← Quay lại trang sách

Cơn Bão Đã Đến Chương 4

Càng gần ngày Một tháng Năm, ở các lối ra vào Hải Phòng sự khám xét, theo dõi càng gắt gao. Mật thám, chỉ điểm, sú doóc... đúng là như dòi. Ở các bến ô tô, tàu thủy, ga chính, ga xép, ngã tư, đầu cầu, không một hàng nước, hàng phở, hàng quà bánh nào không có bọn chúng. Những thằng giả làm kéo xe, bán vé xổ số, thợ cạo và những trẻ con bán báo, bán kem, đánh giày mũ làm xú doóc cứ thay phiên nhau chòm chõm những người ở trên xe trên tàu xuống, những người mua vé có các gói, cặp, va ly, đặc biệt là những người hao hao hay có nét gì giống những người đang bị truy nã ghi trong tập ảnh của Sở mật thám mà bọn chúng đã phải xem phải nhớ nhân dạng của họ cho thật thuộc.

Nhưng có một người cũng đương bị truy nã mà chúng rất coi thường, chẳng thèm nhòm ngó đến ảnh, và cũng chẳng cần chú ý tìm kiếm. Vả lại, cho dẫu chúng có ngay người ấy ở trước mặt, một tay chúng giở hẳn ảnh người ấy ra so, thì chúng cũng vẫn không thể nhận ra được. Mà chính ngay người ấy, đã nhiều lần nhìn mặt mình trong bóng nước hồ nước ao, trong mặt kính, mặt gương - những mặt kính mặt gương trong sáng nhất - thì cả người ấy đã buồn tủi vô cùng, nghĩ rằng:

- Mình không phải là mình nữa rồi! Mình không còn là người nữa rồi!

Người ấy càng thấy như mình đã chết mà sống lại. Hơn nữa, thấy mình gần như là một hồn ma, và là một hồn ma dám đi giữa cả ban ngày. Người ấy thấy cả dong nhan dáng vóc của mình chỉ là ở một xác nào đấy, nhờ vong hồn xác ấy không ăn cháo lú nên mới nhớ, mới chịu nhận xác ấy là của mình mà lại nhập vào.

Người ấy là mẹ La.

Cái tin mẹ La chết kể cũng đúng thôi. Thế là ba tháng rồi, mẹ không có thư có tin gì cả. Trước kia, không những hàng tháng mẹ có một thư viết bằng giấy đề lao, đóng dấu đề lao gửi về cho các con, mà còn gửi nhiều thư riêng nữa. Thư về chỗ Dậu; thư về chỗ cụ Vy; thư về chỗ bà cụ Xim hay về chỗ mẹ Nghĩa rằng, bà Cam, chị Gái là những người cùng xóm Cấm của mẹ. Có những thư mẹ dán những hai tem, đề rõ tên và chỗ ở của nhà người quen của mẹ. Ấy là chưa kể những thư mẹ gửi các người về xuôi, họ bỏ thùng dây thép hay đưa tay cho mấy chỗ thân thiết nhất kia. Nhưng còn một cái đúng nữa là có cả người đã kể chuyện chính họ gặp mẹ La ốm ở dọc đường, họ đã thuốc thang cơm cháo cho mẹ nhưng mẹ bị liệt nặng, chỉ còn chờ chết.

Mẹ La trốn được hai ngày, lần được đường tắt về xuôi, lại càng sốt. Giữa trưa hôm thứ ba mẹ La vào một cái lán của thợ sơn tràng người dưới xuôi xin nước uống. Uống hết bát ô tô nước nóng, mẹ La ngất đi. Không biết họ đã đổ những thuốc gì cho mẹ La, và mẹ La không biết mình đã mê man mất mấy ngày. Chỉ nhớ lúc tỉnh lại, mẹ thấy mình không mặc bộ quần áo Thổ nữa mà bao nhiêu quần áo mới, quần áo lành của mẹ bọc cất trong bị mẹ mặc gần hết. Tuy đã hồi hồi, mẹ vẫn không còn đủ sức cất nổi đầu. Nhưng khi mẹ vừa húp được lưng bát cháo, vịn sàn vịn liếp đi được, mẹ liền đến chỗ thợ đương ngả gỗ, khóc nói cám ơn và xin phép "các cụ các ông các bác để cháu đi".

Mẹ La bảo mẹ đi tìm chồng. Chồng mẹ ở nhà quê thua bạc, bán cả vườn, cả nhà, bỏ làng trốn đi. Nghe đâu "bố nó" theo các ông lái trâu lên Hà Giang. Mẹ lên theo, lại được tin "bố nó" vừa về Tuyên Quang. Ở nhà, ông bố chồng đương ốm nặng chỉ chờ con giai về để nhắm mắt... Cả lán thợ sơn tràng nghe mẹ La nói chỉ cười. Họ bảo mẹ đừng nói dối, đừng giấu họ nữa. Họ biết rõ mẹ là tù trốn rồi! Họ sẽ giúp mẹ, tìm người tốt gửi mẹ về. Vậy mẹ cứ ở đây với họ, mẹ thuốc thang ăn uống vài tuần hay hẳn một tháng cho khỏe đã. Mẹ La sợ quá, sụp ngay xuống lạy họ, rồi khóc kể thật mọi sự tình nông nỗi.

Một người thợ đã có tuổi trong bọn nhận ra mẹ La là người cùng tỉnh. Ông khuyên mẹ không nên nôn nóng. May mẹ gặp bọn ông chứ nếu không bị cắt đầu, xẻo tai thì cũng bị bắt giải tổng đoàn rồi. Thế nào mẹ cũng phải ở lại đây. Thuốc men ăn uống là chính, nhưng cần hơn nữa là phải nghe ngóng động tĩnh rồi tìm người thật tốt biết đường biết lối mà đi theo. Về được đến Tuyên Quang hơn trăm cây số đường đất gian nan hiểm nghèo lắm. Rồi về được đến Phú Thọ cũng vẫn chưa phải đã hết gian truân. Chính đoạn đường này mới là cửa tử. Đây là ngã ba sông và ngã tư bốn tỉnh. Phải ở lại nghe ngóng xem xét rồi sẽ nhờ thuyền nhờ bè mà về Hà Nội, không thì vẫn phải đi bộ đi tắt, chứ đằng thằng bằng tàu hỏa ô tô thế nào cũng lại bị bắt. Đến các lái thuốc phiện lọc lõi nhất và cả các người chuyên làm nghề mang nhựa mang thuốc cũng ngại nhất chặng đường từ Phú Thọ về Hà Nội.

Mẹ La đành phải ở lại cái lán thợ làm gỗ nọ đúng nửa tháng. Hôm mẹ ra đi, bọn thợ còn cho mẹ người năm hào, người ba hào; có người nắm vào tay mẹ hẳn tờ giấy bạc một đồng. Ông thợ nhận mẹ La người cùng tỉnh thì đưa mẹ đi. Ông cũng phải về vì được thư thằng con trưởng của ông sắp bị bắt đi lính sang Tây. Ông phải đem tiền về, một là chuộc con, hai là đấm mồm, đấm miệng bọn hương lý chúng đương nhòm ngó các nhà có người đi làm xa kiếm ăn được còn hơn cả cú nhòm nhà bệnh. Lần này, mẹ La ăn mặc đường hoàng, quần nái thâm, ái dài vải nâu, khăn vuông láng, giả làm người lên trên đây đi đổi thuốc lào.

Hai người đi toàn đường tắt, luồn rừng và qua những bản những trại sâu lảnh, cheo veo nhất. Hàng tuần mới gần đến Tuyên Quang, vào trọ ở một nhà cũng người dưới xuôi lên vỡ bãi ở ven sông Lô, định chờ thuyền chờ bè người quen để xuôi Phú Thọ, thì mẹ La lại sốt. Trận này, mẹ La không ngất đi nhưng bại hẳn cái nửa bên người mọi khi giở trời vẫn tê liệt. Có ngày mẹ La bỏ cả cháo, chân tay lạnh như đồng ngâm, chỉ nằm mà thở. Ông thợ cùng tỉnh mẹ La đã chạy thuốc và cho mẹ La ăn uống mất thêm ba ngày nữa. Sáng hôm ông ta gửi gắm mẹ La ở lại nhà trọ để về xuôi, mẹ La lại càng mê man. Mắt mẹ đã có lúc đờ ra. Môi khô nứt. Tay bắt chuồn chuồn...

Nhưng mẹ La lại tỉnh, lại trỗi dậy được.

Trong hơn một tháng liệt giường liệt chiếu, mẹ La phải bán hết quần lành áo tốt để lấy thuốc. Còn tiền ăn uống, mẹ La đưa, nói thế nào vợ chồng nhà người vỡ bãi cũng không nhận. Mẹ La đi phải chống gậy. Quần áo mẹ mặc tuy sạch sẽ dù sao vẫn là những thứ rách rưới tồi tàn đáng nhẽ mẹ bỏ lại ở đề lao, nhưng vì mẹ tiếc cái hơi hướng nên cố tha đi. Chết đi sống lại mấy lần, người mẹ La chỉ còn da bọc xương, tóc rụng hết, răng lợi vêu vao, nhiều lúc mẹ cũng không dám nhìn mình lâu trong gương. Nhất là cái mặt cái mày. Mắt mẹ ngờ ngạc càng lác hơn; gương mặt mẹ càng vàng bủng; lông mày gần trụi hết; da sùi sùi cóc cáy như da gà già, gà chọi.

Trước kia, khi mẹ La mưu tính cuộc trốn tù, mỗi lần mẹ nghĩ đến phải giả làm kẻ ăn mày ăn xin ở dọc đường, mẹ thấy khổ tâm vô cùng. Nay dù mẹ không muốn thế, nhưng trông cái mặt mũi thân hình cùng với cách ăn mặc đi đứng của mẹ, mọi người vẫn cứ phải cho mẹ là một con mẹ ăn mày. Vì vậy, hễ mẹ La chống gậy lết người đến hàng quán, gốc cây, chân cầu, đầu hè nào, những người khỏe mạnh, lành lặn sạch sẽ đều đứng dậy, phủi phủi quần áo đi ngay chỗ khác. Thậm chí, khi mẹ La đưa tiền mua bát bún, bát bánh đúc riêu, cái bánh đa hay quả chuối, quả dưa, cũng bị người ta xua đuổi. Mẹ phải nói khó mãi người ta mới đơm, mới bán cho.

Cả những phu điếm tuần phiên cũng sợ, cũng tránh, cũng xua đuổi mẹ La. Những cút lít ở các nhà ga, bến tàu, cổng chợ gớm ghiếc mẹ hơn cả những quan ôn thần dịch. Những ăn mày, những kẻ khổ sở, nheo nhếch, rách rưới khác, còn nhiều kẻ bị chúng đánh hay lấy roi, lấy dùi cui mà đẩy mà dúi mà đụng đến người. Với mẹ La, chúng chỉ chun mũi và quát:

- Cái con mẹ ma đói ma khát kia! Mày ở đâu mà đến đây thế? Có xéo ngay đi chỗ khác mà chết đâu thì chết không!

- Cái con mẹ ốm đói kia! Mày muốn chết lại hay sao mà lại lảng vảng đến đây thế này?!

Nhiều kẻ đã giơ roi, giơ dùi cui lên nhưng lại hạ xuống, chỉ dứ dứ rồi bỏ đi. Mẹ La càng bỏ cái mê nón đội đầu và khăn vuông trùm tai đi, trông mẹ lại càng gớm càng khiếp. Cái đầu đã trọc lại nhùn nhũn, xương má gồ lên, khiến con mắt càng trũng, lờ ngờ, vàng nhớt. Cái miệng của mẹ vêu vao chìa hết răng ra mà kêu mà lào thào nói còn sợ hơn cả miệng của bộ xương cải táng.

Mặc dầu đến ga, đến bến tàu, đến đầu đường nào cũng bị xua đuổi, nhưng mẹ La vẫn phấp phỏng. Mẹ càng nhìn, càng phấp phỏng, bọn cút lít, lính gác càng tránh mẹ. Tuy mẹ La vẫn lo sợ, tuy bọn thợ sơn tràng cứu mẹ ở trong rừng đã khuyên đã dặn mẹ La, và cả mẹ La cũng như tất cả mọi người tù trốn khác đều biết rằng vượt ngục mà lại lần về quê hương bản quán mình, bằng xe lửa ô tô hay tàu thủy thì rất dễ bị bắt, nhưng mẹ La cứ đi xe lửa. Mẹ không lấy vé, không lên xuống ở ga chính, nhưng mẹ vẫn đi hẳn chuyến ban ngày từ Việt Trì về Hà Nội. Mẹ xuống ga Gia Lâm, đi thủng thẳng đến ga Phú Thụy, vào chợ nghỉ ngơi, ăn cơm ăn riêu cua đậu rán, và lại hút luôn hai mồi thuốc lào nữa rồi lấy vé về thẳng Hải Phòng.

Mẹ La ốm và đi đường như thế mất hai tháng rưỡi. Không một quang cảnh nào mẹ La không nhìn, không nhớ lại, không nghĩ ngợi: phố xá, chợ búa, nhà ga, bến sông, nhà máy, kho hàng, người đi lại gồng gánh, khuân vác, kéo xe, kéo thuyền. Cả những nhà đoan, sở cẩm, trại lính khố xanh, tòa án, đề lao, Sở mật thám. Cả những tù cỏ vê, những người mới bị bắt tay xích chặt, mếu máo, cố ngoái lại dặn dò người nhà, những người đàn bà quần áo trắng đóng dấu, xanh bủng beo ở các nhà thương. Cả những đứa bé đi học về học, ríu rít như chim sẻ. Càng nhìn, càng nhớ, càng nghĩ, mẹ La càng thấy nung nấu trong ruột trong gan. Mẹ càng muốn có được cánh bay về Hải Phòng, bay về với con cái, với các bà con quen biết. Và thế nào mẹ La cũng phải hỏi đến chỗ chôn cất chồng, cái thằng bố La, cái lão hươu cái lão sâu men trùng rượu kia mà đắp lại mồ mả và thắp cho lão mấy tuần nhang.

*

Bây giờ mẹ La về được đến Hải Phòng của mẹ rồi. Mẹ lại ở giữa bến tàu to Sáu Kho, gần cầu than chỗ mẹ đội than từ năm tóc còn để hai quả đào đến ngày tóc đã có sợi bạc, đỉnh đầu trụi nhẵn như đá mài. Mẹ La lại tưởng như mình đương nằm mê nằm mộng và thấy thật đúng mình là từ cái hồn ma bóng quỷ thoát khỏi âm ty địa ngục, trở về dương gian mà làm người. Không biết bao lần mẹ đã chết đi sống lại, nhưng lần này nhất định là mẹ sống, phải sống. Khi mẹ La ở cửa ga Thượng Lý đi ra, mắt mẹ trông thấy bốn ống khói lò nhà máy Xi măng, tai mẹ nghe thấy những tiếng ầm ầm của các khu Cốt pha, Sáu Kho, tay mẹ quờ được khói bụi, thì trống ngực mẹ càng đập quá thể. Mẹ bèn chít lại khăn vuông, úp cái mê nón lên đầu, khoác cho cái bị trễ nữa xuống và chống gậy còn thiểu não hơn cả khi ở Tuyên Quang mẹ chào vợ chồng người làm bãi bên sông Lô ra đi.

Như thế, mẹ La lại càng thấy lo thấy sợ.

Trở về cái đất Hải Phòng có những xếp bóp như Bảy mề đay, Tây cậu, những mật thám như Tây mặt đỏ, Tây mặt ngựa cùng một lũ adăng, cút lít sục sạo, tinh quái, ác nhất trần đời nọ, nếu mẹ chỉ lộ liễu một tí là bị bắt ngay, và lần này thì... Phải!... Mẹ La đã tính nát nước nên mới lại về bến Sáu Kho.

Mẹ về ngay chỗ thằng La thì không thể được rồi! Tuy chỉ được nghe thằng La kể trong thư những chuyện về Dậu, mẹ La cũng có thể tưởng tượng được chỗ ăn chỗ ở của anh em nó, và của ông chủ, của cô chủ nó ra sao. Cái ngõ có vin la của lão chủ thầu Đờvanhxy ở ngay gần bóp Ngã sáu của xếp Bảy mề đay, xếp Tây cậu, và ngõ chỉ có mỗi con đường. Ở con đường nhỏ trong khu này toàn là những vin la của thầy kiện, đốc tờ, quan ba, quan tư và các chủ nhà máy. Ngay cả những mẹ buôn đồng nát bao chè sục sạo là thế mà cũng không dám lảng vảng đến đây. Có được mối hàng gì thì phải đón ở các gốc cây, vòi máy nước mãi tít gần phố ta rồi chờ bồi bếp đưa ra. Vả lại đánh đĩ chín phương cũng phải để một phương lấy chồng. Đấy là chỗ nương tựa của các con, nơi anh em chúng nó nhờ vả về lâu về dài, phải hết sức giữ gìn cho chúng nó.

Chỗ thứ hai là bà cụ Xim, cô Xim. Nếu như đến nhà Dậu tìm thằng La mà không nên, thì đến nhà bà cụ Xim, cô Xim tìm cái gái Lê lại càng không được! Cảnh nhà mẹ góa, con góa. Mẹ thì già, con gái lại mất việc. Gieo neo như vậy mà bà cụ và cô ta vẫn đùm bọc lấy con mình, lẽ nào mình lại để người ta nhỡ ra vì mình liên lụy? Chẳng trước thì sau, mẹ La cũng được gặp cái gái Lê thôi! Vả lại khi được giấy truy nã mẹ, bọn mật thám làm gì chả để ý đến chỗ ở của bà cụ Xim, của cô Xim, người nuôi con cho mẹ, cũng như chỗ ở của Dậu.

Chỗ thứ ba là nhà mẹ Nghĩa rằng. Từ ngày mẹ La bị bắt giam ở Hải Phòng không buổi vào phép nào mẹ Nghĩa rằng không vào thăm. Nhờ có mẹ ta nên mẹ La bao giờ cũng có trầu vỏ thuốc lào đủ ăn trong đề lao. Mẹ ta lại còn gửi giấu cả rượu chổi và thuốc tễ vào nữa. Hơn một năm mẹ La phát vãng lên Hà Giang, thư riêng về cho thằng La đều gửi ở nhà mẹ Nghĩa rằng. Không hiểu dạo này cái con mẹ Rằng-thì-là-mà góa chồng sớm được mỗi thằng con cũng nghịch như quỷ giãy ấy, làm ăn thế nào mà lại may cả áo cánh phin, yếm và khăn vuông láng gửi người làm ô tô lên cho mẹ? Chao ôi, cũng cái cảnh đội than đầu nhem đít nhọ, chạy được bữa sớm phải lo ngay bữa tối, thì còn khấm khá sao được! Chỉ vì ăn ở tốt với nhau nên nhường cơm sẻ áo cho nhau đấy thôi!

Nhưng mẹ La có về nhà mẹ Nghĩa rằng, nhờ mẹ ta nhắn gọi các con cho cũng không được! Mẹ Nghĩa rằng cũng ở xóm Cấm. Cái xóm đội xếp, mật thám, xú doóc như dòi ấy, mẹ La về đây giữ sao thoát khỏi mắt chúng? Lại còn điều này nữa, là mẹ phải nhìn lại cái xóm cũ ấy. Mẹ phải nhìn lại cái nhà của mẹ, cái ngõ nhà mẹ. Mẹ phải nhìn lại cái lối ra bờ đầm, cái cây si còi bên miếu hoang ngoài bãi tha ma ấy. Trở lại nhà tù mẹ cũng sợ, nhưng nếu không may mẹ bị bắt lại, mẹ cũng đành liều. Chứ trở lại cái nơi gia đình mẹ đã tan hoang, những cảnh cũ người xưa đều đầy đủ y nguyên, vậy mà mẹ lại không thể nào đi về sống giữa ban ngày ban mặt, không thể đứng ngồi trò chuyện với ai..., chỉ mới nghĩ đến như thế, mẹ La cũng đã đau xót, ghê sợ vô cùng rồi! Có thì phải sang một kiếp khác, mẹ mới lại về cái xóm Cấm ấy!

Mẹ La cũng còn mấy nhà quen thân nữa và họ cũng rất một lòng thương mẹ. Như nhà cậu giáo Thanh. Con bà bán bánh khúc, bánh ngô, người đi đạo, hễ nghỉ hàng là cả ngày bà ta đọc kinh và đi nhà thờ. Cậu Thanh đã dậy cả thằng La, thằng Nghĩa làm được tính đố và viết ám tả chữ Tây. Đứa trẻ nào trong xóm, dù nghịch ngợm hay tối dạ đến đâu, theo học cậu ta rồi cũng ngoan cũng khá. Thế mà có nhà vẫn cứ chịu chằng tiền học của cậu ta hàng hai, ba tháng mà cậu ta có lấy đắt gì cho cam?! Lớp ba mới có bảy hào, lớp vỡ lòng có bốn hào. Chỉ bằng nửa tiền các trường ngoài phố. Ngay thằng La nhà mẹ, học cậu ta chịu hàng nửa năm, Tết đến, may mẹ xoay xở được ở ngoài tàu Sáu Kho cân đường miếng, hộp lê và đôi giày vải ba ta biếu cậu ta, không thì cậu ta đến dậy không thằng La mất. Cậu giáo ấy, nếu mẹ đến nhờ cậy, thế nào cậu ta chả đi tìm ngay các con cho mẹ. Thế nào cậu ta cũng lại cho mẹ tiền và tìm cách giấu giếm đùm bọc mẹ!

Hay nhà chị em cô Dâng, cô Ngọt. Bố chị em cô này cũng tự tử mà chết đấy! Người lành như cục đất, dát như cáy, vậy mà bị Tây cậu đến khám nhà bắt lên Sở mật thám rồi chết trong xà lim vì tội... chứa đồ ăn cắp của nhà binh. Cái cô chị Dâng rất chi là chậm là ít nói, còn cô em Ngọt vừa sắc sảo, vừa tháo vát và cũng rất thảo lảo, nếu gặp mẹ La nhờ cậy, cả hai cô cũng sẽ đi tìm ngay các con của mẹ, cho mẹ tiền và cũng giấu giếm đùm bọc mẹ. Nhưng nhà chị em Dâng lại chính là gian nhà mẹ La đã ở chung cùng ông cụ Ước. Giời ơi! Nếu ông cụ còn sống thì cũng phải là người thương mẹ nhất. Hay mẹ có chết phải xuống âm phủ, khi Phán quan xét xử mẹ, chắc chắn ông cụ sẽ là người ra làm chứng thêm cho mẹ về tất cả mọi nỗi oan khốc của mẹ, mà mỗi câu nói của ông cụ sẽ khiến từ Diêm vương đến Ngọc hoàng Thượng đế, hay bậc quỷ thần nào cũng đều phải nghe, phải tin, phải nể.

Lại còn nhà cụ Vy ở bến Xi Măng. Hàng năm cứ mồng một Tết mẹ lại đưa các con sang mừng tuổi ông cụ bà cụ và hai bác. Bà cụ và bác Vy gái giữ mẹ con nhà mẹ ăn cỗ cả ngày và còn xếp cho một quả nặng bánh chưng, bánh chè lam khi về. Chao ôi! Tính ra thì toàn những người hết lòng thương mẹ La và mẹ La có thể hết lòng tin cậy. Nhưng tất cả những nơi ấy mẹ La đều thấy không nên đến. Vậy thì người cuối cùng để mẹ tìm, mẹ gặp, mẹ nhờ cậy chỉ còn có nhà cô Gái đen.

Tình nghĩa Gái đen ăn ở với mẹ La cũng không thể kể sao cho xiết! Cũng như mẹ Nghĩa rằng và chị em Dâng, Gái đen phải lên hầu tòa làm chứng cho mẹ La. Ở phòng dự thẩm cũng như ở phiên tòa chính xử án, Gái đen toàn khai những điều tốt cho mẹ. Rằng một mình mẹ phải lần hồi nuôi ba con. Cả những khi chồng thất nghiệp hay đau yếu về nhà, mẹ đều chạy ăn chạy thuốc cho chồng. Gái đen lại còn khai tường tận trước hôm xảy ra chuyện đánh chồng, trong nhà cùng quẫn như thế nào, mẹ La ốm đau như thế nào, nhưng vẫn cứ phải chạy gạo và lo đủ mọi việc trong nhà.

Nhờ vậy mẹ La bị xử có năm năm tù.

Nhưng đến phiên xử án ở tòa thượng thẩm trên Hà Nội, mẹ La lại bị tăng lên mười năm tù nghe đâu vì Sở mật thám Hải Phòng lập bô thêm nhiều chuyện của mẹ, đặc biệt là về sự ngạo ngược và các quan hệ bạn bè của mẹ. Gái đen và mẹ Nghĩa rằng đưa chân mẹ La đến cửa đề lao Hỏa Lò, nắm tay mẹ mà nói:

- Chúng nó là những thằng mù! Giời đất! Những thằng mù, những quân ăn uống càm cắp như giống chó, giống lợn ấy mà ngồi xét xử người ta!

Gái đen không khóc như mẹ Nghĩa rằng. Gái đen vừa dúi vào tay mẹ La gói táo tàu, cau khô, thuốc lào, vừa ứ ứ trong cổ bảo mẹ La những câu trên đây và dặn mẹ cứ yên tâm đừng lo nghĩ gì việc nhà cửa con cái cả. Thằng La cũng không khóc. Nó mím môi nhìn theo mẹ, mắt ngầu ngầu, gương mặt cháy nắng như tê như dại. Mẹ Nghĩa rằng dắt cái gái Lê cho nó. La cõng cái gái út tong tong cố theo mẹ đến tận cổng đề lao. Cửa sắt loảng xoảng mở ra đen hút rồi mà thằng bé vẫn còn nhìn mẹ quấn quýt vẫn không khóc, mặt nhăn nhăn như muốn gọi mẹ và kêu lên:

- U ơi! U ơi! U khóc làm gì! U đừng khóc nữa! Chúng con càng thương u lắm. Cả thầy nghĩ lại cũng phải thương u. Nhưng mà giờ đây u vẫn bị xích tay, bị tù tội. Làm sao gỡ được cho u ra khỏi cái nhà ghê khiếp kia? U ơi! Bá Nghĩa rằng ơi! Cô Gái đen ơi!

Phải! Mẹ La chỉ còn có thể tìm gặp mỗi Gái đen.

Mẹ La sẽ tìm cái cô hàng xóm người khô đanh, ngược ngạo, chẳng hề biết cái sợ là gì. Mẹ La sẽ gặp lại một người bạn gái trẻ hễ mà hợp tính hợp nết ai, và hễ nghe ai đến nói khó với mình, thì cả ruột gan cũng cởi ra cho nốt. Mẹ La sẽ nhờ cậy một người con gái có cha cũng bị tù đày, bị chết vì tù đày và tù đày vì làm cộng sản, chống lại với cả nhà nước, một người con gái cũng thâm thù bọn mật thám, bọn quan tòa đến độ không thể dàn được mặt nhau. Phải! Người trước nhất để mẹ La tìm gặp nhờ cậy khi trở về đất Hải Phòng này chính là Gái đen. Và mẹ La cũng không thể về nhà Gái đen mà chỉ nên tìm gặp Gái đen ở ngoài Sáu Kho thôi.

Nhưng nhỡ Gái đen không làm ngoài Sáu Kho, Gái đen theo xe đi làm cho các sở trên phố thì sao? Hoặc giả Gái đen vẫn làm ngoài Sáu Kho nhưng có còn làm ở kho thuốc bắc, kho hàng tây không? Hải Phòng mấy năm nay nghe nói cái gì cũng khác lạ, không hiểu các cầu, các kho bãi ở các bến tàu to ấy có thay đổi nhiều không? Gái đen làm tầm đêm hay tầm ngày? Chỗ Gái đen làm có thêm những thằng mật thám, xú doóc mới, hay vẫn chỉ mấy thằng mà mẹ La đã nhẵn mặt. Chúng nó ăn chạc của chị em cả từng bát bún riêu, vòi vĩnh gạ gẫm xin cả từng gói thuốc lá, hộp lê, hộp mứt nho ăn dở. Thậm chí nhiều bà, nhiều mẹ, nói bóng nói gió hoặc chửi cho như hát hay, gí tay vào trán bảo "có đói thì đi mà ăn mày ăn xin, chứ đừng làm cái nghề thất nhân thất đức ấy!". Vậy mà chúng nó cũng cứ liên liến cái mồm "vâng ạ, vâng ạ" và chìa tay cầm lấy năm hào, một đồng bây bửa được.

Mặc! Mặc! Mẹ La cứ phải ra Sáu Kho tìm Gái đen trước nhất. Hôm nay không được thì ngày mai, ngày kia. Hay không gặp được ở Sáu Kho, mẹ La sẽ lên dò hỏi các sở, các hãng trên phố. Gái đen mà làm ở Hải Phòng thì hang cùng ngõ hẻm nào mẹ La tìm cũng phải ra.

*

Xuống ga Thượng Lý, mẹ La qua cầu Xi Măng rồi qua cầu Hạ Lý. Mẹ đã thấy đói. Tiện thể, thấy cái bà toét vẫn bán cơm tây thừa của trại lính Cátdem và hàng lại dọn ở ngay bờ hè vườn hoa Ba Ty, mẹ La liền ngồi xuống mua ăn, vừa xem có ai để ý đến mình không. Thì cả bà hàng quen ấy và những khách ăn, từ bọn đàn ông làm xe ba gác, xe gỗ, bọn đàn bà làm than ở bến tàu Tây điếc, đến bọn trẻ con kiếm ăn, đánh mũ, đánh giày, bán kem xúm đông, xúm đỏ, ăn đứng ăn ngồi, chẳng một ai nhìn ngó hỏi han gì mẹ La cả. Thật khác hẳn với các bến tàu, nhà ga, đầu cầu, bờ hè, quán chợ ở các nơi mẹ vừa đi qua. Ăn xong một bát đầy những khoai tây, cà rốt, thịt bò, đầu gà, cánh gà, sườn lợn và cả bánh bích quy nữa, mẹ La no căng bụng mà chỉ mất có năm xu. Mẹ La chào to tiếng hẳn hoi bà hàng rồi đến cái hàng nước ở đầu đường lối ra bến đò Bính trên sông cửa Cấm.

Mẹ gọi bát nước chè rồi mua phong thuốc lào Sỹ Ký hai xu. Thứ thuốc lào của cái hiệu nổi tiếng của Hải Phòng này sao giờ vừa gói bé, vừa kém khói lại bán đắt thế này? Nhưng thôi, cứ được hút cái khói quen ấy đã. Mẹ La nạp một mồi to vào cái điếu da lươn để trong thùng gỗ ở đất, châm đóm vào cái đèn hoa kỳ đóng đinh bên cạnh điếu, kéo một hơi dài. Khói thuốc vẫn còn phào phào trước mặt, mẹ La đã dúi dụi vào gốc xoan tây, dãi dớt xều cả ra, mắt trợn ngược, hai tay ôm lấy bị gậy rồi mà vẫn cứ quờ quạng. Bọn kéo xe và mấy bà hàng đón gà, trứng, gạo tám thơm và hoa quả bến Thủy Nguyên sang ngồi ngay đấy, chẳng ai ngạc nhiên cả. Có kẻ lại cười khanh khách, thích thú cái say sưa của nhà bà lão ốm ngã nước kia, người có vẻ không đi xin thì cũng là hạng cùng quẫn mới ở mỏ than Vàng Danh hay Mông Dương về.

Mẹ La tỉnh dậy thấy ngượng. Mẹ vội đội lại cái mê nón, xốc xốc cái bị lên vai, lại tập tà tập tễnh đi. Mẹ đi lối cầu Muối ra Sáu Kho và để mọi người khỏi phải xa tránh cho rằng mẹ là hạng ăn mày, mẹ La nhặt nhạnh những mảnh giấy dầu, những thanh ván thùng và đai thép hòm sợi cắp thêm vào bên bị. Chốc nữa đến kho gạo ngoài bến tàu, mẹ sẽ hót thêm mấy nắm ngô đỗ vãi ra đường, ra cầu. Mẹ giả làm người đi quét gạo, quét ngô rơi vãi và mót cái đun nấu giống như tất cả những người đàn bà già yếu nghèo khổ ở Hải Phòng khi không còn cất nhắc được việc nặng, không còn thể nhờ cậy ăn ở với ai là người thân thiết ruột thịt, đành phải lần hồi sống vạ vật như thế ở cái hải cảng hàng hóa của cải như núi như non, đầy các kho, các bãi kia.

Suốt dọc sông ra đến Sáu Kho lại càng đông càng nhộn nhịp. Cầu nào cũng có tàu, có sà lan đỗ. Thuyền đinh, thuyền mành trong Thanh, trong Nghệ, Quảng Bình, Quảng Ngãi và thuyền buồm Trà Cổ, Hải Nam phải chen chúc nhau đỗ mãi tít xa mới có chỗ. Về chiều, đây cũng bụi cũng tối như khu nhà điện nhà than của nhà máy Xi măng mẹ La đi qua ban nãy. Hàng chục tàu to đương vội vã lên hàng xuống hàng. Các cần cẩu trên tàu và ở dưới cầu đều chạy máy như nghiến, như rít, lao lao trên đầu người ta từng tấn gạo, ngô, đậu nành, đậu xanh, chè, sơn, đay, trâu bò, lợn, tơ lụa, thảm dệt, đồng, thiếc, vonfơram. Những thứ hàng gì tốt nhất, quý nhất vẫn kìn kìn xuất đi. Còn nhập vào nhiều nhất, nhiều lạ lùng, là ô tô. Toàn một thứ ô tô nhà binh sơn xám xám, to hơn những con voi. Và những thứ không hiểu là hàng gì, đóng hòm đai sắt đủ các kiểu, cũng to cũng nặng quá khổ, cứ tuốn ở dưới tàu lên. Nếu hòm nào xe cam nhông không chở được thì đã có các toa bàn, một toa không xuể thì ghép hai toa lại. Không biết bao nhiêu thứ hàng lạ khác nữa còn xếp đầy ở các cầu, xếp ra cả các bãi sau ngoài bãi nhà Máy tơ và ao than Lạc Viên. Chưa bao giờ mẹ La thấy hàng nhiều thứ lạ, người cũng nhiều người lạ như thế ở cái bến Sáu Kho thân thuộc của mẹ.

Trước kia các tài xế, étxốpphơ, phu bắc tê, làm xe ba gác đông đến thế chứ hơn thế nữa mẹ La cũng vẫn quen, vẫn không ngạc nhiên mấy. Bây giờ nhiều người không ra ông chủ, không ra đốc công, không ra bao thầu, cũng không ra cai ký. Họ ăn mặc như sắp đi nhảy đầm, xem chiếu bóng ở phố Tây hay đi ăn tiệc. Họ nói với nhau bằng cả tiếng Tàu, tiếng Ănglê; chuyện toàn những thứ chuyện tiền nghìn bạc vạn, chuyện ăn chuyện chơi ở những nơi rất lạ, và những công việc gì gì cứ như bàn bạc bằng tiếng lóng. Có cả những đàn bà con gái như là bà chủ, như gái nhảy người Thượng Hải, Hồng Kông, áo chẽn hở nách, hở đùi, hở bắp tay, vàng ngọc kim cương đầy người, cũng ra vào các kho các bãi, cũng lên xuống các tàu to, cũng ngồi ở các xe nhà binh, cũng cặp kè với những bọn người không ra chủ, đốc công, bao thầu, cai ký nọ, và có vẻ được bọn nọ vì nể, nịnh nọt, chiều chuộng lắm. Còn những cô những mẹ làm ở các kho, cũng nhiều người khác hẳn trước. Họ đã mặc toàn vải phin, cơrếp và xátxi mà làm lụng khuân vác, đẩy goòng, lại còn lủng lẳng đeo dây quả tim ở cổ, lập lắc ở tay. Hoa tai, nhẫn vàng, có người đeo nặng trễ cả tai, cùng cục ở cả mấy ngón tay.

Mẹ La luôn luôn phải dạt vào các đống hàng ở bên đường để tránh những cam nhông qua lại. Mẹ không kịp và cũng không dám dụi mắt nữa. Mẹ ho sặc hết cơn này đến cơn khác vì bụi, vì khói, vì mùi ét xăng. Đèn điện đã bật. Đây cũng thắp đèn phòng thủ như các đường các phố Hà Nội, Gia Lâm, nhưng trên sông và ở các kho các bãi vẫn sáng rực từng vùng. Đường vào bến tàu to lại càng sáng vì ánh đèn pha ô tô liên tiếp nhau chiếu tỏa ra. Gần về tối gió thổi như bão, bụi khói càng mù mịt. Con sông Cửa Cấm quãng xa thì xa hút xa thẳm, quãng gần thì sáng rực sáng chói. Ở xa thì ầm ầm tiếng sóng tiếng gió; ở gần thì rùng rùng, đinh tai lọng óc tiếng máy tiếng người. Cảnh vật vừa quen thuộc, vừa đông vui, cũng vừa mới mẻ xa lạ, đổi thay khác quá, nhiều quá!

Mẹ La nức lên rồi nước mắt cứ giàn ra. Không! Sáu Kho và cái đất Hải Phòng có đổi thay khác lạ đến thế nào cũng vẫn là nơi thân thiết, cậy trông nhất của mẹ. Muốn sao thì sao rồi đây thằng La của mẹ và hai con em nó lớn lên cũng sẽ phải cứ bám lấy cái bến Sáu Kho và cái đất Hải Phòng này mà sinh sống. Còn mẹ, nếu mẹ có nhắm mắt chết, thì mẹ cũng phải được nhìn được thấy các con mẹ khôn lớn, làm ăn tử tế, nên người...

Đi được một quãng nữa, mẹ La càng thấy run, càng thấy cuống. Mẹ đã nhìn thấy cái chòi sắt ở trên kho Đồng Hồ rồi. Cái đồng hồ ba mặt lắp chót vót trên nóc kho từ ba bốn mươi năm về trước vẫn chỉ còn ba cái vành sắt trống hoác để chim chóc nhí nháu ra vào làm tổ. Thằng La đưa cơm cho mẹ thường thường chờ ở đây, chơi ở đây với bọn trẻ con bấu sấu, được chúng nó chia cho bánh tây, khoai rán, thịt bò, bánh bích quy. Có khi La còn được cả giày vải, khăn bao bột, áo may ô, áo sơ mi của những người làm mạch lô hay của lính thủy dưới tàu họ ném lên bờ thưởng cho khi họ đi uống rượu trên phố say ngã tím cả mặt, được bọn chúng dìu đưa về tàu, hay bọn chúng bắt được giấy tờ của họ đã tìm trả họ đầy đủ.

Ngày mẹ La còn để tóc cun cút, mẹ ra xem Sáu Kho vẫn cứ trông cái đồng hồ ở chòi sắt chót vót kia làm chuẩn cho khỏi lạc. Rồi năm mười bốn mười lăm tuổi bỏ làng theo mấy bà người quen ra đây đội than, mẹ La cũng cứ đến rặng bàng trước kho Đồng Hồ mua cơm của mấy bà bán cơm gánh ăn cùng với các bà, các chị em. Cũng ở đây mẹ La đã thấy ông cụ Ước như tiên như bụt kia làm ăn với cụ Coóng. Hai ông cụ khét tiếng vác khỏe và cả ăn khỏe. Mẹ còn nhớ rõ ông cụ Ước hay ăn khoai luộc, tôm trứng, cá bống. Ông cụ Coóng thì ăn cháo đỗ đỏ hay cháo trắng, cá mặn. Một cụ "đánh" đúng một phạng cháo và nửa cân cá rán cháy cạnh. Một cụ "cân" cả một rổ khoai và nửa niêu tôm trứng hay cá bống kho chạt muối. Ăn thì như thế, còn làm thì bao gạo chỉ xanh một trăm kilô, mỗi cụ quại hai bao cứ như cõng trẻ con, chơi đùa chạy suốt từ trong kho ra ngoài cầu. Ở cửa kho Đồng Hồ này, mẹ La thường ngồi ăn cơm gần chỗ cụ Ước, chỉ nghe cụ kể chuyện mà quên cả đói...

Kho Đồng Hồ trước kia là kho gạo. Nhưng, giờ đây? "A! Vẫn là kho gạo". Mẹ La reo thầm lên, càng cuống, càng run. Mẹ liền tự nhủ: "Thế thì kho bên vẫn là kho thuốc bắc? Nhưng... không phải!". Không phải! Kho mới! Kho mới!

Mẹ La nhìn vào trong cái kho nọ, thấy toàn những kiện hàng đóng hòm gỗ, đánh đai, ghi dấu, ghi số rất cẩn thận. Gác kho không phải mấy ông gác đứng tuổi quen thuộc mà là hàng chục gã còn ít tuổi, ăn mặc rất chải chuốt, luôn miệng hò hét, chửi mắng người ta. Phu làm phần đông là anh em Hoa kiều trong đó có nhiều người quen mà mẹ La nhận ngay ra được. Họ cao lớn, vậm vạp, đầu trọc, mình trần, quần cộc, lòa xòa vuông khăn bằng vải bao bột trên vai trên lưng, chuyển toàn những kiện hàng nặng cứ thoăn thoắt, thoăn thoắt,

- Hầy hô hấy hô... hầy ô hấy ô... hầy ô hấy ô...

Cái nhịp dô hò gân guốc kia bẵng đi hơn ba năm mẹ La không được nghe, nay bỗng dồn dập hẳn lên bên tai mẹ. Mẹ còn đương ngoái lại, nhìn náo nức, hồi hộp, thì giật mình vì những tiếng cười khanh khách và những tiếng đấm tiếng chửi nô đùa chí chóe. Kho sợi và kho thuốc bắc đây rồi! Gái đen làm ở hai kho này đây. Từng dãy bảy xe, tám xe, mười xe bàn chồng chất những kiện sợi những bao thuốc cứ rầm rập nối đuôi nhau từ ngoài cầu vào. Toàn đàn bà con gái làm.

Mẹ La càng thấy hoa cả mắt, người lại run run như sắp lên cơn sốt. Sao nhiều người trông cứ ngờ ngợ thế kia? Nhiều tiếng cười tiếng nói quen thuộc trước kia nay vẫn không khác gì cả! Mẹ La chỉ nhìn qua dáng dấp, nghe qua giọng cười nói cũng nhận ngay ra ai với ai. Hầu hết vẫn là bà con các làng An Đà, Đông Khê và xóm Cấm của mẹ. Nhiều bà, nhiều cô ả trước còm cõi nhếch nhác giờ chải chuốt đỏm dáng trông như người nào ấy. Đã thế có mấy cô ả lại còn trâng trâng tráo tráo cười đùa với bọn gác kho và bọn đi lấy hàng gần như những kiểu các gái nhảy hay cô đầu ấy.

Mẹ La cũng chỉ nhìn qua người ta làm việc và nghe bà con nói chuyện với nhau thì biết ngay tình hình và công việc của Gái đen. Gái đen hôm nay đi làm, nhưng ở trong kho. Gái đen phát tài lắm. Gái đen nhiều chuyện lắm. Mẹ La mon men ở mấy hàng quà ngoài bãi bàng nhìn vào trong kho, nhận ra dáng dấp đi đứng là biết ngay Gái đen. Mẹ La cũng ngạc nhiên vì cách ăn mặc của Gái đen. Gái đen vẫn khuân hàng xếp hàng, nhưng cũng như mấy cô ả khoe của ở cửa kho, ngoài bãi, ngoài cầu, Gái đen cũng áo phin trắng, quần cơ rếp đen, khăn vấn xa tanh, cổ đeo trễ nào hột nào dây chuyền quả tim vàng và không hiểu Gái đen còn đeo những mấy cái xuyến, lập lắc và nhẫn mà mẹ La thấy cứ đỏ ối cả tay.

Càng theo dõi, mẹ La càng phấp phỏng. Gái đen làm tầm đến sáu giờ sáng mai mới về. Như vậy mẹ La nên đợi Gái đen về nhà, hay lúc Gái đen đi ra ngoài ăn uống nghỉ ngơi mẹ cứ gọi. Mẹ chỉ lo hễ rời mắt ra mẹ để Gái đen đi đâu không biết, nhất là về thẳng nhà thì thật là khốn nạn cho mẹ! Chỗ gốc cây bàng mẹ La ngồi có đủ các hàng quà. Mấy mẹ buôn lậu, cho vay tiền để mua hàng và mấy ả bấu sấu cùng với mấy thằng cai, mấy thằng ký nhà buôn ăn uống cứ ngập mặt, chuyện trò cười đùa ầm ĩ. Tất cả những người bán quà bánh và bọn khách nọ, đến cả những trẻ con chòm chõm ăn cắp hàng, đều như không thấy mẹ La trước mặt mình. Được! Được lắm! Nhưng từ lúc mẹ La thấy một thằng dở ăn cắp ma cô, làm sú doóc - cái thằng Ba lé con lão thầy tướng ở chợ Cột Đèn, và có chú họ là thằng Đội Nhị, mật thám riêng của Tây mặt đỏ cùng ở xóm Cấm với mẹ kia - nó cứ lượn ở các hàng, nhả nhớt với mấy con bé lẳng lơ thì mẹ La e ngại quá. Mẹ lại nghĩ đến tình hình bắt giam mấy người quen biết của mẹ ở nhà máy Xi măng, nhà Máy tơ, Máy chỉ mà mẹ dò hỏi từ ngày còn ở trên Hà Giang rồi về đây lại vừa nghe được thêm nhiều việc.

Càng về khuya các hàng càng đông. Cả những tài công, mạch lô, quýt tàu, chân sào ở dưới bến cũng lên chơi bời ăn uống. Mẹ La càng rối cả mắt, căng cả tâm trí. Chợt Gái đen bỏ chỗ đương đứng chuyển hàng, đi vào cửa kho trong. Kìa Gái đen vào làm gì thế? Và kìa Gái đen lại còn đi đâu nữa thế kia! Gái đen lại vắt cái áo cờ rếp màu cà phê sữa lên vai, cắp nón, mang một bọc gì ra lối cửa ngách? Gái đen về nhà à? Mới mười hai giờ Gái đen đã nghỉ?

Mẹ La lọm khọm trỗi dậy, thở è è, ho như sặc. Ho xong mẹ La vừa đấm lưng vừa nói như rên như mếu:

- Cả ngày được có mấy lẻ gạo thế này thì đến chết mất thôi! Khuya rồi các bà các cô nhỉ?

Chẳng ai thèm bắt nhời. Mẹ La tập tà tập tễnh đeo bị cắp chổi cắp rổ giấy dầu ván thùng ra cái cổng lối Ngã sáu mọi khi mẹ vẫn đi tầm về tầm cùng với Gái đen và bà con xóm Cấm. Cùng lối này ngày trước, thằng La vẫn đưa cơm cho mẹ, hay dắt cái Lê, cõng cái gái con ra hẳn cầu than kèm mẹ để lấy tiền về đong gạo, và bắt mẹ mua chịu bánh tây, khoai nấu xúp của bà hàng buôn ở dưới tàu cho ba đứa ăn những hôm nhà tiền cũng hết gạo cũng không. Chỉ có Gái đen và hai bà nữa là về trước tầm. Bọn gác cổng gọi cả hai bà kia khám. Gái đen không những không bị khám mà lại được chào hỏi rất thân mật, nhưng cũng rất nhả nhớt. Hai xe đạp của hai tên đội xếp ta liền đạp theo ngay bọn Gái đen.

Thấy mẹ La khừ khừ qua cổng, bọn gác quẳng cái bao tải lên đầu mẹ, cười bảo:

- Con mẹ kia, cho cái bao tải đây này. Bao còn mới đấy!

Mẹ La cuộn vội cái bao tải, cắp thêm vào nách, cảm ơn "chư ông" năm bảy lượt, rảo bước. Hai tên đội xếp đạp xe thì thầm thấm thúi một lúc với hai người đàn bà đi với Gái đen rồi quay lại Sáu Kho. Trên đường lối về ngõ Cấm chỉ còn mình Gái đen thoăn thoắt dưới hàng cây xoan tây vừa tối vừa ngổn ngang các thứ sắt gỗ gạch đá.

- Cô ơi! Cô ơi!...

Mẹ La vừa chạy, vừa thở vừa gọi:

- Cô ơi! Cô ơi!... Ơi cô ơi!

Tiếng mẹ La càng run gần như đứt hơi. Gái đen nhớn nhác quay lại:

- Không có gì đâu! Khỉ ạ... Có thì người ta khắc cho.

Mẹ La nghẹn cả cổ:

- Cô Gái ơi! Tôi đây mà.

Gái đen quát hẳn lên:

- Đã bảo hôm nay không có gì mà. Khỉ!... Khỉ!

Nhưng Gái đen chợt thấy một cái gì khang khác. Gái đen cúi hẳn xuống nhìn cái bà lão ốm o rách rưới lếch thếch như là ăn mày nọ.

- Bà cụ nào vậy? Tôi đã bảo hôm nay tôi không có gì mà, có thì tôi khắc gọi cho, không để bà cụ phải xin đâu!

Mẹ La òa lên khóc:

- Cô Gái đen ơi! Tôi đây mà... Tôi... cái nhà mẹ La đây mà! Chứ không phải là tinh là quái hiện hình, cũng không phải ăn mày ăn xin đón đường... Cô Gái đen ơi là cô Gái đen ơi!...

Gái đen giật hẳn cái nón mê mẹ La đội tụt xuống gáy ra. Gái đen nhìn tận mặt mẹ La. Gái đen nhìn cái sẹo to hơn đồng bạc ở đỉnh đầu trụi tóc của mẹ. Gái đen nhìn cái mặt choắt và cái miệng của mẹ vêu ra, răng lợi sao mà gớm ghiếc. Gái đen nhìn đôi mắt của mẹ tuy cố làm ra vẻ kèm nhèm nhưng để ý kỹ thì thấy nó quăm quắm thật là sắc sảo. Gái đen nắm chằm lấy cánh tay của mẹ vừa đeo bị vừa cắp bao tải mà gọi ríu cả lưỡi:

- Mẹ La! Giời ơi mẹ La!... Giời ơi là giời!... Mẹ thằng La!

Mẹ La cứ nấc mãi lên. Chợt Gái đen thấy tâm trí nhói buốt và chờn chợn. "Mẹ thì trốn tù; con thì làm đổ vỡ tan nát bao nhiêu đồ quý của nhà người ta và cũng đương đi trốn... Thật là nguy hiểm! Nguy hiểm quá chừng. Nhưng mà mẹ La ơi!". Khi những ý nghĩ kia vùn vụt qua tâm trí Gái đen, Gái đen cũng run run và luống cuống. Nhưng khi cái tiếng kêu "Mẹ La ơi!" cất lên xong, trong người Gái đen vừa nghẹn ngào, vừa bừng bừng hẳn lên. Gái đen cắn môi, nhìn hút cả phía trước phía sau, giọng nói nhỏ đi:

- Mẹ quay lại đi lối Máy tơ rồi về Lạc Viên với tôi! Mà mẹ định đi đâu, về đâu bây giờ?

Mẹ La mãi mới nói lên nhời:

- Tôi về với các cháu! Tôi trốn về với các cháu đây!...

- Mẹ định về nhà ở Cấm à?

- Khốn nạn cô ơi! Tôi lại về xóm Cấm để cả bốn mẹ con cùng chết với nhau à? Tôi tìm cô chỉ dám nhờ cô nhắn với thằng La cho nó biết tin mẹ nó đã trốn về được đến Hải Phòng rồi, nó đưa hai em nó đến cho tôi trông thấy mặt. Nó gặp tôi ở dưới Đống Nổi, Cầu Niệm hay đường Thiên Lôi hay Chùa Đỏ cũng được...

Mẹ La lại òa lên khóc:

- Cô Gái đen ơi! Cô thương cô giúp tôi. Giời ơi là giời! Tôi về được đến Hải Phòng, tôi lại được trông thấy cô, gặp được cô, đôi hồi với nhau, thật là như người chết được sống lại. Nhưng nếu tôi có sống mà lại phải xa các con, bỏ các con, xa cái đất Hải Phòng này, bỏ cái đất Hải Phòng này thì tôi... tôi sống cũng như chết thôi!...

Gái đen cũng giàn nước mắt. Gái đen phải cố nuốt nước mắt. Gái đen không thấy chợn, không thấy sợ gì nữa. Nhưng có bao nhiêu sự buồn phiền, chán ngán lâu nay như dây như dợ lại quấn lại xoắn lấy tâm trí Gái đen. Cùng khi đó một cái gì rưng rưng nở ra ở trong lòng Gái đen như là một nguồn ai ủi, tin cậy, kích thích, Gái đen khoác lấy cánh tay mẹ La:

- Thôi, cứ về Lạc Viên ăn bát mỳ vằn thắn hay bát chè hạt sen với tôi đã. Chiều tôi chưa ăn cơm mà chắc mẹ cũng đói. - Thấy mình nhỡ nhời, Gái đen vội nói xóa đi - Muốn sao thì sao hẵng ăn uống cho đỡ mệt rồi tôi nói chuyện. Nhiều chuyện lắm mẹ La ạ. Từ đầu năm nay lại càng lắm chuyện!...

Gái đen chói buốt cả tâm trí. Gái đen nghĩ thầm: "Rồi mình có nên bảo cho nhà mẹ La biết chuyện thằng La không? Và liệu mình có thể tìm được chỗ giấu giếm mẹ ta, cưu mang mẹ ta trong lúc này được không?".

*

Bây giờ chỗ làm ăn của mẹ La như thế cũng là yên ổn chắc chắn.

Mẹ làm ở nhà bếp Đại khách sạn Thiên Tân. Mẹ chỉ có việc vặt lông gà, vịt, ngỗng, chim câu, chim dẽ để nhà bếp nấu các món ăn và quay bán.

Đại khách sạn Thiên Tân nổi tiếng ngay từ ngày khai trương. Nổi tiếng vì những tòa nhà gác gác tầng tầng chiếm gần hết cả khu đầu cầu sông Tam Bạc. Vì những món ăn lạ nhất, cầu kỳ nhất, với những đầu bếp từ Bắc Kinh, Quảng Châu sang, vì người phục dịch tuyển như tuyển cung phi, toàn là những con gái xinh đẹp khéo léo, múa hát đàn nhạc đủ trò chiều chuộng. Vì những khách vừa yến tiệc, vừa bài bạc, tiền tiêu một bữa ăn hay một tiếng bạc của họ thừa nuôi sung sướng cả một đời con người nghèo đói. Nhiều lúc Đại khách sạn Thiên Tân gạt đi không hết khách. Không những khách Hoa thương triệu phú ăn chơi của các khách sạn Đại Á, Tân Á, Đông Kinh kéo sang, mà còn cả những khách Ănglê, Hà Lan, Ba Lan, quan ba, quan tư tàu, kỹ sư, chủ nhà băng, nhà máy, chủ hãng buôn nữa...

Ít lâu nay đến cả những khách của các cao lâu Cộng Hòa, Đào Viên ở ngõ Hàng Cháo và của các hiệu phở Hợp Lợi, hiệu bún thang nem rán, bún bò, nem nướng Bạch Ngọc cũng bị Đại khách sạn Thiên Tân cạnh tranh. Cạnh tranh với mấy thức ăn đặc biệt vừa ngon vừa rẻ. Một là gà, vịt, ngỗng và chim quay; hai là bánh bao và xíu mại bằng các thứ gan, tim và trứng, chuyên bán cho khách ăn sáng, ăn trưa, uống chè tàu. Đại khách sạn Thiên Tân phải thuê thêm ba gian nhà, bên kia đường Bônbe trước mặt ôten Ba Lê, để chỉ bán bánh bao xíu mại cho khách uống chè sáng trưa và bán thịt quay cho khách mua về nhà.

Cùng làm với mẹ La có một người khách già chuyên cắt tiết, mổ gà vịt. Còn mẹ La và người cháu gái ông cụ chuyên vặt lông làm lòng. Thịt quay ngày nào cũng không đủ bán. Không những chỉ khách lôm lam tham thích mấy món vừa ngon lại rẻ nọ. Cả những khách như đội Tây, đốc công, xếp máy cũng thú mấy món thịt quay của nhà Thiên Tân. Mẹ La phải làm từ chập tối đến gần rạng sáng. Trước kia đã có mấy người ở chân việc này. Nhưng họ chỉ ở được ít lâu rồi người bị nhức đầu chóng mặt, người bị kiết lỵ, nên ai cố lắm mới kham được vài tuần rồi đánh tháo. Tất cả những người này đều vay tiền trước hàng tháng nhưng nhà bếp khách sạn đều cho hết.

Hôm đầu vào làm đây mẹ La cũng phải sợ. Những chỗ nhốt gà, vịt, ngỗng, chim, thỏ, dê cũng giống như những xà lim của đề lao Hải Phòng, của nhà Hỏa Lò Hà Nội. Tường cũng quét hắc ín lắp toàn cửa gióng sắt, bưng lưới sắt. Vừa bước chân vào khỏi cửa, mẹ La hắt hơi một thôi một hồi tưởng chết sặc. Mẹ giật mình, nhớn nhác, gai gai cả người. Sau đó, mẹ ngẩng đầu lên trông lại càng choáng váng. Tất cả dãy chuồng và những bể nước, những cầu rửa, những mặt bệ xây xi măng để làm thịt gà vịt dê thỏ ở cái khu bếp này như ở dưới một đáy giếng. Giếng này lại vuông, bốn bề là những bức tường của tầng tầng lớp lớp gian kia buồng nọ, của bốn tòa gác chót vót. Hàng chục ống máng lắp cho nước chảy xuống. Ống bằng kẽm, ống bằng gang, ống bằng gạch tráng men. Những ống bằng gang to như những ống nước máy ngoài phố. Đó là những ống của các nhà xí, buồng tắm, bếp phụ của các tầng trên. Còn có thêm mấy cửa bếp và ống khói trổ ra ở thành giếng này.

Chính ngoài tường kia, liền ngay cạnh giếng là ngõ Vinh Phát Tường nhà ông cụ Vy, ông cụ Coóng.

Nhưng cả nhà cụ Vy đều không biết mẹ La làm ở đây. Cũng như mẹ La không biết có nhà cụ Vy ở đằng sau chỗ mình ăn làm. Như thế ở Hải Phòng hiện nay chỉ có hai người biết mẹ La thôi: Xim và Gái đen. Gái đen là người dắt mối chỗ làm đây cho mẹ La. Gái đen quen một bà già Khách vẫn đưa hàng lậu của Gái đen buôn từ Sáu Kho lên phố. Bẵng một dạo Gái đen không gặp bà ra Sáu Kho và đi phố. Hỏi ra thì bà ta vào làm cho nhà bếp khách sạn Thiên Tân. Một chủ nhật Gái đen đến nhà bà ta chơi, thấy bà ta ốm. Bà ta vừa bị nhức đầu chóng mặt vừa kiết lỵ. Bà đương khốn khổ khốn nạn vì cái bệnh não từ ngày vào chân vặt lông gà vịt ở khu đáy giếng đáy vực kia, định ì ra nghỉ ở nhà nhưng bọn làm bếp nhà Thiên Tân vẫn cứ cho người đến tận nhà lôi bà ta dậy đi làm. Bỗng được Gái đen đến thăm, chuyện trò và ngỏ ý muốn kiếm việc cho một người, bà già Khách nọ tưởng như được kẻ tìm ra người thế mạng. Gái đen bảo với bà rằng mẹ La tứ cố vô thân đi ở u già ngoài mỏ Vàng Danh, bị sốt rét ngã nước ốm quá phải lần về Hải Phòng, mẹ La thấy Gái đen đi tầm về hỏi có mượn làm người ở thì mượn, và chỉ dám xin ở không công cho đến chết! Lập tức bà Khách bảo Gái đen dẫn bà đi tìm ngay cái bà xin ở u già ấy. Gái đen nói Gái đen đương bận, chỉ có thể dặn chỗ cho cái u già ấy tìm đến thôi. Bà Khách còn cẩn thận đưa nào bánh bao, bánh tây, xíu mại, một gói trứng và hai hào cho Gái đen, khẩn khoản nhờ Gái đen đi tìm bảo ngay mẹ La đến.

Bọn nhà bếp Thiên Tân cũng mừng quá. Ông già Khách giữ chân chính làm gà vịt cuống quýt cả người. Tất cả không những mừng vì được người biết làm, làm nhanh, làm gọn, làm sạch sẽ, lại còn rất mực cẩn thận, rất mực chịu khó. Hơn nữa, người làm này có thể ở với họ lâu, ở mãi với họ. Bởi thế, sau vài hôm mẹ La ăn làm với bọn họ, thì cả bọn đều thở đánh phào, làm hẳn một bữa chén thịnh soạn trước để cáo tạ vua bếp sau để chính thức công nhận mẹ La.

Mẹ La ăn ở ngay nhà bếp.

Chỗ mẹ La nằm riêng nửa gian buồng củi, cạnh kho nhà bếp, sau dãy chuồng gà, vịt, dê, thỏ. Bọn nhà bếp cho ngay mẹ La một cái giường gấp vải bạt mới, một cái màn cũng mới. Tuy chỗ nằm này còn chật còn tối hơn xà lim và chỗ làm chỗ ăn ở còn nhớp nháp hôi hám hơn nhà ngục, nhưng mẹ La không thấy khổ sở, cực nhục gì cả. Bước chân vào một nơi có công ăn việc làm, nhất là lại được mọi người quý mến, mẹ La thấy như thế là từ nay mẹ được sống rồi.

Mẹ La ăn uống thấy ngon và mỗi ngày ăn khỏe thêm. Mẹ ngủ cũng đẫy giấc, khi dậy rất tỉnh táo. Mẹ bỏ được thuốc lào nhưng lại nghiện một cái nghiện khác: chè tàu pha đặc. Bọn nhà bếp cho mẹ hàng hai ba lạng chè, thứ chè quý nhất để khách uống giữa những bữa tiệc cho đỡ ngấy thịt ngấy mỡ, lại ăn cho ngon miệng. Đường trắng đường phèn phần mẹ cũng hàng liễn. Thấy mẹ vào làm đã được nửa tháng, vậy mà trưa tối và cả ngày chủ nhật không đi đâu và có vẻ ngại đi, sợ đi, bọn nhà bếp cho rằng mẹ hà tiện. Họ bảo mẹ làm xong phần việc thì cứ tha hồ đi chơi. Muốn xem tuồng xem hát ở rạp nào họ cũng cho tiền lấy vé. Họ đã dúi cho mẹ kẻ một đồng, người năm hào, để mẹ may mặc hay tiêu gì tùy ý.

Chưa bao giờ mẹ La béo khỏe như thế! Nhưng mẹ càng thấy mình được như thế lại càng bứt rứt bồn chồn. Tin tức thằng La và con bé út của mẹ càng khiến mẹ nhiều khi đương làm việc hay canh gà thức giấc lại thấy như bị nung nấu trong ruột trong gan. Phải! Vẫn là tin tức thằng La và cái gái em nó thôi! Bởi vậy khi có kỳ hẹn của Gái đen, nhất là kỳ hẹn của Xim đến thăm mẹ, đối với mẹ không kém gì hồi hộp vui mừng như những kỳ trước đây mẹ mong "có phép" ở đề lao Hải Phòng và Hỏa Lò Hà Nội.

*

Từ những chậu rửa mặt, chậu tắm đến chậu rửa chân, đôi giày, đôi guốc của những người nấu bếp đều được mẹ La chăm sắp đâu vào đấy. Ai bỏ quên hay vương vãi cái gì, mẹ La cũng nhặt cũng cất cho. Biết của ai thì mẹ để vào chỗ người ấy. Không biết của ai thì mẹ để ở chỗ mắc quần áo, thay tạp dề chung. Tất cả đồ đạc như dao, thớt, khăn tay, khăn lau, khăn quàng và ấm chén uống nước dùng chung của nhà bếp, bao giờ cũng gọn ghẽ sạch sẽ. Mẹ La nghe và nói được dăm ba tiếng Quảng Đông nên nhiều lúc đón được ý của người định sai bảo, mẹ làm ngay không phải đợi người đó phải nói hay ra hiệu.

Cả ngày mẹ La chỉ làm và làm. Hết thu dọn quét tước chỗ của mình, mẹ lại thu dọn quét tước chỗ của các người nấu bếp. Hình như không có lúc nào mẹ nghỉ chân nghỉ tay. Và mẹ rất ít nói. Người ta thấy mẹ La rất ít nói vì lúc nào họ cũng thấy mẹ La không lúi húi ở chỗ làm gà vịt, lại cắm cúi ở các chỗ khác với cái chổi, cái khăn lau, lọ thuốc đánh đồng, hộp xi và xà phòng, bàn chải... Nhiều trưa, nhiều tối mẹ lại khâu vá. Mẹ khâu vá cho mẹ và cả cho nhà bếp nhiều thứ đáng nhẽ bỏ đi. Cống rãnh từ ngày mẹ vào làm không hề đọng rác, bớt hẳn ruồi nhặng. Chỗ nào cũng ngăn nắp sạch sẽ. Lúc tất bật dồn dập cũng như lúc ngớt việc nghỉ ngơi, mọi người đều vừa lòng vừa ý vì có mẹ La đón công đón việc, thu dọn xếp đặt.

Sáng nay chủ nhật. Lại thêm mấy lồng gà, ngỗng, vịt nhưng mẹ đều làm xong. Mẹ dậy từ lúc một giờ, đặt nước làm lòng, sắp dao sắp thớt rồi mới đánh thức hai ông cháu ông già Khách cùng làm với mẹ. Người nấu bếp trông coi việc quay thịt để sẵn một nửa đùi gà quay và một đĩa xá xíu cho mẹ ăn với bánh bao nhưng mẹ chỉ uống nước chè. Người nấu bếp trông coi việc làm bánh bao cũng phần cho mẹ một liễn sữa đậu nành và hai cái tào cheéng bày vào khay đồng, đậy khăn ăn trắng muốt. Mẹ La uống nước chè xong còn bày biện ấm chén sẵn cho bọn nhà bếp rồi mới ăn sáng. Mẹ chỉ ăn chỗ sữa đậu còn tất cả những bánh thịt nọ mẹ gói vào hai tờ giấy bản to.

Mẹ La chờ Xim.

Đồng hồ trên một tầng gác đã điểm chín giờ. Mẹ La đương đánh chậu và giặt khăn tay cho những người nấu bếp thì ông bếp chính đến gọi mẹ bằng tiếng Quảng Đông:

- Cái bà già chịu khó kia, bà cũng phải biết thương hai cái bàn tay của bà, và bà đừng để cái giời cái đất nó chóng mặt vì bà chứ! Bà bỏ mẹ việc đấy mà ra đón cái người nhà nó đến thăm kia kìa. Hầy à à hầy à à à... bỏ việc đấy! Bỏ mẹ việc đấy! Đi đi...

Mẹ La quên cả khăn vắt vai, chùi chùi tay vào vạt áo, cuống quýt đứng dậy. Thấy mẹ La cầm gói bánh thịt đưa đến chỗ mọi người đương thái thịt chặt xương xào nấu món ăn, mở ra cho mọi người xem để phân bua, thì tất cả đều xua xua tay, cười hô hố vừa chửi mẹ La, đuổi mẹ đi quầy quậy. Tuy mẹ La đã biết Xim chỉ đến một mình nhưng mẹ vẫn cố nhìn xem có cái gái Lê của mẹ không. Và mẹ cứ ngờ ngợ như là có cả thằng La cõng em nó đi theo Xim ở đằng xa, nhưng vì quá giữ gìn cho mẹ con nhà mẹ nên Xim không để cho mẹ con nhà mẹ gặp nhau. Mẹ La lại càng tiếc, lần trước gặp Xim chuyện với Xim ít quá nên không được nhìn lâu mặt cái gái Lê. Đã thế mẹ lại còn che mặt với cái khăn vừa dày vừa to nên chỉ thấy thoáng con bé. Thật là quá cẩn thận! Mẹ La đã không để cái gái Lê nhận mẹ, lại còn nghe Xim bắt con bé ngồi ăn một chỗ, làm như mẹ là người nào ấy bắt chợp gặp Xim. Một điều tiếc nữa, sao Xim không ngồi ăn ở cái hàng nem rán, bún xáo vịt gần ngay đấy, mà lại chỉ uống nước, ăn chuối, ăn bánh nếp ở hàng bà lão chỗ gốc cây, không để cái gái Lê của mẹ được ăn bữa quà cho đáng quà, ăn thỏa thuê mừng cái ngày mẹ con lại được gần gụi nhau?

Xim không đi qua ngõ nhà cụ Vy mà đi vào lối cổng sau của khách sạn Thiên Tân. Xim đội nón, đeo kính râm, mặc áo dài vải mỏng nhuộm nâu non đã bạc, tay xách cái làn mây cũ. Men mén đi bên mé tường nắng chiếu, Xim trông càng nhỏ nhắn ý tứ. Mặc dầu, trước khi vào cổng Xim đã đứng lại cúi xuống gõ gõ chiếc guốc làm như bị tuột đinh để nhận xét ở ngã tư cầu Hạ Lý cũng như ở hai bên đường trước cửa khách sạn Thiên Tân, xem có gì đáng nghi ngại không, Xim vẫn còn liếc mắt trông lại và nghe ngóng. Chỉ có hai cái xe ba gác chở than quả bàng đi ra và hai mẹ con bà lấy nước gạo đi vào cổng. Và khi mẹ La ở nhà bếp ra đón Xim vào cái kho chứa các thứ đồ hỏng đồ cũ của nhà bếp, thì không có một ai ở cổng. Khép vội cửa lại, chưa kịp ngồi xuống đống thùng gỗ, mẹ La đã nắm lấy tay Xim và phải cố giữ nước mắt.

- Cô nhớ lối giỏi nhỉ? Cứ đi thẳng vào chẳng phải hỏi han gì cả! Cô ơi! Cái Lê cháu đã xin vào học được rồi chứ? Bộ quần áo cháu mặc có vừa không? Cái lược để cháu cặp tóc có xước đầu cháu không? Có xước thì cô mua cho cháu cái khác.

Đến cái câu ngập ngừng hỏi Xim về tin tức anh em thằng La thì mẹ La lại giàn nước mắt. Xim lại phải an ủi:

- Mẹ cứ yên tâm, thế nào tôi cũng dò hỏi ra tin tức các cháu. Can hệ nhất vẫn là mẹ phải giữ thật kín tung tích của mình. Hơi thấy gì khác thì phải xem xét cho kỹ, liệu bề đối phó ngay. Dạo này không xóm nào ngõ nào chúng nó không sục sạo. Đâu cũng có người bị bắt. Những cái quân ăn cả cứt ấy là thính hơi lắm! Chẳng nói mẹ cũng biết tình thế chiến tranh ngày càng gay gắt, thì người mình càng bị thắt buộc, càng khốn khổ. Còn chúng nó...

- Bà bị cảm uống thuốc đã đỡ chưa? Bà già lắm, liệu ốm như thế có gày yếu lắm không?!

Thấy mẹ La bắt san