại bị bại liệt nặng. Quất đi kiết lị nhiều quá. Dạo Quất còn ở Sở mật thám, chúng nó tra tấn Quất bằng chày cao su dằn vào hai đầu gối liền mấy ngày đêm, vừa bắt Quất nhịn đói. Lúc chúng cho ăn, Quất phải ăn một nắm cơm mà một phần tư là muối, và không được uống nước. Ăn cơm xong một lúc thì thằng Tây mặt đỏ đưa cho Quất một cốc vại nước thuốc tẩy muối. Quất uống cốc vại nước thuốc tẩy này, vừa đi ỉa vừa ngâm người trong bể nước, vừa uống nước cho thằng Tây nọ vừa dận lên bụng, lên ngực vừa hỏi cung...

Ra đến Côn Lôn, Quất cũng như nhiều anh em bệnh đã nặng lại nặng hơn. Hai ống chân Quất tóp lại còn nhỏ hơn chân trẻ con. Vịn vai anh em, Quất đứng cũng không vững. Số anh em bị lòa và kiết lị càng tăng. Rau má, rau chua me phải chia nhau từng mấy lá rồi cũng không sao kiếm được. Một hôm, không hiểu Lương mò ở đâu ra nắm búp ổi đem về. Chấn và Quất được mỗi người năm búp. Chấn không ăn vội, để dành đến khuya thì nhắm nháp. Lúc mọi người đã ngủ, Chấn giở gói búp ổi ra thì thấy những mười lá gói cồm cộm cả tay. Chấn bật kêu lên. Quất trằn vội người bịt lấy miệng Chấn:

- Chấn này! Chấn này! Tao cho mày phần tao đấy. Mắt mày sắp trông được rồi thì mày ăn đi...

... Cả Chấn và Lương không bảo nhau mà cùng nhìn vào đĩa đậu phụ, chén mắm tép rắc hành hoa và gừng, bày giữa những giò chả măng miến đầy ùn trên mâm cơm cúng. Răng Lương đã cắn chặt lấy môi mà vẫn cứ lo tiếng nức nở bật lên. Nghĩ đến Quất một phần, còn một phần thì nghĩ đến những anh em còn ở lại, nhất là những "thằng" từ ngày bị bắt đến lúc anh em về không có được một cái "phép" hay một lá thư của gia đình gì cả. Từ lúc thấy nét mặt Lương lại nhăn nhăn, mắt quăng quắc cứ chực ứa nước, Chấn càng thấy nghẹn ngào.

Từ ngày Quất đi làm ngoài thì Chấn, Quất không nằm cạnh nhau nữa. Quất luôn luôn bị phạt "ca sô". Cuộc đấu tranh nào Quất cũng làm đại biểu. Cuối cùng, bọn sếp ngục tách Quất và một "thằng" nữa ra khỏi anh em: Tô gày. Chúng đẩy Quất và Tô vào hầm xay thóc. Trong hầm xay thóc, toàn những án "sổ đỏ" giết người, trộm cắp, lưu manh hung ác nhất, bị phạt nhiều nhất ở Côn Lôn làm "cặp rằng" (3). Gạo ăn của đảo một phần do đây làm. Hầm vừa chật lại bịt lưới dây thép nên giữa ban ngày cũng vẫn mờ mờ. Vào đây rồi mà chân vẫn phải xiềng lại còn đeo thêm một quả tạ. Vì có ít người mà lại phải đảm bảo gạo ăn cho cả tù nhân, nhất là lại phải làm việc với những tù "anh chị", chỗ ăn làm không khí bụi bậm, ngột ngạt, ăn uống cũng chỉ có khô mục, nên những ai ra đây đều cầm lỏng cái chết trong tay. Không ho ra máu thì cũng chết vì bị đâm chém. Đã có lần, một tù nhân án thường vào hầm được hơn tuần lễ nhân lúc tên tù anh chị cặp rằng ngủ trưa đã chặt xiềng ra, lao quả tạ xuống đầu tên anh chị cặp rằng nọ rồi lấy vỏ hộp sữa bò cứa cổ chết.

⚝ ✽ ⚝

[3] Cai.

Nhưng cả Quất và Tô gày đều không việc gì cả. Công việc trong hầm trước trút cả xuống đầu anh em án thường sau được phân công lại. Mọi người đều làm việc, vừa được có giờ giấc nghỉ ngơi và vẫn đủ gạo. Không những thế lại được gạo ngon, không hao hụt. Hầm xay thóc lại còn nuôi được gà để cải thiện sinh hoạt chứ không xà xẻo vào suất gạo của anh em. Một phần lại bỏ vào quỹ cứu tế chung. Lúc toàn thể anh em chính trị nổ đấu tranh, hầm xay thóc cũng hưởng ứng. Tô gày ho ra máu, ra đây lại không ho nữa. Quất bị tê liệt kiết lị nhờ được ăn cám ăn đường nên lại đi mạnh và ăn khỏe. Hai người còn làm cả việc cho những anh em án thường khi họ ốm mệt. Đặc biệt là Quất. Ai cũng ngạc nhiên vì Quất làm việc và chịu nóng bức. Quất vừa xay thóc, giã gạo vừa kể các chuyện ở mỏ Vàng Danh, Cẩm Phả, ở Lò nung, Máy đá, Nhà than của sở Xi măng. Mọi người đều sửng sốt thêm. Thế ra vô sản ở hầm mỏ nhà máy cũng khổ như đi đày vậy, mà sao vẫn đấu tranh và đến đâu cũng tổ chức đấu tranh. Thường thường đến giờ nghỉ, anh em án thường lại đến chỗ Quất mà rờ rờ nắn nắn người Quất với những vết sẹo ở đầu, ở vai, chỗ thì bị đá lao, chỗ thì bị sém lửa, chỗ thì sắt, gỗ đập, lạ nhất là hai đầu gối, hai đầu gối xương với gân cứ trệu trạo, khoeo chân cong thành vòng kiềng, mỗi lúc Quất đi cứ khạng nạng như người chửa cả dạ.

Quất đã ra hầm xay lúa. Lần này vĩnh viễn. Trong một cuộc đấu tranh, Quất lại bị phạt hai tháng "ca sô". Bệnh kiết lị và bại liệt của Quất trở lại nặng hơn. Vào hầm rồi Quất vẫn còn tuyệt thực hưởng ứng cuộc đấu tranh của anh em. Trong một trận khủng bố bị sếp ngục hãm cả nước uống, Quất phát sốt mê man. Hai hôm sau, Quất tỉnh lại vừa lúc buổi sáng bọn gác điêng (4)cho khiêng thùng nước uống thường lệ vào. Quất được tháo cùm đi ỉa, vội bò đến thùng nước. Khi đó Chấn ở hầm ngoài. Nhác trông thấy vẻ mặt gác điêng khang khác, Chấn vội nhìn vào thùng nước. Không phải thứ nước uống thường mà là thứ nước váng rêu chỉ để rửa ráy ghê như nước a xít hay nước dưới mả. Chấn liền kêu lên:

- Các đồng chí ơi! Khoan hãy uống!

⚝ ✽ ⚝

[4] Lính gác ngục.

Chấn chưa kịp hết tiếng kêu thì Quất đã gục đầu xuống thùng nước, hừng hực uống.

Chấn hét lên:

- Thôi chết rồi!

Chấn nhào đến giằng Quất ra, nhìn vào miệng Quất sều dãi dớt. Chấn cắn đứt hẳn miếng môi mà nước mắt vẫn giàn ra. Ngay trưa hôm ấy Quất kêu đau bụng. Rồi mấy ngày sau Quất không ăn gì được. Tổ chức của anh em không còn thứ thuốc gì đưa vào cho Quất ngoài lọ dầu quất thần. Chính ngày hôm nay đây, Chấn nhìn khiêng xác Quất trần truồng trong hầm đi ra, bộ quần áo gối đầu, hai tay bắt vào nhau chặt chẽ, bình dị ở trên bụng. Đồ của Quất để lại là gói đường phên, cam thảo và bộ quần áo của cứu tế gửi cho nhưng Quất không mặc không ăn mà dành cho anh em.

Từ ngày Côn Lôn có chi bộ, Quất đều ở trong chi ủy. Cả những ngày nằm không nhấc nổi người lên và cả khi bị phạt "ca sô", Quất đều được cử vào chi ủy cùng với Tô gày.

... Tuần nhang thứ ba trên bàn thờ đã gần tàn. Những mâm cỗ đã ùn lên cả ở dưới bếp. Cụ Cam đứng dậy, khua chân xỏ vào đôi dép quai ngang dưới chỗ ngồi. Ông cụ rờ rờ lên cạnh cái đỉnh trầm lấy bao hương. Ông cụ kéo kéo lại cổ áo, vuốt vuốt tà áo, sắp sắp lại cho chặt những nếp khăn quấn đầu, đoạn ông cụ rút ba thẻ hương châm vào ngọn đèn, cắm vào bát nhang trước bài vị. Đã đứng đúng giữa trước ban thờ, ông cụ còn sắp sắp vuốt vuốt lại lần nữa khăn áo, rồi hai tay nắm vào nhau, ông cụ cúi đầu khấn. Tiếng khấn tuy thì thầm nhưng mọi người chung quanh nghe rất rõ. Rõ nhất là Chấn, Lương đứng ở mé trái sau lưng ông cụ.

- Lê Văn Quất con ơi! Hôm nay bố cúng cơm con đây tạp nhất bàn, phù lưu thanh thủy (5). Con về mà ăn uống với bố, với vợ con, với anh em đồng chí và bà con xóm lán. Lê Văn Quất con ơi! Con chết bố không biết, vợ con không hay, nắm xương tàn cũng mất. Nhưng con chết vì dân vì nước, giữ trọn được đạo thủy chung với đồng chí anh em, bố cũng không ân hận nào. Có chăng bố chỉ tiếc cho con, bốn mươi hai tuổi đầu, nghĩa lớn chưa thỏa, nợ xã hội chưa xong. Hô hô hô Quất ơi! Quất ơi!...

⚝ ✽ ⚝

[5] Tạp nhất bàn, phù lưu thanh thủy: cỗ một mâm, có giầu cau và nước trong.

Tiếng nức nở của người cha già vỡ ra giữa những tiếng sụt sùi ở chung quanh và mùi hương mùi trầm.

Hình ảnh Quất lại trở lại trong tâm tưởng Chấn với bao nhiêu hình ảnh khác. Tất cả một quá vãng đấu tranh cách mạng lại dựng lên ngùn ngụt với những nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cao su, trại ấp, đường phố và với bao nhiêu đồng chí, bao nhiêu quần chúng trung hậu, kiên trì, lặng lẽ, quyết liệt. Mùi hương trầm bỗng biến đi, thay vào là mùi khói dầu, khói than. Những nhà máy Xi măng, Cốt phát, Máy chai, Trường kỹ nghệ, Máy tơ, Sáu Kho... những ao than Lạc Viên, ngõ Tham Thuật, phố Hạ Lý, đầu cầu Carông, trại phu thùng Mácty, xóm Chiêu Thương, Lán Bè, Đống Nổi,... tất cả Hải Phòng lao động, lầm than ngày càng đói khổ xác xơ, hiển hiện cuồn cuộn lên theo!...

Chấn lại nhớ đến những buổi chiều trong "ca sô". Buổi chiều mùa hè mà lạnh và tối đen tối thẳm. Những buổi chiều có nhiều lúc Chấn thấy như Quất vẫn còn bị cùm nằm ở hầm bên cạnh. Và Chấn thấy một hôm nào đó, Quất lại đứng ở mỏm đá ngoài bãi biển, tay chống cái xà beng. Từ trong hai hốc tối trên gương mặt gồ xương và xám ngắt, đôi mắt của Quất mở ra vằng vặc nhìn về anh em, nhìn về trong đất, nhìn về Hải Phòng. Sóng biển từng lớp từng lớp tung trắng chồm lên mỏm đá dưới chân Quất đứng. Không phải chỉ là sóng khơi Côn Lôn mà có cả sóng sông Bạch Đằng, sóng khơi Long Châu dội lên. Tất cả anh em đồng chí Côn Lôn, Sơn La, Công Tum, kẻ khuất người còn đều thét lên cùng với tiếng thét của cả giai cấp vô sản và quần chúng cách mạng.

Hãy báo thù cho những người đã chết!

Không được quên những đồng chí, những quần chúng đã hy sinh!

Cái địa ngục Đông Dương và tất cả những địa ngục khác trên mặt đất của các bọn bóc lột và áp bức phải đạp sập xuống, giẫm cho tan đi, mà dựng lên một chế độ khác, một đời sống khác, tươi sáng tự do, sung sướng dưới ngọn cờ búa liềm.

Đằng sau Chấn, Cam chằm chằm nhìn bài vị bố rồi nhìn vẻ mặt ông Cam, nhìn vẻ mặt Lương, Chấn và nhìn cả mẹ, cả chị Cam. Cuối cùng, Cam mím môi lại rồi cúi nhìn xuống đất.

***

Hai giờ rưỡi rồi mà cu Chú vẫn chưa ra học. Mình Thanh ngồi ở tràng kỷ, ánh đèn điện một trăm nến bật giữa ban ngày cứ nhay nháy xuống mặt. Tiếng đồng hồ và cái không khí rộng vắng của gian nhà nọ càng như cắn như đốt trong người Thanh. Chung quanh Thanh chỗ nào cũng có đôn, lọ, chậu sứ, đĩa bát bày hàng ra với những mặt gương, tranh ảnh, hoành phi, câu đối. Chen kẽ với những đồ này là tủ đứng, tủ chè, tủ bát đĩa, tủ com mốt, tủ thuốc và tủ két. Tất cả vây bọc lấy Thanh, lúc thì như chồm chỗm nhìn vào mặt Thanh và nghe ngóng Thanh, lúc thì lạnh như tờ như không thấy có Thanh, nhưng càng thản nhiên vô tri vô giác thì lại càng đáng sợ.

Gian nhà nọ là nhà của cậu Tú, mợ Tú, vợ chồng con trai út Đức Sinh, nhà thằng học trò đặc biệt của Thanh: cu Chú.

Thanh dạy cu Chú ngày một buổi, từ sáu giờ rưỡi đến tám giờ rưỡi tối. Thứ bảy thì đổi từ hai giờ đến bốn giờ chiều. Chỉ có mình cu Chú học. Mỗi tháng một đồng rưỡi. Món tiền học này, mẹ Thanh giả tiền nhà. Mụ đội Nhị vừa nhất định tăng tiền nhà lên. Gian nào trước bảy hào nay lên một đồng, gian nào một đồng lên đồng rưỡi. Từ ngày dạy thêm học trò Thanh phải thuê thêm một gian một đồng nữa. Như thế tháng Thanh mất đứt ba đồng bạc về tiền nhà. Thanh phải dạy thêm cu Chú vì một cớ nữa! Học trò của Thanh đông quá. Tất cả mười bốn đứa rồi!

Thanh lại phải nhiều đêm suy nghĩ tính toán, lại phải bỏ cả đọc sách đọc báo, lại phải những bữa cơm cứ như ăn trấu, vì lo vì buồn cho sự sinh sống của mình. Nhà chật còn có thể thuê thêm nhưng số học trò đông thì Thanh gần như không thấy đường nào giải quyết nổi. Muốn dạy như thế phải theo đúng luật. Không thể theo được những điều nọ, Thanh đã buồn lo đến mức thấy mình như một kẻ tội nặng đương lẩn trốn giữa những vòng lưới dằng dặc, giương lên trên đầu Thanh. Dạy học từ sáu người giở lên phải xin phép sở Học chính. Muốn mở lớp đông học trò phải mở thành trường. Trường này không những phải có phép của sở Học chính và phải còn được phép của phòng Vệ sinh của tòa Đốc lý. Mỗi lớp phải đúng bao nhiêu thước vuông, bao nhiêu cửa sổ, sân rộng bao nhiêu, nhà xí mấy chỗ. Chưa đủ! Được những điều khoản này rồi nhưng nếu bị Sở mật thám nghi ngại thì vẫn không xong.

Càng tính Thanh chỉ càng thấy tối tăm thêm. Tuổi thì Thanh mới mười tám, chỉ được phép dạy chứ không được phép mở trường. Còn trường như thế thì đến đời kiếp nào Thanh mới chạy vạy nổi được cái nhà có những cửa sổ, nhà xí và sân chơi cho đúng vệ sinh thành phố kia? Lại còn sắm sửa bàn ghế, bảng đen, bản đồ, những thứ xoàng xoàng nhặt nhạnh mua lại của hàng tầm tầm thôi! Cuối cùng là lấy chứng nhận hạnh kiểm ở Sở mật thám. Thanh thì tin rằng mình không những là lương thiện mà còn rất chịu thương chịu khó, khiêm nhường nhân ái đấy, nhưng Sở mật thám có phải là để chứng thực dễ dàng cho Thanh và cho mọi người như Thanh đâu? Tai mắt của Sở mật thám ở xóm này là nhà đội Nhị, điều đó rõ rồi. Nhưng còn những tai mắt khác nữa mà Thanh không biết! Làm sao Thanh ăn ở cho vừa lòng, và tiền đâu của đâu mà lo lót được cho hết các chỗ này?

Mười bốn đứa học trò lại cứ như những con rối múa lên ngày đêm ở trong đầu Thanh. Lúc chúng nó đánh vần. Lúc chúng nó khoanh tay đọc bài. Lúc chúng nó bần thần nghĩ làm tính. Lúc chúng nó đăm đắm tập viết. Lúc chúng nó ríu rít về học. Những ngày mưa quần áo chúng nó lếch nhếch ướt nhèm. Những kỳ nhà thằng Nghĩa, cái Bưởi đến trả tiền học, bố mẹ khép nép, áy náy vì chậm tiền cậu giáo hàng nửa tháng. Những bài tính khó chúng nó làm cứ bay đi. Những bài học thuộc lòng Thanh tự đặt mà chúng nó ngâm nga, Thanh đi mãi ngoài đầu ngõ cũng nghe thấy... Những bông hoa. Những bầy chim... Những thiên thần. Những bầu trời xuân của Thanh. Mười bốn đứa, đứa nào học cũng tấn tới; bố mẹ đứa nào cũng quý mến cậu giáo. Mặt mũi, tâm tính, giọng cười, tiếng nói của chúng nó đã như in như cắt vào sự tưởng tượng, suy nghĩ của Thanh, thành máu thành thịt của Thanh rồi. Số tiền học của chúng tuy giả lắt nhắt đứa thì vào đầu tháng, đứa thì mồng mười, ngày rằm, đứa thì hai nhăm hai sáu, không ra cỗ ra món nhưng lại cho Thanh lúc nào cũng có đồng ra đồng vào. Mẹ Thanh vẫn đong gạo chịu nhưng đồng bạc hơn được hẳn một ống cân. Đã thế, hễ gặp mẹ Thanh ra đến chợ, nhiều hàng cứ véo vỏn trách móc mẹ Thanh vì họ không khéo mời khéo chào nên mẹ Thanh không thèm mua giúp cho họ. Cái Ngơ không phải cầm bát đi mua từng xu mắm muối, dưa cà nữa. Hàng nước mắm gánh vào tận nhà, mẹ Thanh mua hẳn một kỳ hai chai, nước mắm ngon có, nước mắm nấu có. Dưa cà thì muối hàng vại.

Và Thanh đã có dép. Thanh đi hiệu đóng hẳn hoi. Ông cai thợ giày đo chân cho Thanh rồi ôm ra mấy cuộn da để Thanh chọn. Thanh sắm mũ, may thêm cái quần trúc bâu. Mẹ Thanh còn định lấy chịu ở hàng tấm ngoài ngõ may cho Thanh một áo lương chùng.

Thanh dạy học, đời sống được như thế đấy, với mười bốn đứa học trò!

Hôm mẹ con bàn chuyện với nhau, khi Thanh chưa hết lời mẹ Thanh tái ngay nét mặt:

- Làm sao mà phải cho trẻ mỏ học trò chúng nó nghỉ? Có việc gì thì tôi đứng ra nhận hết cả cho anh mà!...

Thanh toan hỏi: "Mẹ nhận hết thế nào? Ăn trộm, ăn cắp hay giết người mà mẹ phải đứng ra chịu tội thay?", thì mẹ Thanh lại nói như rên lên:

- Chúa hằng cứu giúp cho những kẻ khốn khó. Việc đến thế nào mà biết trông cậy ở nơi Chúa thì cũng được tốt lành!

Mặt mẹ Thanh rầu rĩ như sắp khóc:

- Có gì thì mẹ nói với bá Chính nhờ bá Chính nói với mợ Tú xin giấy cha xứ đây nhận thực cho mẹ con nghèo đói, hiền lành, bổn đạo gốc trong Nam Định ra ngoài này...

Thanh liền kêu lên, vừa nhắc thầm lại từng lời nói của mẹ.

"Có gì thì mẹ nói với bá Chính nhờ bá Chính nói với mợ Tú..."

Thanh rởn người, lắc đầu bảo mẹ:

- Thôi mẹ để con nghĩ xem, con cố thu xếp, xoay xở...

Thanh phải thuê thêm một gian nhà ở dãy đằng sau vườn lối ra bờ đầm trại Đức Sinh. Thanh chia học trò làm hai tốp! Sáng Thanh dạy một tốp từ bảy giờ đến chín giờ; tốp này về thì dạy tốp khác từ chín giờ đến mười một giờ. Chiều một tốp, từ một giờ đến ba giờ, một tốp từ ba giờ đến năm giờ. Như thế Thanh phải dạy bốn buổi và bốn lớp học trò sức học khác nhau. Thanh phải ghép cố lắm mới được hai ba đứa chung bài học bài làm. Dù là bốn buổi, dù là mỗi lớp chỉ có bảy đứa vẫn trái luật. Vì vẫn thừa một đứa! Nên Thanh đã phải xếp cho hai đứa bé nhất ngồi chèo vẻo gần bàn Thanh để hễ có đội xếp đi khám hay động dạng gì thì Thanh bảo đứa nhớn dắt đi ra lối bờ đầm cho phi tang.

Không được! Không được! Gian với ai chứ gian với Tây cậu và con chó lài rụng răng của y sao được? Gian với các lão đội già ở bóp Ngã sáu sao được? Và làm sao ăn ở luồn lọt được mãi với lão đội Nhị kia? Cái cửa để mẹ con Thanh nương tựa dù chỉ là núp dưới cái bóng, cái hơi, cái tiếng thôi, cuối cùng vẫn là trại Đức Sinh...

... Ánh đèn điện dần chờn vờn như ong muỗi ở trước mắt Thanh. Tất cả gian nhà càng như một lò than, một lò hàn xì chụp lấy người Thanh. Còn dài nữa, hàng tháng, hàng năm nữa Thanh phải đến đây. Cu Chú mới chỉ đánh vần được những chữ dễ vần bằng, cu Chú chỉ mới viết tô được những chữ i mà dấu chấm nhiều khi đọng hẳn một cục mực như hạt đỗ. Cu Chú vẫn phải có u em ngồi ở đằng sau để dỗ, để nựng, chùi mũi, bế xuống đặt lên khi đi đái, hay khi không muốn viết, muốn đọc thì díp mắt lại ngủ, hoặc đòi ra sân chơi cưỡi vịt bông, chó bông. Nhưng cu Chú thế cũng là tấn tới, vào khuôn phép, chịu khó lắm. Mợ Tú một hôm đã khoe với khách rằng con mình được người kèm như cậu giáo Thanh thì nó chỉ lên tám là vào học trường con Tây.

Năm nay cu Chú đã lên sáu. Còn bốn tháng nữa mới đầy năm!

Từ cái đồng hồ to như cái tủ đứng chạm trổ thếp vàng bỗng nổi lên như dàn nhạc rồi mới điểm ba tiếng. Ba giờ rồi. Thanh lại nhìn vào nhà trong. Lần này cu Chú ra thật chứ không phải là màn gió động. Nhưng người dắt cu Chú hôm nay không phải là vú em còn trẻ mọi khi vẫn hầu nhà khách trên mà là một u già đầu trọc, béo đẫy. Thanh sửng sốt, đứng hẳn lên để nhìn cho thật mắt. Đúng là bà già người vùng bể cùng đi chuyến tàu ở Nam Định ra với gia đình Thanh, gia đình ông Dâng. Bà có người con trai làm phu đổ thùng cho sở thầu vệ sinh Đờvanhxy, đêm đêm vẫn kéo xe đi qua đầu ngõ ngoài. Dạo năm ngoái, mẹ con Thanh đến vay tiền nhưng không được, lúc giở về theo bá Chính xuống bếp thì bà đã đi tìm cái thúng rách cho mẹ Thanh đựng gạo của nhà bếp vét kho cho, và khi mẹ Thanh sắp cất thúng lên đầu, bá Chính còn bảo bà tìm cái gáo dừa để xin cho mẹ Thanh gáo mắm tôm ruốc.

Giờ bà già không vấn khăn vải nâu bạc mà cũng khăn xa tanh như vú em nhà khách. Chiếc áo cánh nâu dày như mo nang và chiếc áo bông cộc rách lòi cả bông ở khuỷu tay, nách, cổ, ngắn cũn cỡn, mà bà mặc mọi khi, nay thay bằng chiếc áo phin tuy vá ở vai nhưng vẫn trắng nõn và chiếc áo gilê xa tanh hoa đen. Làm ngạc nhiên hết sức cho Thanh là chiếc quần láng chéo go bà mặc căng hết cả đũng và bà lại còn đi guốc. Khi bà đi cứ như là một bà chủ hiệu vàng ở phố Khách bó chân đi vậy.

Cu Chú chỉ trố trố mắt nhìn. Bà già rón rén đi sau. Bà đến gần Thanh mới lên tiếng:

- Thưa cậu giáo đến bảo Chú học.

Thanh như không nghe thấy bà già nói. Thanh còn đương bàng hoàng vì cái ý nghĩ: "Sao lại thay đổi thế này?". Thanh thấy từ Thanh, đến Dâng, đến bà già nọ đều bị cuốn cả vào những chốn đây, như một sức ma quỷ gì lôi đi và càng ngày càng lún ngập xuống không thể nào nhoi lên, không thể nào gỡ thoát nổi. Không thế thì là chết... Chết như ông Dâng, chết như ông La... Hay bỏ thây bỏ xác ở các min mỏ đồn điền cao su, Tân thế giới. Hay tù tội như bà La!

Bà già đã đùn đùn cu Chú được đến cái ghế cao lót đệm gấm và lại chào:

- Thưa cậu giáo đến bảo Chú học.

Thanh cố giữ cho mình khỏi luống cuống và cũng để giữ cho bà già khỏi ngượng, Thanh hỏi rất nhẹ nhàng:

- Bà già đã lên làm trên này?

Bà già nhi nhí trong miệng:

- Thưa cậu giáo, bà Tú gọi cháu lên ba bốn hôm nay.

Chiếc ghế cu Chú ngồi kê ba chiếc vừa đệm gấm vừa gối bông. Bà già và Thanh phải loay hoay mãi cho cu Chú ngồi ngay ngắn và không tì ngực vào bàn. Sau bà già phải đứng giữ hờ hờ lấy vai cu Chú. Thằng nhỏ nọ tuy bù xù những mũ len, khăn len, quần len, áo len nhưng người nó trông vẫn cứ như người mã. Da nó trắng mướt, bùng nhùng. Mặt chỉ thấy lông mày - đôi lông mày đen cum cúp - và cái trán ngắn. Mắt nó như bằng sứ nhưng khi đưa nhìn thì rất tinh. Tuy chưa đầy sáu tuổi, người nó vẫn cứ già choắt.

Thanh mở cái cặp da cá sấu dưới ngăn bàn, lấy quyển vở viết và quyển vở bài học.

- Chú đánh vần bài hôm qua nào.

Thanh đặt bàn tay khô khẳng của thằng nhỏ lên bàn học. Nó đảo mắt nhìn Thanh, vè vè đánh vần:

Hoa đào

Chim hót

Mùa xuân

Đồng xanh.

Vui chân

Bé hát

Bé đùa

Tung tăng.

Cứ nghe mỗi câu đánh vần xong, Thanh lại hỏi lại cu Chú nghĩa, và giảng thêm cho cu Chú nhớ, đoạn bảo cu Chú đọc lại cả câu, đọc đi đọc lại cho đến thành nhịp nhàng. Gian nhà rộng, hàng hiên bao quanh thoang thoảng hương thơm của giàn hoa và của dãy chậu cây cảnh. Tiếng Thanh đọc dẫn trước cho cu Chú, vẳng ra mãi cuối vườn, ngoài bờ đầm. Bà già lùi về một góc nhà, ngồi khép nép ở chiếc ghế gụ khảm xà cừ, mặt mày càng bần thần mụ mị. Lắm lúc mi mắt bà trĩu xuống, bà gật đầu một cái, bà lại phải ngồi cho ngay người lại vừa khép lại hai vạt áo gilê chật quá không cài được cúc cứ trễ xuống.

Huệ Chi đương chọn những que nứa để chống những cành hồng bạch ở luống cuối vườn bỗng quay lại lắng nghe từng câu cu Chú đánh vần và từng câu Thanh giảng. "Bài ở sách nào thế này?" Huệ Chi cố nhớ từ những sách tập đọc giáo khoa của nhà nước đến những sách tập đánh vần của các hiệu đều không thấy có bài như thế. Nghe Thanh vừa giảng ý vừa tả những cảnh cho cu Chú hiểu thêm, Huệ Chi càng ngạc nhiên. Mấy bận thấy thím Tú nói về cậu giáo thằng cu Chú và sự tấn tới của thằng học trò đặc biệt này, Huệ Chi cũng đã để ý đến Thanh, và lần đầu tiên nghe nói thì Huệ Chi đã sững sờ:

- Cậu giáo thằng Chú! Cái anh trông người có vẻ là học trò nghèo vào loại giỏi giang ở tỉnh nhỏ nhưng mặt mày cứ đăm đăm buồn buồn, nhiều lúc lại như người mất trí ấy à? Mấy lần gặp anh ta ngồi chuyện ở hàng nước cụ Ước và có lần thấy cả anh ta ngồi nép bên gốc bàng ở mé cổng trại, cũng chầu chực công việc nữa mà! Lần nào cũng vậy, anh ta tránh chỗ cho ô tô mình đi là anh ta vừa có vẻ bực tức hoảng hốt vừa ra vẻ khinh thường nữa. Cái nhà anh học trò lạ lạ ấy lại là cậu giáo thằng Chú? Cậu giáo dạy thằng Chú có hai tháng mà đánh được vần, nhớ được mặt chữ?! Cậu giáo đặt ra cả bài cho học trò học, lối giảng dạy còn giỏi hơn cả những thầy giáo có bằng thành chung ngoài phố? Ờ ờ... lại là con cái nhà bà tốt giọng hay ngồi đọc kinh ở dưới chân tòa giảng sau chỗ bà mình?

Huệ Chi tự hỏi và bỗng nhớ đến cái giọng trong suốt, vang lảnh, nghe sáng hẳn lên trong một buổi đọc kinh chiều mà lần đầu tiên trong đời Huệ Chi được thấy một giọng tốt đến như thế. Thoạt tiên Huệ Chi ngạc nhiên thấy sao lại có một giọng người lạ ở nhà thờ thế này? Huệ Chi đã tưởng là một con gái thơ kinh nào ở họ lẻ lên đây. Sau Huệ Chi càng ngạc nhiên thấy giọng đọc càng nghe càng nhuần nhụy, càng đến những bản kinh khó nhất, những đoạn vừa dài vừa nhiều chữ Latinh hóa, thì lại càng nao nuốt, càng tự nhiên. Cuối cùng Huệ Chi đã phải quay lại để nhìn xem là ai thì lại càng thêm sửng sốt. Chỉ là một bà gày yếu, mặt mày rầu rĩ, ngồi nép dưới chân cột! Từ đấy, những buổi xuống nhà thờ Cấm đi lễ, đi chầu, Huệ Chi chỉ chăm chăm chú chú đón nghe cái bà ngồi lảnh một chỗ nọ đọc kinh mà Huệ Chi thấy không người con gái thơ kinh nào bằng được. Kể cả mẹ Huệ Chi, ngày mẹ Huệ Chi còn trẻ!

Cũng cái giọng nao nuốt vang lảnh ấy một hôm khác lại làm Huệ Chi ngạc nhiên. Nhưng không phải là của cái nhà bà gày yếu, rầu rĩ đọc kinh dưới chân cột sau tòa giảng trong nhà thờ. Đó là giọng của một người trẻ tuổi, của một người trai trẻ. Giọng ấy cất lên ở mé đầm, từ gian nhà nhỏ ở góc vườn rau đằng kia. Rồi tiếng trẻ đọc theo, đọc rất đều một bài học rất lạ không thấy sách nào có cả, nhịp với tiếng thước kẻ dõng dạc. Huệ Chi hỏi bá Chính thì bá Chính bảo chính là con giai lớn cái nhà bà tốt giọng. Bá Chính còn cho biết nhiều chuyện hơn: chuyện cô Na thơ kinh ngày xưa ở Nam Định cùng một giáp với mẹ Huệ Chi. Cho tới hôm nay, Huệ Chi mới được biết mặt cậu giáo thằng Chú thì cậu giáo thằng Chú lại là cái người học trò mà Huệ Chi ngồi trong xe nhìn ra nhiều lần phải chú ý và lại là con "cô Na".

Thanh vẫn không để ý gì đến bên ngoài.

Cu Chú đọc trơn tru rồi. Thanh viết chì cho nó tô. Hôm nay viết chữ d và chữ đ. Thanh viết ra cái bảng đen hai chữ to, trỏ từng nét dặn nó chú ý rồi bắt tay nó viết thử bằng phấn. Sau đó mới bắt tay cu Chú cầm bút chấm mực viết tô mấy chữ. Tất cả sự thận trọng, chăm chút nổi lên gương mặt Thanh. Vẫn đôi mắt sáng chau lại và hai lằn gân xanh ở thái dương trồi lên phập phồng, vẻ mặt vừa cố gắng mà buồn buồn. Thanh càng dễ dàng bảo ban thằng nhỏ, càng nâng giữ bàn tay cầm bút của thằng nọ bao nhiêu, Huệ Chi lại càng thấy vừa ái ngại vừa mên mến. Làm Huệ Chi hồi hộp vẫn là đôi mắt của Thanh. Đôi mắt cũng sáng, vằng vặc, phảng phất có chút gì giống cha mình, nhưng lại không được như cha mình, có vẻ lặng lẽ mà cương quyết.

- Để cậu ta dạy thằng Chú mấy tháng nữa rồi mình nói với thím Tú, nói với bà, bảo cậu ta lên hẳn trên nhà vừa kèm thằng Hùng, vừa kèm thằng Chú, thêm mỗi tối một giờ, tháng tháng giả cho cậu ta mười đồng cho đáng cái công...

Huệ Chi chớp chớp mắt:

- Mười đồng hay mười lăm đồng? Không!...Hai mươi đồng mới được. Cái Sen mới vào để đỡ chân đỡ tay cho u Hùng mà cô Hương còn giả cho sáu đồng cơ mà!

Vừa lúc thằng Hùng đến. Thằng bé mặc quần cộc, áo len đan ngắn tay, tóc húi cao, trán như có bươu, vừa chạy vừa chăn một quả bóng da.

- Chị Chi ơi! Sáng thứ hai thì ba và cô Hương ở Hà Nội về nhỉ. Chuyến này thì ba lên Nước Hai trên Cao Bằng mua ngựa giống về cho em. Cả cô Hương cũng thích đi ngựa. Cô bảo lên Sa Pa đi chơi núi phải đi bằng ngựa. Trong xinê cũng thế chị Chi ạ.

Huệ Chi tát khẽ vào má Hùng:

- Thế ba mua ngựa, Hùng có chịu khó học thêm không?

- Học ở đâu?

- Học với cu Chú kia kìa.

- Thằng Chú nó có đá được bóng đâu mà em học với nó!

Thấy tiếng nói xốn xáo ngoài vườn, Thanh quay ra. Nhận ra Huệ Chi, Thanh vội quay vào, nét mặt cố làm ra như không. Nhưng sắc mặt Thanh vẫn không thể giấu được. Mặt Thanh tái đi rồi bừng lên rồi tái đi. Nhất là trống ngực, trống ngực Thanh đập tưởng như sắp bị đứt. Thanh phải cúi xuống, cầm lấy tay cu Chú đương viết. Lập cập, Thanh làm rơi cả bút cu Chú. Thanh nhặt lên, đưa tay cu Chú sẽ sàng giậm theo những nét chì, và càng cố làm ra vẻ tự nhiên trong sự chăm chút mê mải nọ. Nhưng cái trán dô dô kiêu kỳ và cặp mắt Huệ Chi nhìn như cúi mình xuống với những kẻ khốn khó, vẫn cứ như đóng đinh vào gáy vào tâm trí Thanh. Trong người Thanh càng cồn cào lên vì những cảm xúc buồn tủi, chán nản cho một đời sống thấp kém so súi như đời sống thanh niên của Thanh. Lắm giây phút, Thanh tưởng như không còn thể nhấc nổi tay thằng học trò