← Quay lại trang sách

Sóng Gầm Chương 11

Bà cụ Xim bế con bé cháu đưa chân Sấm ra mãi ngõ ngoài. Nghe bà cụ dặn thêm, Sấm gật gật đầu, cười. Chào bà cụ ra đi, Sấm lại đăm đăm nét mặt nghĩ đến công việc.

- Chấn đương bận, không biết có xuống được không?

Sấm đi khỏi, bà cụ Xim còn đứng một lúc ở đầu ngõ rồi mới giở về. Tiếng chích chòe trên cây xoan đằng sau nhà càng lảnh lót. Gió vẫn lạnh nhưng giời nắng to. Trong ánh nắng lộng gió, các mái tôn, mái rạ, tường vôi rực rỡ hẳn lên. Bà cụ lấy manh vỉ buồm giải dưới chân cột hàng hiên cho cháu ngồi chơi với mấy cái tò he đã nứt, đã gãy. Đối với con bé, những cục đất cục bột nhuộm màu nọ và nặn thành hình chim cá, mâm bồng, nải chuối, quả đào... lổm ngổm dưới quệt nắng, vẫn mới lạ kỳ thú lắm. Thỉnh thoảng nó lại giơ đồ chơi lên trong dải nắng, gọi: "Bà bà! Chẹp chẹp!"

- Ừ đẹp đẹp, bà biết rồi! Ngồi chơi ngoan cho bà quét dọn.

Nhát chổi đưa đến đâu, sân sạch quang đến đấy. Bà cụ nhặt được cả chiếc kim gài đầu. Bà cụ vê vê hột thủy tinh ở chiếc kim:

- Lại của cô ả Ngọt đây! Trẻ con giẵm phải thì lại đến què. Có chiếc kim gài đầu chỉ những vương với mất, cứ rờ đến khăn lại hoắng lên đi tìm.

Quét xong sân, bà cụ vẫn không thấy mệt. Bà cụ vào nhà rót nước uống. Chè hột đã ngấm, thoang thoảng mùi hoa cúc. Bà cụ đưa chiếc chén lên mắt xông bằng hơi nước nóng và bằng cái hương hoa quen thuộc nọ. Từ ngày Gái đen mua cho bà cụ được ít thục và sâm ở kho thuốc bắc, bà cụ cắt cho cả mẹ cả con hai đơn thuốc tễ, uống đã được hơn tháng đến nay thì thấy trong người ăn được ngủ được, và sáng nay thì thật là tỉnh táo. Cứ nghĩ đến sức khỏe, bà cụ lại thương cho mình và càng thương cho con. Cứ thấy ông cụ Quất làm mà thèm. Ông cụ mắt mũi không có lại què một chân vậy mà cả ngày cứ đi đi về về với thùng nước gạo đến giai khỏe xách cũng phải cật sức. Ông cụ Quất lại hơn bà cụ Xim những gần một giáp! Làm thân đàn bà khổ thật. Đã yếu đuối lại còn sinh nở đau ốm. Cái gì cũng chịu thiệt, chịu kém.

Chén nước chỉ còn âm ấm, hơi nước nhòa đầy mắt bà cụ Xim. Bà cụ rót chén nữa, lau mắt xong lại xông. Cái cháu chập chững đến bíu lấy lưng bà, bi ba bi bô chuyện.

- Khéo đổ nước của bà cháu ơi! Ngồi đây rồi bà đón hàng cháo sườn bà mua cho.

Cái cháu cứ xoay chung quanh bà, hết níu lấy cánh tay bà lại giằng lấy chiếc chén. Bà cụ phải kéo nó ngồi xuống đầu gối, một tay ôm lấy người nó. Con bé vẫn cứ ngọ nguậy, nhìn lên mặt bà. Nó hỏi bà làm gì, đòi bà cho nó xông mắt với, giục bà uống nước đi, và hỏi hàng cháo đã đi chưa? Cái cháu vừa thấp bé vừa còm ngồi nhẹ tênh trên đầu gối bà. Xim ngày còn nhỏ cũng như nó. Nó giống Xim như lột từ cái tóc đến cái mắt, cái môi. Cái tóc xờ xạc như lông cò, gây mãi cũng chỉ đến chấm gáy. Bà cụ lắm lúc cố chải đầu cho cháu mà cũng không ra con trứng nào. Cái mắt thì nhỏ, đen lánh như mắt con chuột bạch đánh vòng. Cặp môi lúc nào cũng đỏ nhót mà người ta bảo "cam" nhiều nó ăn ra đấy! Thấy nói cháu thế, bà cụ càng không rời cháu, càng bắt cháu kiêng. Ăn bột thì chỉ được tí nước mắm. Ăn cơm thì được thìa ruốc hay mấy thìa nước canh thịt nạc nấu với củ cải, rau ngót. Xim nhiều khi phải cho nó ăn vụng quả chuối quả quýt. Hôm ấy bà cụ lại dỗi. Nhưng có đầu có đuôi nuôi lâu cũng nhớn. Như con chuột ấy thế mà bây giờ đã mon men hết trong nhà lại ra ngoài hiên, ra cả sân, cả ngõ. Ăn cơm chỉ đòi xúc lấy! Đòi cả đũa nữa!

Thấm thoắt nó lên bốn mà con mẹ nó thì hai mươi nhăm tuổi rồi! Ngày nào con mẹ nó còn mười sáu mười bẩy, và nhà mẹ con còn là chỗ các anh ấy đi đi về về. Anh nào cũng mến con mẹ nó nhưng chỉ hỏi chuyện con mẹ nó được câu trước câu sau là con mẹ nó đã chạy biến đi. Mẹ có động giở đến sách, nhất là các anh ấy có bảo học thì không làm sao cậy được răng con mẹ nó ra. Gan chí mề mà đến cái học thì lại sợ, lại dát! Đã thế lại hay tò mò. Tài liệu của các anh ấy gửi thì mẹ giấu đâu cũng biết. Nhưng lại được cái kín đáo. Biết thì biết nhưng không bao giờ động chạm đến. Cái lần bão và lần cháy nhà, không có con mẹ nó thì làm sao bà trèo lên nóc nhà mà gỡ, mà chạy kịp?... Phải! Bảy năm rồi đấy! Bảy năm! Đã tưởng những... Toàn những án ghê người. Hai mươi năm... chung thân... khổ sai... cấm cố... Chúng nó cố tình tuyệt diệt người mình... Chúng nó cùm kẹp tra tấn tù đày anh em như thế để không còn ai dám đấu tranh, cứ chịu mãi bóc lột đè nén, cho các thằng chủ thì cứ giàu có mãi lên, các thằng từ toàn quyền, thống sứ, đến quan tòa mật thám thì cứ nay lên trật này mai lên trật khác, lương bổng gửi về Tây tha hồ mà xây lầu nọ tòa kia, vợ con sung sướng. Hừ! Chúng mày khủng bố dã man thế chứ hơn thế nữa cũng không dập tắt được phong trào, được cách mạng đâu!... Xã hội này là do mồ hôi nước mắt của giai cấp chúng tao thì rồi phải về tay giai cấp chúng tao chứ. Nghĩ như thế không phải vì ghen tiền, ghen của, thèm ăn, thèm chơi như chúng mày đâu! Đó là tình là lý của chúng tao. Chính tay những kẻ chịu thương chịu khó, đói rách lầm than làm ra từ hột gạo, thước vải đến tất cả lâu đài thành phố ở hoàn cầu này mà lại chịu cơ hàn tủi nhục thì có phải là trái ngược không? Còn những người hết lòng hết sức làm việc vì dân vì nước mà chịu tội chịu chết như thế có ai oán nhân tâm không?!

Bà cụ Xim lại nghĩ đến mỗi lần có việc phải đi qua cổng đề lao hay qua cầu Carông. Tuy buổi sáng hôm đó bà cụ không được đến đây mà xem chúng nó đặt máy chém các anh ấy, bà cụ chỉ nghe người ta nói lại thôi, bà cụ cũng đủ thắt ruột thắt gan lại. Chúng nó đã cùm kẹp tra tấn các anh ấy đến chỉ còn da bọc xương, kết án xử tử rồi, mà vẫn còn cho cố đạo vào dụ các anh ấy xưng tội lúc ra cổng máy chém. Cái khung máy chém cao như cái khung cửa sắt trong nhà điện ở nhà máy đã có lần một người thợ điện bị giật chết tím đen cả người. Lưỡi dao thì vạt nhọn một góc, bản to và sáng như lưỡi dao xén giấy nhà in. Chúng nó định bịt mắt các anh ấy, thì các anh ấy lắc đầu bảo không cần, rồi cứ thế ung dung bước lên cái ván gỗ cập kênh. Anh Cảnh ơi!...

Tuy những lần bà cụ Xim đi qua đây đều vào buổi trưa, buổi chiều, nhưng nhiều phút bà cụ đã thấy như đương còn tối đất. Con sông Lấp ở trước cửa đề lao và khúc sông Tam Bạc ngoài kia rõ ràng đương đông buổi chợ mà như không có chiếc thuyền, chiếc đò, chiếc sà lan nào cả. Hai bên bờ thì lạnh ngắt. Cầu Carông quay ngang, cấm hết xe cộ, người đi. Từ ngã ba đầu đường Cát Cụt và ngã ba đầu đường Nhà thương khách đến Cầu quay xe lửa, cũng không một ai được qua lại. Nhà hàng phố đóng cửa hết. Lính lê dương súng cắm lưỡi lê vây kín cổng đề lao. Anh Cảnh, mà bà cụ Xim chỉ nghe nói tên thôi, người gày gò, bị xích tay, lính chĩa súng kèm hai bên, đi ở cửa đề lao ra... Cái khung máy chém như khung cửa nhà điện... Lưỡi dao máy chém vạt nhọn một góc, bản to và sáng như lưỡi dao xén giấy... Anh Cảnh ung dung bước lên tấm ván cập kênh... Lúc này vừa lúc còi tầm nhất. Thợ thuyền dậy đi làm thì chúng nó giật lưỡi dao chém anh Cảnh. Những anh em làm ca kíp, đứng trên bể bùn, trên nóc tầng máy nhà tháo sở Xi măng, hay đứng trên bể chứa nước ở chợ Sắt, ở nóc Nhà hát Tây... những anh em ở các nhà máy Cốt phát, Comben, Carông, sở vệ sinh Đờvanhxy quanh đấy... có anh em nào trông thấy lúc sắp rạng sáng chúng nó đưa chém đồng chí Cảnh không? Anh em đã nghe thấy bao nhiêu đợt hò reo "đả đảo đế quốc" trong đề lao Hải Phòng suốt từ lúc đồng chí Cảnh ở xà lim ra máy chém? Anh em đã thấy đồng chí Cảnh bước đi ung dung không để cho chúng nó bịt mắt, rồi hô "Muôn năm Đảng Cộng sản Đông Dương, muôn năm Cách mạng Đông Dương thành công", chào lại các đồng chí, chào lại quần chúng, chào lại Hải Phòng như thế nào không? Anh Cảnh ơi! Anh Cảnh ơi!

...Nhưng giờ chúng nó đã phải thả các anh em đồng chí ra. Phong trào lại nhóm lên rồi. Thợ thuyền đã được ăn được nói công khai, lại chỗ này đấu tranh, chỗ kia rục rịch đấu tranh. Từ tao đoạn khủng bố đen tối chuyển được đến cái hội này, ta lại biết bảo nhau tổ chức hàng ngũ lại thì có cơ đỡ khổ, đỡ cực đây! Sông có khúc thì cách mạng cũng có lúc... Cách mạng không thể bị dập tắt được đâu!... Bà cụ Xim rót thêm chén nước nữa uống. Trong người bà cụ nóng rực. Cái cháu tụt xuống đất lại lần ra ngõ. Thấy tiếng nó bi bô, và tiếng chuông xe đạp, tiếng ếp ếp tíu tít ở ngoài đường, bà cụ Xim hốt hoảng chạy ra. Lưng bà cụ khòm khòm nhấp nhỏm, bước chân lập cập. Bà cụ vừa gọi cháu, vừa thở, vừa nói:

- Chỉ rỏn chân chạy. Con bé này sang năm là đến theo trẻ con ra cả ngoài phố thôi.

Bà cụ Xim phải đuổi theo mới túm giữ được con bé cháu. Hai bà cháu đương líu ríu với nhau thì Chấn đến bên chào. Thấy cái trán hói và cặp mắt cười cười của Chấn, bà cụ Xim càng cuống. Bà cụ đã thấp bé lại cẵm cháu nên càng khòm xuống, cả người chỉ cao đến quá thắt lưng Chấn.

- Bà đưa con bế cháu nào. Con cô Xim đã chạy, đã nghịch rồi đấy!

Chấn đưa tay đỡ lấy con bé. Bà cụ Xim nửa giữ lại nửa muốn trao cháu cho Chấn:

- Chân tay nó vừa vầy đất vầy cát đấy. Nó làm bẩn quần áo của anh mất.

Con bé tuy để Chấn bế nhưng cứ nép đầu vào ngực Chấn và nhìn theo bà. Bà cụ lập cập đi trước. Chấn vừa vào nhà, bà cụ liền buông mành mành xuống. Bà cụ toan bưng giành nước và đĩa chén đến giường, Chấn đã bưng lấy.

- Cái cô ở chung với nhà ta, người bé mà sắc sảo, nhanh nhẹn, để trở đại tang ấy cũng làm ngoài Sáu Kho bà nhỉ?

- À! Cái Ngọt! Cô Gái bên bà Cam mới xin cho vào khâu bao ở kho cô ấy đấy! Anh Chấn vào chơi bên cụ Cam trước rồi chứ?

- Vâng, con ở bên ấy rồi sang đây.

- Kìa! Anh để tôi rót, anh Đấu! Nước chè hột hoa cúc hãm đã ngấm, anh Đấu uống đi...

Chấn giật mình. Cái bí danh của Chấn ngày hoạt động trước mà chỉ có anh em trong tù đôi lúc nhắc đến, hôm nay bà cụ lại gọi lên! Chấn cầm chén nước, vừa nhấp uống vừa nhìn bà cụ. Mới bảy năm mà bà cụ khác hẳn đi. Người vừa già, vừa gầy còm. Đôi mắt bà cụ càng nhỏ thêm, cố giương lên vẫn chỉ hé hé chút ánh sáng của con ngươi mờ mờ chậm chạp. Tóc thì bạc gần hết. Nhìn sống lưng và bả vai bà cụ, lại càng thấy còm cõi. Chỉ một tay cũng đủ nhấc bổng bà cụ, rồi khi đặt bà cụ xuống thì phải gượng nhẹ lắm.

Làm sao bà cụ lại sút yếu đến như thế? Mới ngày nào lúc cơ quan "ấn" của Chấn bị động, bà cụ còn gánh cả tảng đá litô chạy từ Vườn hoa chéo sang phố Hạ Lý cơ mà. Chỉ mấy phút sau đó, mật thám vây khám suốt từ đầu phố Cầu Đất đến cầu Hạ Lý, cả mấy người đi lấy trộm phân ở phố cũng bị giữ lại. Rồi mỗi kỳ có báo, có truyền đơn, bà cụ lại chuyển đi với đôi thùng nước gạo hai đáy, con cón gánh đi nhanh gần bằng người chạy. Ngày ấy người chú họ của Xim làm chấm dầu ở Máy tơ còn ăn cơm tháng ở nhà bà cụ với hai anh thợ tiện trẻ tuổi làm ở Carông mà một anh sau đây lấy Xim. Người chú họ của Xim sắp được Chấn phát triển vào Công hội đỏ, còn bà cụ Xim là quần chúng cảm tình.

Chấn và một đồng chí nữa trong thành ủy - Hiền - những khi đến nhà bà cụ Xim đều bảo nhau chú ý tuyên truyền, giác ngộ để rồi tổ chức bà cụ. Nhưng bà cụ chỉ ngồi nghe hai người nói được một lúc thì lại cười, bẽn lẽn - "Điều gì các anh dạy chúng em cũng thấy phải cả. Nhưng mà chúng em là đàn bà thì vụng dại lắm! Chúng em chỉ biết theo các anh, ủng hộ các anh, theo đấu tranh, ủng hộ đấu tranh thôi!". Rồi bà cụ Xim lại thoái thác xin phép xuống bếp hay đi ra ngõ. Bà cụ nói thế nhưng khi Chấn hay Hiền đọc báo cho người chú họ của Xim hay nói chuyện với người chú nọ và hai người thợ trẻ thì bà cụ lại đem quần áo ra ngồi vá ở cửa, hay lấy rau dưa ra nhặt, lấy đỗ ra xiết ngoài hàng hiên, vừa làm vừa nghe trong này nói, vừa nhìn ra đường nghe ngóng. Còn ban đêm thì bà cụ ra hẳn ngoài ngõ têm trầu, bổ cau chuyện với bà hàng nước. Hôm nào Chấn đói, vừa phần không còn một đồng nào trong người mà đi xoay ăn vớ vẩn nhỡ ra bị lộ thì nguy, Chấn và Hiền lại về nhà bà cụ. Lần nào cũng thế, bọn Chấn hễ đến là phải ăn, không ăn cơm thì phải ăn xôi chè, ngô luộc, khoai luộc. Nhưng thường là phải ăn cơm. Bà cụ thường lấy chỗ củ cải phơi khô để dành đem dầm với nước mắm ngon, đường, gừng cho hai người ăn. Còn canh, bà cụ hay nấu canh rau ngót, rau muống với trứng cáy. Những món ăn này đã làm Chấn nhiều lúc ở trong tù chợt nhớ đến mà tê cả góc miệng. Và mỗi lần nghĩ đến bà cụ Xim cũng như bao nhiêu cơ sở quần chúng khác, Chấn lại bùi ngùi, nghẹn ngào cả người. Chao ôi! Làm sao Chấn lại gặp lại được bà mẹ già yếu nọ, - một nữ công nhân hàng ba mươi, hơn ba mươi năm bán sức lao động, đời mình tàn phế rồi, thì đời con thay thế, đứa con gái bé nhỏ của mình cũng lại đứng cái máy nơi đây lưng mình cúi xuống đã còng, nơi đây mắt mình cúi xuống đã gần mờ, nơi đây đầu gối bắp chân mình ngày nào săn gân chắc thịt giờ đã gần bại bệt, và hai bàn tay mình đã thoăn thoắt làm ra bao nhiêu của cải giờ xương xẩu, run rẩy, không có một mảy may gì!...

Hôm nọ đến ăn giỗ Quất, thoạt trông thấy bà cụ Xim lòm khòm cẵm cháu, Chấn lại tưởng như ở trong một giấc mộng. Giữa chỗ đông người, hai bà con chưa nói gì được với nhau. Chấn định đến nhà bà cụ lại ăn bữa cơm và nói chuyện nhiều thì bà cụ đã nhắn Sấm bảo thế nào Chấn cũng đến kẻo bà cụ mong. Chuyện gì đây? Công việc gì đây? Người mẹ già và người quần chúng cơ sở quý mến vô cùng của Chấn này!

- Anh Đấu uống nước đi. Anh không bận quá thì trưa nay cố ở lại ăn cơm với tôi. Hôm nay đổi ca, cái Xim trưa nó lại được về ăn cơm nhà.

Chấn khó nghĩ quá. Bà cụ lại đặt Chấn trước một việc đã rồi. Còn Chấn khi đi Chấn chỉ định đến thăm cụ, còn ăn thì để một hôm chủ nhật nào đó, và Chấn sẽ chạy tiền mua biếu cụ cái quà gì đấy. Chấn quen mấy trại hàng hoa, Chấn sẽ nói với họ để lại cho đấu chè hột thật ngon và hoa cúc. Rồi Chấn mua một hộp thuốc bổ, Chấn sẽ ngày ngày tiêm cho bà cụ. Ở tù, Chấn tiêm mạch máu rất khéo. Mũi kim của Chấn chỉ ấn vào mạch máu dù nhỏ, mờ, khó đến đâu cũng chỉ đánh sựt cái là trúng ngay. Vì rắp định như thế nên Chấn không dặn gì với người nhà thổi cơm cho Chấn và dặn cái thằng cùng ở cơ quan cùng ăn với Chấn ở nhà nọ. Để nhà người ta phải chờ đợi phần phò thì phiền. Điều thứ hai là phí. Một hào một bữa cơm chứ ít ỏi gì đâu! Trong khi một đằng bỏ ăn như thế, bà cụ lại phải đi chợ tốn kém. Nhưng bà cụ đã mời, Chấn không ăn không được. Nhất là từ ngày về, Chấn chưa ăn ở nhà cụ bữa nào. Như thế thì chỉ có cỗ bên nhà cụ Cam mới đáng mời Chấn hay sao?

- Vâng! Bà cho con ăn thì con ở lại. Mấy giờ thì cô Xim về tầm?

- Mười một rưỡi.

- May quá! May quá!

Chấn tính đến việc tạt về nhà báo tin, dù lại phải cuốc bộ đi về lần nữa hàng bốn cây số. Phải! Tuy mình khổ cái chân, cái chân to mà đi đôi giày cà cộ như cứa vào gót này, nhưng người ta không phải lích kích phần phò, còn thằng bạn thì được ăn thêm một suất thức ăn, như thế khổ mình cũng được!

Bà cụ Xim cũng uống xong chén nước. Bà cụ đặt cái chén không xuống khay mà tay cũng run run. Đường gân ở cổ bà cụ cứ nhấp nhô, giật giật. Mãi bà cụ mới cất được tiếng:

- Anh Đấu này, anh Hiền lại chết ở đề lao khác?

Cái chuyện Chấn đương chờ đợi thế là bà cụ Xim đã khơi lên. Chấn nắm lấy bàn tay bà cụ, nhìn vào gương mặt xót xa, nhớ tiếc của bà cụ. Chấn cố giữ nụ cười bình tĩnh:

- Hiền nó chết ở Sơn La bà ạ. Nó phát vãng lên đấy chưa được năm tháng thì chết... Nó bị phù. Con ở Côn Lôn về đến Hà Nội mới được anh em cho biết tin. Hôm nọ chuyện với bà, con cố giấu bà, sợ bà buồn. Thế mà bà đã biết rồi!

- Tôi chẳng buồn gì cả! Sao lại buồn? Có phải như đánh bạc thua đâu mà buồn?! Có các anh bỏ cửa bỏ nhà, chịu đau đớn tù đày, thì dân nước và những người vô sản nghèo khổ mới thoát được khỏi cảnh áp chế bóc lột, mới tiến lên được cái đời xã hội chứ! Nếu chịu được vận hạn thay các anh thì chúng tôi đi thay ngay. Chỉ ức một nỗi vì những cái quân mà mẹ chúng nó ăn dở bọ hung nên đẻ ra cái giống chúng nó, chúng nó làm chó săn, làm mật thám, chúng nó nói trêu gan chọc tiết mình mà mình cứ phải nhịn. Chúng nó bảo các anh đem con bỏ chợ. Chúng nó bảo các anh chỉ giở giói ra để làm khổ người khác. Chúng nó bảo những đồ khố rách áo ôm, mặt nhem đít nhọ thì cứ yên cái phận mà làm mà ăn, trứng chọi với đá sao được mà đòi làm cách mạng! Tôi chỉ ức một nỗi như thế, càng nghĩ càng mong sao có một ngày...

- Bà ơi! Sao bà lại đi tù thay cho chúng con? Chúng con chả lại về là gì đây! Chúng con vào tù lại tranh đấu, tranh đấu để mà ra, còn bà ở ngoài cũng tranh đấu, tranh đấu để lại nhóm phong trào lên chứ! Chính là phần chúng con phải chịu đau khổ cho những người đã đau khổ nhiều như bà. Những nữ đồng chí công nhân già, những cơ sở như bà, cách mạng quý vô cùng. Đó là đất sống của phong trào bà ạ!

Bàn tay người mẹ già bé nhỏ gày yếu nóng hẳn lên trong lòng bàn tay Chấn, bà cụ ngẩn mặt ra nghe Chấn rồi cũng cười:

- Các anh nói gì cũng phải cả!

- Còn bà nói cái gì chúng con cũng đều thấy chân thực, tin cậy, khuyến khích...

Bà mẹ già cúi mặt xuống, im lặng. Những đường gân cổ bà cụ không giật giật nữa mà phập phồng rung rung, trong khi gương mặt bà cụ hồng lên, rạng rỡ sung sướng. Cái cháu ngồi nép bên bà, gà gà rồi ngủ lúc nào không biết. Bà cụ kéo cái áo bông cộc làm gối đặt cháu nằm. Chấn nhìn quanh, lấy cái áo dài của Xim vắt trên màn xuống đắp bụng cho con bé. Bà cụ lại ngồi nhích gần gần Chấn, rót nước.

- Anh Đấu uống đi rồi tôi hỏi. Anh Đức... à thôi tôi cứ gọi là anh Hiền, anh Hiền có dặn lại gì anh không?

Chấn lại sững sờ:

- Khi Hiền nó bị bắt thì con trốn ra Cẩm Phả rồi tổ chức điều động con về Nam Định. Con bị bắt ở Nam Định, lên Hà Nội xử án, con ở một trại, nó ở một trại, rồi con ra Côn Lôn, nó lên Sơn La. Ở Hỏa Lò Hà Nội, hai thằng chỉ nhắn tù cỏ vê án thường thăm nhau được mấy câu ngày sắp đi phát vãng...

- Thế ra anh em trước khi kẻ mất người còn cũng không được đôi hồi với nhau điều gì!

Chấn sực nghĩ đến cảnh gia đình Hiền. Mẹ Hiền cũng là công nhân. Bà quét dọn ở máy chăn của nhà Máy sợi Nam Định. Bà cũng được mình Hiền. Không hiểu những thằng tha về Nam Định có tìm đến thăm nom bà cụ không? Mà không biết bà cụ có còn sống không? Ở với ai bây giờ? Ngày Chấn bị giam ở Sở mật thám Nam Định, bà cụ cũng bị giam hàng nửa tháng và cũng bị tra, bắt phải khai ra Hiền bỏ học đi thoát ly hoạt động ở đâu và những đầu mối liên lạc của Công hội đỏ ở nhà Máy sợi là những ai. Hay bà cụ Xim cũng quen với bà mẹ Hiền? Hay có chuyện gì hứa hẹn giữa Hiền với Xim nhưng trước đây bà cụ Xim cũng như Hiền đều giữ ý không nói ra.

Bà cụ Xim ngửng lên nhìn Chấn rồi im lặng. Hình như có tiếng nức nở trong cổ họng bà cụ. Chấn càng không thể nén được hồi hộp khi thấy bà cụ đứng dậy, đưa mắt trông ra ngoài sân rồi đi lại đằng góc nhà. Bà cụ hí hoáy giây phút rồi rút ra không hiểu ở trong kẽ vách hay dưới chân giường một gói nhỏ cuộn vải sơn. Bà cụ đưa cho Chấn, giọng nghẹn ngào:

- Của anh Hiền gửi tôi đây. Anh Hiền đưa thế nào thì cứ nguyên như thế. Anh Hiền dặn tôi đưa cho anh thì tôi cứ giữ cho anh.

Tim Chấn bị giật mạnh. Đúng cái thứ vải sơn Chấn vẫn gói truyền đơn, tài liệu giấu dưới ngăn đít thùng nước gạo hai đáy cho một chị ở cơ quan đi phân phối cho mấy cơ sở. Nhưng sao Hiền lại giữ và gửi lại cho Chấn làm gì? Mà là tài liệu hay thứ gì đây? Chấn rứt vội sợi dây gai ra. Dây gai của thợ hàng giày xe vừa kỹ lại thiết chặt, Chấn cởi mãi không được phải ghé răng nhay nhay. Mở miếng vải sơn ra, Chấn cố hết sức bình tĩnh mà vẫn run cả tay và run cả trong người nữa. Đó là tờ báo cuối cùng của xứ ủy Bắc Kỳ trong đó đăng một bài dài có mấy đoạn mà Hiền dùng mật hiệu dặn Chấn trích để in thành truyền đơn hô hào thợ thuyền và quần chúng Hải Phòng ủng hộ cuộc đấu tranh của nông dân Xô viết Nghệ Tĩnh giữa lúc Xô viết đương lúc thoái trào bị khủng bố tàn sát dữ dội. Kẹp vào giữa tờ báo là một mảnh giấy viết tay, chữ nhỏ như chân kiến và đúng là chữ Hiền.

Chấn nhổm ra phía cửa. Chỉ thoáng nhận ra mấy chữ đầu, Chấn kêu lên:

- Bài thơ của Cảnh con!

Đến lượt Chấn, Chấn thấy vừa nghẹn hết cả người vừa nóng rực cả tâm trí. Đúng bài thơ của Cảnh con làm ở xà lim án chém để gửi về nhà quê cho mẹ. Hiền chép bài đó gửi cho Chấn. Vừa phần Hiền cũng có mẹ già, vừa phần Chấn và Hiền là hai thằng bạn học cùng trường. Chấn thường đến nhà Hiền, rủ Hiền đi học. Buổi nào cũng vậy, không củ khoai thì bắp ngô, quả chuối, cả đến đĩa bánh đúc ngô hay bát cơm nguội rang với muối, mẹ Hiền cũng chia đôi, ép Chấn ăn với Hiền. Chấn cùng tuổi với Hiền. Cha Hiền bỏ mẹ Hiền ở với vợ hai năm Hiền còn ẵm ngửa. Hiền gày gò rút rát. Những buổi mẹ đi làm, Hiền học về, cứ ngồi chờ mẹ ở cửa không dám đi đâu cả. Các con vợ hai của bố chơi đùa, đem quà bánh đến trước mặt Hiền "nhẻm nhèm nhem", Hiền chỉ ngồi im không có thì lại khóc. "Sao mày khổ thế Hiền ơi!". Bạn bè không gọi tên Hiền mà đặt cho cái tên bằng cả một câu trên kia. Thằng "Sao mày khổ thế Hiền ơi!", hai giờ kém mười lăm rồi đấy có đi học không? Thằng "Sao mày khổ thế Hiền ơi!", đi đá bóng với chúng tao đi. Thằng "Sao mày khổ thế Hiền ơi!", u mày mới may áo cho mày đấy phải không?...

Lọt cửa sổ gió đông hiu hắt

Ván xà lim lạnh ngắt như đồng

Não lòng cho khách anh hùng

Mơ màng thần mộng tới trong quê nhà

Xót tình con trẻ mẹ già

Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi...

Những dòng chữ li ti của Hiền nhấp nháy ở trước mặt Chấn. Mắt Chấn vừa đọc những dòng chữ nọ, tai Chấn lại còn nghe những dòng chữ cất lên thành tiếng ngân nga nữa. Tiếng ngân nga của Hiền; tiếng ngân nga của cả Cảnh con, và tiếng ngân nga của chính bà mẹ Cảnh văng vẳng thầm trong tâm trí những lúc bà nghĩ đến Cảnh, nghĩ đến cái án chém, nghĩ đến nỗi đau xót không thể nào nguôi được...

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân chưa dễ đền nghì trời mây...

Hiền chép bài thơ của Cảnh để gửi cho mẹ dặn dò an ủi mẹ. Chấn chưa đưa đến tay cho mẹ Hiền mảnh giấy ấy thì Hiền đã chết trong khi chính mẹ Hiền đã gửi lời Chấn dặn dò, an ủi Hiền. Ngày Chấn bị giam ở Sở mật thám Nam Định, một buổi Chấn đi qua xà lim của mẹ Hiền, mẹ Hiền đã lào thào gọi Chấn:

- Anh Chấn ơi! Anh sắp sang đề lao để xử án đấy à? Anh cố mà ăn uống cho chóng khỏe nhé. Anh có gặp thằng Hiền, anh bảo nó đừng có lo nghĩ gì về tôi! Giai cấp có còn, Đảng có còn thì mẹ nó mới sống, đời nó mới giữ được.

... Tờ báo khổ giấy chỉ bằng khổ vở học trò, màu đã vàng, nhiều chữ đã nhòe dính với nhau, hình lá cờ và búa liềm chỉ to hơn đồng xu cũng mờ nét lẫn với những dòng chữ. Còn bài thơ bị nhiều chỗ vàng ố và nhiều chữ mất hẳn vì nét nhỏ quá, và mực phai bợt hẳn đi. Chấn hồi hộp gấp cả tờ báo và bài thơ lại. Bà cụ Xim nhìn Chấn, bà cụ định đưa cho Chấn miếng vải sơn và sợi dây gai để Chấn buộc lại, thì Chấn nâng tờ báo và bài thơ lên mũi. Chấn hít hít cái mùi giấy và mùi mực bao năm nay bặt đi. Rồi Chấn ấp cả tờ báo và bài thơ vào tay bà cụ Xim, nắm chặt lấy, xoa xoa, nắn nắn cổ tay và bàn tay bà cụ:

- Bà ơi! Bà ơi! Hơn sáu năm rồi đây!...

Đôi mắt nhỏ và đục lờ của người mẹ già chớp chớp:

- Anh Hiền năm nay hai mươi chín, anh Đấu nhỉ?

- Vâng, Hiền nó cũng sinh năm 1908 với con...

Bà cụ Xim im lặng giây lát:

- Anh Đấu ạ, anh liệu bề ở trên ấy cơm nước có tiện không, không thì về dưới này ăn với tôi. Anh không cần phải giữ kẽ. Anh ăn anh giả tiền. Nếu anh dư dật, anh giúp thêm tôi cũng được.

Đó là một ý định mà bà cụ đã nói ra được. Nhưng còn một ý định nữa, và là ý chính thì bà cụ lại chưa dám nói:

"Anh Đấu xem xem có thể giao cho cái Xim nhà tôi công việc gì thì cứ giao. Nó kín đáo và cũng có tinh thần đấy. Mẹ con tôi chết thì chết chứ các anh đã giao công việc cho thì phải làm tròn. Phong trào đã hồi lại, đời sống của mẹ con tôi lại được trông thấy, vừa phần tôi lại là người cũ, tôi không thể ngồi yên đâu!".

Như đoán được ý nghĩ trên đây của bà cụ Xim, Chấn nhìn bà cụ, mỉm cười. Chấn tự nhủ:

"Con xuống ăn cơm trọ ở nhà mẹ rồi còn phải có việc gì nữa chứ! Nhưng mà cô con gái của mẹ được giao công tác rồi mà mẹ chưa biết đấy thôi!"

Bà cụ Xim dặn lại Chấn mười một giờ rưỡi là phải về nhà ăn cơm. Chấn chào bà cụ đi. Trời nắng to. Trên đỉnh trời, mây trắng chất ngất như những lớp núi vàng núi bạc đùn lên, lở ra, xô đẩy, cuồn cuộn. Khói nhà máy Xi măng kéo dài ra mãi cửa sông Dế, tràn lên mãi đường số 5. Chợt có tiếng còi tàu um um ở ngoài xa. Chấn giật mình. Lại một tàu to nữa về. Chiều nay là vào cầu, ngày mai sẽ ăn hàng. Như thế cuộc đình công của anh chị em khuân vác Sáu Kho sẽ phải nổ sớm. Thành ủy quyết định ngày mai hay ngày kia đây? Chấn nghĩ đến ban đại biểu của cuộc đấu tranh sắp tới mà Lương lãnh đạo và là địa điểm liên lạc. Ngoài Gái đen là "nhân" mới còn hai công nhân đã tham gia mấy cuộc đình công từ 1930-1931. Nhưng thế vẫn chưa đủ đảm bảo. Chấn phải gặp thành ủy để duyệt lại lần nữa bản yêu sách, những khẩu hiệu tranh đấu và thành phần đại biểu. Nhất là phải xem lại địa điểm liên lạc. Nếu chưa thật bí mật thì phải chuyển ngay, tốt hơn hết là chuyển đến ngay gần Sáu Kho, ở Lạc Viên hay Chùa Đỏ vậy.

... Sáu Kho đình công. Công nhân hải cảng Hải Phòng đấu tranh. Rồi đây cả Xi măng, Máy tơ, Máy chỉ nữa. Hải Phòng với những thợ thuyền và quần chúng lao khổ của nó sẽ lại xông lên hàng đầu đánh vào dinh lũy của bọn tư bản và bọn đế quốc thống trị... Trong người Chấn dần nóng, tâm trí rần rật bồn chồn vô cùng. Ăn cơm trưa xong không những Chấn phải tìm gặp Lương ngay để Lương cho biết rõ thêm về tình hình những đại biểu và những diễn biến về tư tưởng của những anh chị em trung kiên và của quần chúng ở mấy kho hàng sắp bước vào cuộc đấu tranh nọ, mà Chấn còn phải đi điều tra để biết thêm về cả tình hình bên Xi măng, Máy tơ, Máy chỉ nữa. Rồi Chấn đến nhà Sấm. Lần này Chấn phải chuyện nhiều với Sấm.

***

Sấm bước vào cửa lò. Cả người Sấm lọt thỏm trong cái vòm sắt, ở đây hơi nóng, ánh lửa phụt ra cùng với những tiếng lửa sôi bùn cháy khiến người lạ nếu đột nhiên bước vào có thể choáng váng ngất đi. Sấm đứng lên cái bục gỗ, ghé mắt nhìn qua miếng kính xanh để xem sự hoạt động của luồng lửa và màu sắc của bùn đất đương cháy thành cờlanhke. Trong lòng lò sâu rộng như ruột một quả núi và là một quả núi quay lừ lừ, ống than vẫn phùn phụt, đỏ rực. Đất đá nhào luyện thành bùn cuốn vào dây đương chảy quánh lại như một nước thiếc, và cả cái khối nước thiếc bỏng sôi ấy đảo lộn như sóng bão ầm ầm, ì ì, ngùn ngụt trong một nghìn bốn trăm độ lửa, dần dần khô lại, đóng thành tảng. Những tảng cờlanhke sôi sục, rơi vỡ, tung tóe, từng loáng đỏ thắm, từng loáng xanh chói trong một quầng sáng biêng biếc một cách ghê sợ như của lửa chiếu hàng nghìn ngọn đèn sì tập trung lại.

Mắt Sấm chỉ nhìn có giây phút mà nhức nhói. Đầu óc Sấm ngột ngạt, ngực thở tức tối. Thấy trong lò không có gì chuyển biến, Sấm bước ra. Hai lò trong cũng chạy tốt như thế. Hai bác cuydơ già cũng ở cửa lò đi ra, mặt mày mốc mác than bụi và hầm hập nóng. Hai bác cùng Sấm đến cái bàn xem cân những hột cờlanhke đoạn ra đầu cầu thang uống nước. Bên ngoài, gió chiều thổi như xé. Cái rét lọng óc. Những người đẩy goòng ở gầm là ra chỉ một quãng đã thấy chân tay lạnh tê. Một bà xúc cờlanhke ở bên đường goòng nghiện giầu, đã móc móc cái khăn tay bọc giầu cau ra rồi mà chịu không sao xé được miếng vỏ quạch vì ngón tay như chết, bàn tay giơ ra cứ run bần bật. Bà này vừa nhìn xuống miếng vỏ, nhìn ngón tay, vừa cười gọi chị em như mếu.

Ngoài phía máy đá còn rét hơn. Tiếng sóng gió ngoài sông nhiều lúc dội lên át hết cả tiếng máy. Những dây buồm của những thuyền đất, thuyền đá bị gió thổi phần phật rung vang lên như những dây "đàn bò" khổng lồ. Trong khi ấy, những dây chão dây xích neo thuyền cứ bị chồm bị giựt tưởng đến đứt ra để thuyền xô vào bờ đá hay vùng ra sông. Những người làm đất bì bõm dưới sông xắn đất, chuyển đất, đội đất vẫn chỉ có manh quần đùi rách hay đóng khố. Nhiều người mặc có mỗi chiếc vỉ buồm to khoét lỗ giữa để chui đầu, còn hai bên lườn chỉ khứu lại bằng dây gai. Khố đóng thì bằng dây gai bện và che bằng mảnh bao tải. Họ đội đất đến các xe goòng, vừa đi vừa giơ ngang cánh tay cồm cộp bùn gạt nước sông mặn tong tong xuống mặt. Những người làm đá ở gần đấy tuy không bị ướt át, nhưng từ người xúc đá đến người xếp đá đều bị phồng hết cả tay và rớm máu. Trên những đống đá, họ bước, họ nhảy lò cò thon thót như ở trên những bàn chông.

Sấm đương uống nước chợt thấy có người bên máy đá đi qua đường. Sấm vội chạy ra gọi và hỏi thăm Cam hôm nay đã đi làm chưa. Người nọ cho biết Cam vẫn nghỉ. "Cái thằng này lạ thật!", Sấm tự nhủ, cười, lắc đầu, nói cám ơn người nọ rồi trở vào máy. Sấm đến góc tường lấy cái điếu bằng ống sắt đơm thuốc lào hút. Gió thổi lên cả tầng lò. Que đóm châm vào bật lửa mấy lần mới được. Sấm hút xong lại đi ra cầu thang, nhìn ra khu thuyền đất, máy đá. Sấm lại bồn chồn nghĩ đến Cam. Ba hôm rồi không thấy Cam đi làm. Cam chẳng bảo gì nhà và cũng chẳng bảo gì anh em bạn, hay những người quen làm cùng ca cả.

"Vì rét mướt nó nghỉ hay lại vì có chuyện giữa cai ký với nó mà nó bỏ việc nghỉ lâu thế này? Hôm nào phải nói với các anh Chấn, anh Lương khi xuống nhà thăm ông cụ thăm bác gái thì nên giảng giải cho nó nghe về các việc mới được. Nó hết sức là ngang ngạnh nhưng cũng lại biết ăn nhời. Nó mà đã tin đã định làm cái gì mà nó thấy là phải là hợp với ý nó thì phải biết..."

Sấm nhìn những lớp khói lò bị gió thổi tạt mù mịt cả đường, vừa suy nghĩ về Cam. Đối với Cam, Sấm không sợ Cam lêu lổng, hư hỏng. Sấm chỉ lo Cam bạt mạng. Dạo này công việc vất vả, mà chủ thầu lại rục rịch rút tiền làm đất làm đá, cai sếp động một tí là đá đít, bạt tai người làm và đe đuổi, thấy thế không khéo Cam cáu tiết lại bỏ đi làm chỗ khác thôi! Lâu nay Cam ăn nói lại càng ương bướng, và càng tỏ ý chán ngán cái nhà máy này lắm rồi! Rất có thể Cam bỏ việc và còn bỏ cả nhà đi lung tung...

Sở mộ phu đi cao su Nam Kỳ, đi Tân thế giới đương ráo riết rủ người. Cái lán mộ đi cao su ở ngõ Tê A lại bật đèn cả ngày cả đêm, đặt bàn giấy, có người gác cổng, và lốc nhốc hết chuyến này đến chuyến khác đưa người xuống tàu. Mấy thằng cai mộ lượn cứ như đèn cù. Hàng quán cứ quây lấy trước cửa lán và giăng ra suốt từ ngoài đường Bengích vào trong ngõ. Các sòng bạc ở Cấm, Quần Ngựa, Chợ Con cho người ra tận đầu phố và ngã tư chào khách. Rạp hát Lạc Mộng Đài với các hàng kem, hàng phở, hàng thịt chó ở xung quanh tối nào cũng đông như hội chợ. Trai gái, nhà thổ lậu, gái săm, khố đỏ khố xanh, ma cô, du côn, anh chị... trưng bảnh chè chén, ghen tuông, tranh giành đâm chém nhau cứ loạn cả phố. Chỉ vì mấy bữa cao lâu, mấy tối Lạc Mộng Đài, rồi rủ nhau ký giấy "công ta" vay tiền đi phu, mà mấy thằng lộc ngà lộc ngộc con mấy nhà ở Lạc Viên, ở Xi măng đã làm bố mẹ cuồng lên đi tìm, khóc sưng cả mắt, và phải chạy hàng ba bốn chục bạc nói với cai mộ chuộc giấy lại cho con...

Mỗi lần đi qua phố Tám Gian, nhìn vào ngõ Tê A và cái lán phu nọ, Sấm lại thấy gai gai và uất ức trong người mà vẫn cứ phải nhìn vào. Lán phu ở mà hai lần cửa sắt bưng tôn kín, sơn đen như cửa đề lao. Tường cũng cắm mảnh chai, mắc dây thép điện. Mấy gian nhà cũng châu vào nhau, cửa sổ cao mãi gần bờ tường, rộng độ hơn gang tay và bịt lưới sắt. Hẳn là đề lao, các cửa các tường quét hắc ín, có xà lim có lính gác cổng, có lính canh trên các chòi, cho đi một nhẽ. Đây là lán của sở, của chủ tư mà cũng ngặt nghèo ngăn cách người bên trong, kẻ bên ngoài, lạnh lùng thăm thẳm. Và cảnh tượng lại còn có chỗ thê thảm hơn. Ở trong lán, người ngồi rù ra; người đứng thì ủ rũ víu lấy cửa sắt mà trông ra ngoài như kẻ mất hồn, người đi lại, chơi bời thì làm ầm ĩ hỗn loạn. Từ sáng sớm đến một hai giờ đêm, lán cứ như chợ vỡ hay nhà thương điên. Tuồng, chèo, hát đúm, hát xẩm, mađờlông, bình bán, mácxâyde, lamát, ru con, cầu kinh, rên khóc. Rồi ăn và rượu. Lòng bò, thịt chó, nộm, sứa, kem nước đá... người nhà cai mộ và gác cổng cứ kìn kìn đưa vào, tha hồ bóp mắt lấy tiền. Và chắn, xóc đĩa, ích xì, cát tê... Chửi nhau, đánh nhau, trộm cắp. Những đêm phu xuống tàu thì cả ngõ inh ỏi túi bụi ngay từ buổi chiều. Tất cả bị lùa đi ở dọc đường ra Sáu Kho như trâu như bò. Trong khi ấy hàng quà và các con mẹ mua đồ, bán đồ vẫn cũn kĩn chạy theo nhôm nhổm như dòi.

Chính Sấm cũng đã có lần định ký côngta đi phu và Sấm đã theo cai vào cái ngõ này rồi. Năm ấy Sấm mười chín tuổi. Sấm vừa buồn vì cảnh nhà cha mẹ mất sớm, nương tựa vào anh chị thì anh chị lại nghèo và đông con.

... Từ khoảng trống giữa nóc lò nung và nóc nhà quả gang nghiền, luồng gió lạnh lại hút xuống, xoay xoáy, rồi tỏa ra đen kịt. Những bức tường đỏ bầm, hoen ố và những dãy nhà bưng bít như là nhà tù, và nhà thương điên của cái lán phu đi cao su Nam Kỳ nọ, rùng rùng vờn vờn ở trước mắt Sấm rồi dần dần nhòa đi. Trong làn bụi mù mịt, những chuỗi gầu cờlanhke đều đều lên xuống, lóc xóc ken két. Hai người đàn bà ngồi nhặt những cục cờlanhke to vẫn đều tay ném ra những đống chất ngất xung quanh. Than bụi và ánh sáng ngày đông xám lạnh giội xuống hai cái bóng lom khom hậm hụi; nhiều lúc không còn trông thấy người nữa, và khoảng đất thì mù mịt thăm thẳm như một cái vực. Người đàn bà nhặt cờlanhke nọ là thím Khách con dâu cụ Coóng, sau khi đẻ sẩy thì được cai thương hại cho vào làm cái chân ngồi với một bà bị đống gạch cờlanhke đổ giập cả bàn chân.

Thuở còn giai trẻ lam lũ chán nản... Những ngày được giác ngộ đương tham gia đấu tranh thì cách mạng bị khủng bố, công nhân xoay mình đâu cũng bị bộ máy mật thám, tòa án của đế quốc vây bắt, đàn áp... Những năm sống dưới một chế độ như những quả núi đè xuống đời người... Cho đến nay!... Sấm miên man từ những lo toan cho Cam lại đến những ý nghĩ về đời sống hiện tại. Đời sống của Sấm và của chung quanh, cái đời sống mà Sấm đã thấy rõ vì sao con người lại đói khổ, cơ cực, những cảnh ai tâm trong xã hội này ở đâu gây nên, tự những kẻ nào gây ra, và không còn một con đường gì khác ngoài con đường đấu tranh lật đổ tất cả cái chế độ này đi...

Tâm trí Sấm bừng bừng. Sấm quay lại nhìn hai bác cuydơ bước vào cửa lò, ánh lửa chiếu ra hồng hồng rừng rực. Sấm nhìn anh em trên lò đương hút thuốc và chuyện như pháo ran... Lại những chuyện về tình hình thế giới, về phong trào. Thợ thuyền bên Pháp không những đấu tranh cho mình mà cho cả thợ thuyền và dân chúng các thuộc địa nữa. Rồi đây bọn chủ phải thi hành luật làm việc ngày tám giờ cho tất cả các nhà máy, các sở mỏ. Nghe đâu thợ thuyền các ngành sẽ có thể lập được nghiệp đoàn. Nghe đâu sẽ lại được cả tự do hội họp, tự do ra báo, ra sách nữa... Bao nhiêu việc trước kia phải hết sức giấu giếm lẩn lút, động vỡ ra thì bao nhiêu người bị bắt, bị tra tấn, bị tù, bị chết, thì nay sắp đến ngày giành được thắng lợi. Ở cả những Sở cao su đất đỏ hay những đồn điền cà phê, ca cao Tân thế giới, cu li cũng sẽ không phải là những kẻ bán mình làm nô lệ, chịu roi vọt đánh vùi đánh giập nữa, mà sẽ được ăn làm có giờ giấc. Thím Khách nhặt cờlanhke với bà có chửa ở mãi dưới Đông Khê kia, rồi đây ở cữ sẽ được buổi trưa về cho con bú và thổi nấu miếng cơm nóng canh nóng mà ăn... Rồi lại phải đòi tăng lương, để còn có đồng mà chuộc côngta, mà dành dụm lúc giở về quê hương bản quán, mà may cho bố mẹ, con cái manh quần tấm áo, mà cho con cái đi học lấy vài năm cho biết đọc biết viết. Ở cái sở Xi măng này, anh em sẽ đường hoàng nghỉ ngơi ăn uống; anh em sẽ ngồi ngay bên những gốc cây ngoài bờ sông, ngồi ngay ở cổng sở, bàn chuyện đọc báo với nhau. Và báo của mình sẽ đăng những bài của thợ thuyền đòi chủ phải tăng lương, đòi chủ phải bồi thường cho gia đình những người bị tai nạn lao động, đòi cả đốc lý, thống sứ phải thi hành những quyền lợi của lao động, của dân chúng...

Sấm đi hẳn ra ngoài đầu cầu thang. Tấm cờ đỏ từ năm 1930 kéo lên ở giữa khu lò nung và máy điện cho đến nay Sấm vẫn chưa biết là anh em nào kéo, lại phần phật trong tâm trí Sấm. Cái tờ báo bằng khổ giấy học trò, chữ in thạch mờ nhòe, vẽ hình búa liềm và lấy ngay tiếng Ximoong làm tên báo, lại mở ra dưới mắt Sấm. A! Tờ báo bí mật ra được ba số thì phải ngừng lại này! Không! Rồi đây những thợ thuyền Sở xi măng và tất cả thợ thuyền Đông Dương sẽ ra hẳn những tờ báo in ở nhà in, phát đi các nơi, để mà đấu tranh...

Không thể nén được, tâm trí Sấm kêu hẳn lên:

"Anh chị em lao khổ ta ơi! Miếng cơm chín, tấm áo lành của chúng ta, chúng nó không thể bóc lột được mãi! Trên đầu trên cổ chúng ta, chúng nó không thể cưỡi lên được mãi! Tự do, cơm áo, hòa bình... Đông Dương chưa làm được cách mạng như công nông binh Nga Xô viết thì cũng phải đấu tranh thực hiện cho được những điều cấp thiết kia giành lại với bọn tư bản, bọn đế quốc... Tự do... cơm áo... hòa bình... những tiếng nghe sao mà như reo như hát, như sấm sét, vang động kêu gọi vậy?"

Sấm vào cửa lò xem lại lò xong lại ra ngồi uống nước hút thuốc chuyện với mấy bác cuydơ già và mấy người bạn phụ lò. Tan tầm, Sấm rẽ sang máy đá để hỏi tin tức Cam. Cùng đi lối ấy để về trong xóm, có mấy người đàn bà bên nhà gạch. Quá mấy bước khỏi cầu thang lò nung, mấy người đàn bà nọ đã bảo nhau đi ù lên cho khỏi rét. Sấm cũng phải rảo bước. Mũ Sấm vừa quét mấy lần sơn vừa lót bên trong một lượt giấy dầu đội nặng chối cả đầu mà cũng vẫn bị gió ngoài sông tung đi. Hễ Sấm nhặt được mũ lên, dụi dụi xong mắt, thì bụi lại thốc đến làm tối tăm cả mặt mũi. Từng mảng bụi ở những tầng, những nóc nhà máy bị gió thổi như đập như cào ra, rơi bồm bộp, ù ù xuống đường. Đèn đã bật nhưng cảnh vật vẫn nhập nhòe, mờ mờ, chập chùng. Nhìn lên các tầng máy, các lò khói tưởng như là những đồi núi thành trì đương nhấp nhô trong sa mù.

Sấm đến gần máy đá thì gặp một xe goòng lững thững ở trong máng đẩy ra. Có tiếng người quen gọi. A kìa! Ông cháu cụ Vy. Cụ Vy khà khà hỏi Sấm trước:

- Nhà Sấm đi đâu đấy?

- Cụ làm ca đêm ạ. Cháu đi hỏi xem thằng Cam nó có đi làm không?

Thằng cháu cụ Vy láu táu:

- Nó đi tễu đâu mấy hôm nay ấy! Bác có về thì bảo với nhà nó, nó không đi làm ngay thì người nhà cai nhà sếp lại vào thay luôn đấy!

Cụ Vy phập phì cái điếu tẩu hút thuốc lá. Cụ vẫn cồm cồm chiếc áo cụt tay bằng vải tuồn vá đùm vá đụp, két dầu mỡ lại dày như gỗ. Cụ quấn một miếng chăn sợi làm khăn trùm lên cái mũ chào mào. Nghiêng nghiêng đầu nghe thằng cháu nói đoạn, ông cụ khoạc nhổ một cái, tiếp nhời:

- Thì để thằng hàn Lân nó khiêng cả cái máy đá này về Cam Lộ cho bố con và quân gia đày tớ người làng nó làm với nhau vậy.

Sấm chừng ngay tâm trí. Nhưng Sấm vẫn giữ nụ cười, rẽ ràng hỏi cụ Vy:

- Thế nào hở bố, hàn Lân lại tuốn người nhà nó vào làm?

- Ấy nó đương đe, nó hạ một thước khối đá có hai xu là nó phải chịu lỗ đấy, không bằng lòng làm thì nó gọi người khác vào làm. Được! Ai vào thì cứ vào! Giời rét này máy đá nó đương muốn ăn... gỏi tay đấy!

- Thế cai bao khoán đã hạ chưa?

- Không tăng lên thì thôi chứ hạ thế nào? Bốc đá rụng cả tay, hộc cả máu mũi ra kia kìa. Đã bảo nhà nó có sức thì bố con nhà nó cứ khiêng cả máy đá, cả lò nung về làng Cam Lộ mà làm...

Có tiếng hét lên ở đằng sau:

- Bố ơi! Bố ơi! Cho xe con ra với! Bố ngủ đứng ở đường đấy à?

Hai người con gái dứt tiếng hét thì chiếc xe goòng đã sầm sầm tới. Thằng cháu giật mạnh ông cụ ra ngoài. Hai chiếc xe goòng xô vào nhau sầm cái như nhà đổ rồi chạy rít dài trên đường sắt.

- Ông tướng! Ông tướng nghịch thật!

Cả hai người con gái cười rúc lên, vừa đun vừa đẩy thằng cháu và cả ông cụ.

- Bố già này cũng ác lắm đây! Lại để goòng bị cặm kia kìa!

Sấm chào cụ Vy:

- Con về bố nhé! Trưa mai con vào chơi bố đấy!

Sấm rẽ ra nhà tháo để ra cổng. Đây đỡ gió, đỡ rét nhưng lại bụi hơn. Từ những cửa máng xylô, những bao xi măng tuốn ra, lao xuống những xe cày cứ lầm lên mù mịt. Chỗ làm chỉ còn là một đám bụi lửa lúc nhúc những hình thù và sự huyên náo mà ai nấy đều sầm cả mặt mũi, lọng cả óc. Từng chục xe cam nhông lệch khệch ầm ì, cái rú ga, cái hãm máy, cái ra, cái vào... không phút nào ngớt trước sân. Sấm len lách giữa những xe cày chạy bạt mạng cày hàng tám bao xi măng một chiếc. Ra đến đường, Sấm phải đi nép vào bờ hè, luôn tay quờ quờ phủi phủi những làn bụi của những xe cam nhông táp vào mặt và những đám bụi than gió cuốn trút ở cái "băng" trên máng cầu cao xuống. Mấy người con gái ra sau cứ đá vào gót Sấm, cười ngặt nghẹo, díu lấy nhau:

- Cái con bé này!

- Kìa cái con này!

Sấm cũng cười: "Đến ông cụ Vy chúng nó còn chẳng từ nữa là!..." Sấm nghĩ lại lấy làm lạ cho ông cụ nọ. Năm nay ông cụ sáu nhăm sáu sáu tuổi rồi. Ông cụ đã làm ở sở từ ngày bác Vy còn mười ba, mười bốn tuổi, hết lò nung, ra thuyền đất, lại trở về lò nung, lại ra máy đá. Con giai ông cụ còn mệt, còn ốm, chứ ông cụ chưa phải một viên thuốc gió, một bữa bỏ cơm nào. Anh em nhà máy, nhất là bọn đàn bà con gái chỉ thích trêu ông cụ. Suốt mùa bức cho đến tháng tám tháng chín ông cụ chỉ cởi trần. Bụng ông cụ xệ, rốn lại sâu, có một hột cơm to bằng đầu ngón tay út và một cái lông ở mép. Ông cụ thường bảo hễ bao giờ rụng cái hột cơm và cái lông nọ thì ông cụ có ốm mới ốm, có chết mới chết. Bọn đàn bà con gái cứ rình lúc ông cụ ngủ lại đến giựt giựt cái lông rốn đó. Không giựt thì họ lấy dây thép, tóc, lấy phoi bào thép mà ngoáy rốn ông cụ, để ông cụ vùng dậy, hét lên văng các thứ con và chửi, rồi họ bỏ chạy cười bò ra với nhau. Có mẹ lại xoa xoa lên bụng ông cụ, vừa vỗ banh bách vào cái rốn:

Ai bảo:

Giời mưa nước chảy qua sân

Lấy chồng ông lão qua lần thời thôi!...

Lấy ông lão nào, chứ được nâng cái mũ chào mào và sửa cái áo gỗ của ông lão Vy này thì phải biết là... phướng...

Nghĩ đến sức khỏe và tính nết ông cụ Vy mà anh em nhà máy gọi là bố Điển Vy nọ, Sấm lại thấy thèm, thấy quý. Sấm lại nhớ lại cuộc đình công năm xưa của anh em máy đá và thuyền đất. Sấm lại nhớ lại đám đại biểu anh em cu li có mấy cụ nữa, cụ đã mất, cụ bỏ về quê, mà chỉ còn lại ông cụ Vy. Chợt tiếng cười ré lên ở sau lưng Sấm. Đến lượt Sấm giẫm lên gót người đi trước. Người đó là bà quét nhà giấy còn trẻ mà người con gái của bà cùng con bạn y thì đi sau Sấm. Sấm qua cầu Hạ Lý, Sấm không về nhà ăn cơm mà đi tìm Chấn.

***

Xim bế con sang nhà bà Gái. Con bé cứ sà xuống cười khanh khách với cái Lê.

- Thì đây đi với chị!

Cái Lê đón lấy con bé con Xim, xốc xốc cõng nó ra nhà ngoài ngõ có đám trẻ con đương quây lấy hàng ngô nướng. Mẹ Nghĩa thấy chỉ còn bà cụ Xim ngồi têm trầu ở nhà liền hối hả sang:

- Bà ơi bà! Anh Chấn chỉ ăn bữa trưa với bà thôi à?

Bà cụ đặn đà:

- Tôi cũng cố giữ anh ấy nhưng không được. Có là chỗ người nhà, và anh ấy có nể lắm, anh ấy mới ở lại ăn như thế.

- Bà này! Thế anh ấy có biết thằng Lé nó đứng trõm anh ấy ở ngõ ngoài suốt từ lúc anh ấy ở nhà bà Gái sang bên bà, rồi đến lúc anh ấy về, nó lại tõi theo không?

Bà cụ Xim bỏ quả cau và con dao xuống tráp:

- Thằng Lé cháu đội Nhị làm sú doóc ấy à? Nó gác khi anh Chấn sang nhà tôi rồi đi theo anh ấy? Thế sao bác không bảo tôi!

Mẹ Nghĩa đập tay vào đầu gối bà cụ:

- Ai lại lạy ông tôi ở bụi này. Con chờ lúc anh ấy ra đi tiểu, con nháy cho anh ấy biết rồi!

Bà cụ Xim thở phào:

- Làm sao cho tiệt cái giống doóc này đi mới được. Ma quái cứ ở lẫn với người!

Bà cụ đưa cho mẹ Nghĩa miếng trầu, vê sẵn cả thuốc lào cho nữa. Mẹ Nghĩa nhai trầu, trước khi ăn thuốc, mẹ di di điếu thuốc lào vào hàm răng khấp khểnh có chiếc chòi ra cả ngoài môi:

- Bà nhỉ, trông người anh ấy rõ ra vẻ hiền, nói năng khù khì nhỏ nhẻ, thế mà cái mắt anh ấy con thấy vẫn tợn tợn.

- Tợn tợn là thế nào?

- Tợn tợn đây là ý con muốn nói trông anh ấy con vẫn thấy dữ.

- Kìa sao lại dữ?

- Khổ quá! Nào con đã nói hết! Dữ là dữ với Tây với

mật thám; dữ đây là không sợ chúng nó, kình lại với chúng nó ấy.

- Chống lại với Tây với mật thám thì sao lại là tợn là dữ? Như thế là người cách mệnh chứ lại!

Mẹ Nghĩa cười, bỏ miếng trầu cầm tay, gật gật:

- Phải! Phải! Như thế là người cách mệnh... người cách mệnh.

- Phải thì cũng khẽ chứ! Gớm chết, nhà bác này!

Mẹ Nghĩa xẵng ngay tiếng:

- Việc gì mà phải nói khẽ. Giờ có còn phải như năm nào nữa đâu!

Mẹ xin thêm bà cụ mấy sợi thuốc nhai với miếng trầu đương ngon:

- Bà ạ, đến đầu tháng này nhà con có kỵ vừa cũng là kỳ tiền, con làm mâm cơm cúng, con muốn mời anh ấy và cậu giáo Thanh, bà xem có được không?

Bà cụ Xim im lặng giây phút:

- Bác mời cậu giáo Thanh hay ai thì tùy. Còn với các anh ấy thì nên hỏi ý xem đã. Việc ăn uống ở các nhà bà con là các anh ấy giữ kẽ lắm. Có anh, người nhà bố mẹ giàu hẳn hoi mà cũng không về gia đình ăn, vẫn đi ở trọ để làm việc...

- Thế bà biết nhà anh Chấn trọ ở đâu bà bảo con để hôm nào con lên phố con tìm con thăm anh ấy. À mà... anh ấy còn anh khác, chỗ các anh ấy làm việc mình không nên đến nhỉ.

- Tôi thì tôi cũng chả biết các anh ấy trọ nhà nào hay làm việc ở nhà nào cả.

Mẹ Nghĩa nghe nói, ngẩn mặt ra.

"Hay bà cụ có ý ngại mình? Sao bà cụ lại nghĩ thế? Mình cũng biết giữ gìn cho các anh ấy chứ! Mình cũng là người như thế nào chứ! Cái năm đưa báo cộng sản ở bên Tây về, mấy con mẹ ở Kho bao đem báo ở dưới tàu lên mấy chuyến, không có mình và con mẹ La biết ý đứng gác mật thám, sú doóc cho thì lại không bị bắt ấy à? Chẳng cắt việc cho mình và con mẹ La mà hai con này cũng cứ làm... Thế mà bây giờ bà cụ lại...!" - Mẹ Nghĩa cố nén sự bực dọc để chuyển sang chuyện khác:

- Anh Chấn bị án cũng nặng như ông Cam đấy bà nhỉ?

- Đã làm việc như thế thì án là nặng lắm.

Mẹ Nghĩa trầm trầm giọng:

- Tây mà phải thả cộng sản, thả cách mệnh ra như thế thì ức lắm đấy! Cách mệnh mà thành, cộng sản mà thành, thì thay đời đổi thế ngay bà nhỉ? Nhưng mà chúng nó chẳng chịu như thế đâu! Cái tang những thằng nhọ đít, những thứ Nam Hạ vác đất, những con mẹ đội than què dở như con mẹ La và rách rưới đen đủi người chẳng còn ra người như con mẹ Nghĩa rằng này mà lại được sung sướng, có quyền ăn quyền nói, không bị ai đè đầu cưỡi cổ, con cái nhà chúng nó lại được ăn học và cũng làm việc nọ việc kia... thì còn giời đất nào nữa!

Cốt trầu đã ngọt sắc. Mẹ Nghĩa nuốt đến đâu thấy nóng người và say đến đấy. Mẹ mở hai ngón tay vuốt ở hai bên mép rồi chùi vào chân niễng. Rồi mẹ mỉm cười, tự chia với mình nỗi vui sướng trong câu vừa nói.

Giời đã sâm sẩm. Muỗi đã kêu như ri ở trong nhà. Mẹ Nghĩa uống chén nước rồi chào bà cụ:

- Con về bà ạ. Anh Chấn lên, thế nào bà cũng gọi con sang nhé. Có gì thì bà nói với các anh ấy cho con. Thật lòng con muốn mời các anh ấy... gọi là nhân nhà con có kỵ...

Mẹ Nghĩa lũn cũn về nhà. Gió rét thổi sầm sập vào trong ngõ. Mẹ vội khép tà áo che bụng. Bụng mẹ dạo này càng to. Báng lại chửa. Cái chứng sốt rét ma quỷ hành mẹ từ ngày mẹ làm ở Vàng Danh về kia đến nay là hai mươi, hơn hai mươi năm rồi mà vẫn không dứt. Mẹ đã phải nhắm mắt nhắm mũi uống cả nước giun sống! Tuần trước nó lại vật mẹ liền mấy đêm. Vậy mà ban ngày mẹ vẫn phải đi làm... Trước những luồng gió đánh bạt cả người, mẹ Nghĩa vừa đi vừa xuýt xoa. Bụng mẹ thì chói, chân thì mỏi, buốt.

Mẹ Nghĩa không bị tê dệt như mẹ La. Nhưng cứ khi nào mẹ sốt thì chân mẹ lại đau. Cái nước Hải Phòng này thế mà cũng độc. Mẹ đội than chỉ vấp cọc, sứt da, bùn bám vào một tí mà cũng hóa sâu quảng. Đắp hàng trăm thứ lá mãi sau mới lên da non, kín miệng. Mẹ đã tưởng mất đứt cái chân. Mẹ lên nhà thương hàng mấy tháng, đến phát chán phát sợ. Chính mẹ cũng ghê cả người vì mùi thuốc vàng, thế mà cứ vác cái chân đến các chỗ người ta ngồi nghỉ ngơi, ăn uống, thì ai người ta chịu! Nhưng có là hủi đâu mà phải trốn, phải lẩn. Mẹ còn đau tủi vô cùng thấy mẹ phải ngồi ru rú một chỗ, không được quần tụ chuyện trò với chung quanh. Chỉ còn cách cưa cái chân sâu ấy đi! Nhà thương bảo thế. Mẹ đã khổ như vậy mà một hôm thằng Bảy mề đay sếp bóp Ngã sáu đi lùng hàng lậu, sục vào gốc cây mẹ ngồi. Mẹ có động đến mồ ông mả cha nhà nó đâu mà nó a lê cusoong đá luôn mũi giày vào ống chân đương tấy của mẹ, khịt khịt mũi, hét cút lít bắt mẹ tống đi trại hủi. May mà mẹ thuộc các ngõ ngách, mẹ cắn răng chạy thục mạng vào bãi xếp sắt "xà gồ" của nhà Đétcuacabô, sau nhờ được người làm bắc tê dắt về nhà... Đêm ấy mẹ Nghĩa lại sốt, luôn mấy ngày không ăn uống gì, người cứ mê man, nóng như hòn than...

Mãi đến năm kia cái chỗ chân ấy mới khỏi. Chỗ sâu hoắm lại bằng đồng bạc, xương bị ăn thối chỉ còn mọng mọng những gân với da. Hễ mẹ bước mạnh thì lại đau xóc như bị điện giật. Nhất là khi giời rét. Buổi sáng có sương, đặt bàn chân xuống đất thì buốt thúc lên tận óc. Nhiều lúc mẹ đã phải quấn mấy lần giẻ vào chỗ ống xương bị sâu và lồng hẳn hai chiếc bít tất, đi chiếc giày vải tầm đại của người ta vứt ở kho, trông như mẹ ngộ mẹ dại, mà vẫn cứ phải làm. Không thế thì rét buốt không chịu được, lên cầu xuống cầu, đội thúng than cứ chực khuỵu xuống...

- Lại rét ét ét...

Mẹ Nghĩa xuýt dài một tiếng. Một lu?