← Quay lại trang sách

Cơn Bão Đã Đến Chương 7

Quân Pháp phải hàng rồi!

- Pari chịu hàng rồi!

- Quân Đức đã vào thẳng Pari rồi!

- Chính phủ Pháp phải đầu hàng Hítle vô điều kiện rồi!

- Quân Hítle đóng hết nước Pháp rồi!

- Nước Pháp thua rồi!

- Nước Pháp hàng rồi!

- Kinh đô Pari tuyên bố bỏ ngỏ đón quân Đức vào chiếm đóng rồi.

- Nước Pháp bị chiếm đóng rồi!

- Pari không chống cự gì cả, bỏ ngỏ chịu hàng rồi. Nước Pháp bị chiếm đóng hết rồi!

- Quân Pháp thua rồi!

- Nước Pháp bị quân Hítle chiếm đóng hết rồi!

- Chính phủ Pháp đầu hàng Hítle vô điều kiện rồi!

- Thống chế Pêtanh đương gọi ra lập chính phủ để phục dịch cho quân Đức.

- Không biết Đông Dương rồi ra sao đây?

- Đông Dương cũng phải hàng quân Đức chứ còn gì nữa!

- Nước Pháp thua rồi!

- Nước Pháp bị quân Đức chiếm đóng hết rồi!

... Những ngày tháng sáu 1940 lịch sử của nước Pháp, của nước Đại Pháp, của đế quốc Pháp, của Đại cường quốc Pháp!

Những ngày đã diễn ra một không khí rất đặc biệt ở thành phố và hải cảng Hải Phòng.

Ở Hải Phòng, không khí của những ngày đó rất đặc biệt, vì giữa những biến cố trọng đại như thế của Mẫu quốc Đại Pháp, thì cái cửa biển và thành phố lớn của một thuộc địa được coi như là "con gái đầu lòng của Mẫu quốc" kia cứ bình thản như không biết có việc gì xảy ra cả. Chừng như ngày tháng nơi đây vẫn là những năm 1905, 1910, 1925-1926, 1932-1933... Chừng như đây là một cái đất thuộc về của ai, còn những người cầm quyền ở đất ấy tuy vẫn là những quan lớn ông, quan lớn bà và những ông chủ bà chủ Tây đầm hẳn hoi, nói tiếng Phú Lãng Sa cũng hẳn hoi, nhưng lại như không phải là người giống Gôloa, nước họ không phải là nước Pháp vừa có cái kinh đô Pari phải tuyên bố mở toang cửa để đầu hàng và khắp nơi đã bị quân nước ngoài chiếm đóng vậy. Phải, họ vẫn là những ông chủ, bà chủ, quan bà, quan ông của các kẻ bề dưới mà một ai kia nếu dám có một chút vẻ mặt hay ánh mắt lộ ra cái ý muốn hỏi họ, xem họ nghĩ gì về những sự việc nọ, thì lập tức các con người bề dưới đó sẽ được tất cả sự bệ vệ, nghiêm nghị và lạnh lùng khinh bỉ của họ dồn xuống ấn xuống mặt đất, rồi được nghe những câu nói đại để như thế này:

- Đức chúa Trời ơi! Chúng mày vẫn là đồ ngu tối! Những quân tôi mọi, nô lệ, lạc hậu như thứ chúng mày, làm sao mà hiểu được những sự việc như thế?! Nước Pháp trước cũng như sau vẫn là nước Pháp, vẫn là đế quốc Pháp. Quân Pháp tuy thua nhưng là quân Pháp thua, nước Pháp tuy bị chiếm đóng nhưng là nước Pháp đi chiếm đóng, kinh đô Ba Lê tuy bỏ ngỏ chịu hàng không chống cự nhưng vẫn là kinh đô Ba Lê!... Còn chúng tao vẫn là người Pháp cai trị chúng mày, và xứ sở này vẫn là xứ sở thuộc địa của chúng tao!... Chúng mày chỉ được hiểu như thế và chỉ cần hiểu như thế để mà giữ lấy cái sự sống vẫn còn ở trong tay chúng tao, vẫn cứ mãi mãi phải ở trong tay chúng tao... Và cũng vẫn mãi mãi ở trong tay chúng tao, tất cả những cái gì là văn minh, là sung sướng trên cái đất này, tất cả vẫn đều do tay chúng tao mà có, do tay chúng tao ban phát cho mà có.

Những ngày tháng sáu 1940 đặc biệt ở Hải Phòng!

Hải Phòng vẫn yên ổn và nhộn nhịp vui vẻ.

Hải Phòng thuộc địa của nước Pháp càng yên ổn nhộn nhịp vui vẻ vì các người Pháp ở đây.

Hiệu thực phẩm Sápphănggiông vẫn sáng sáng đầy đủ sữa tươi, bánh mì, cam, lê, nho, táo và rượu vang dành riêng cho các ông Tây bà đầm sai bồi bếp, vú em đi mua. Có những kẻ mua không phải chỉ một hay hai chai sữa tươi mà xách cả một cái thùng hàng mười lăm hai mươi chai.

Hiệu thịt Mixô vẫn sáng sáng đầy đủ thịt bò để làm bít tết và các thứ xương tủy để nấu xúp cho người, và gan nấu cho chó.

Các hiệu thuốc tây Bútmít, Lacôm vẫn đầy đủ các loại thuốc chế sẵn và những vị thuốc quý pha chế theo đơn mà cũng chỉ các ông Tây bà đầm mới được mua.

Các hàng hoa ở đầu vườn hoa sông Lấp vẫn đầy đủ: lagiơn, viôlét, hồng nhung, hồng bạch đẹp nhất, quý nhất mà cũng chỉ các ông Tây bà đầm là người có đặc quyền thưởng thức.

Hai hiệu Giarôđôn và Pônxabô cũng vẫn đủ mẫu hàng vải lụa và đồ trang sức cực đẹp để các khách sành mặc, sành dùng, xem ngắm, kén chọn, sắm sửa; - vẫn là những khách Tây đầm sang trọng, họ chỉ đến những cửa hiệu này và coi cái việc phải vào những hiệu xoàng xĩnh của người An Nam, người "khách" mà sắm sửa là một điều ê chề, mất hết cả thể diện!

Nhà chớp bóng Côlibờri vẫn chiếu những buổi không cần phải tuyên bố dành riêng cho các ông Tây bà đầm nhưng nếu có một vài người khách xem là An Nam, thì những người này cũng phải lén lút, xúi xó, tan buổi phải đi ra trước cho nhanh hay lùi lại về sau cùng.

Và ở nhà thờ lớn, những dãy ghế ngồi đã có chỗ quỳ lót đệm nhung kề ngay bực chịu lễ, lại còn một khoảng lan can cách biệt hẳn ra, cũng vẫn là những chỗ ngồi xem lễ của các bậc giàu sang quyền quý, các vị Tây đầm của thành phố.

Một buổi sáng chủ nhật, qua quãng đường từ phố Cầu Đất, qua phố Lacôm, đến phố Bônbe vừa yên ổn, vừa nhộn nhịp, vui vẻ nhất của Hải Phòng kia, cũng có một cái sự đặc biệt đã làm nhiều nhà trên quãng đường đó phải chú ý, chỉ trỏ bàn tán với nhau, và cũng sửng sốt như khi nghe tin Pari tuyên bố mở toang cửa đón quân Đức vào vậy.

Cái sự đó là ông Thái làm thư ký đầu bàn giấy nhà Đờvanhxy con đến sở.

Phải, đến sở Đờvanhxy, ông ký Thái ngày ngày vẫn đi qua mấy quãng đường này.

Người hàng phố thường thấy tầm sáng, không hiểu từ nhà ông ra đi lúc mấy giờ, chứ cứ lúc ông đến ngã tư Cầu Đất thì đúng sáu giờ ba mươi phút. Rồi khỏi ngã tư Cầu Đất đến ngã ba ông rẽ vào nhà thờ lớn, thường vào lúc đồng hồ nhà thờ nhích kim phút đến gạch ba mươi lăm. Cũng thường đến đây, ông móc chiếc đồng hồ Ômêga vỏ vàng ở túi cạp quần ra xem và lên đúng mười vòng dây cót. Bỏ đồng hồ vào hộp da cài vào túi cạp quần xong, ông lại, đầu cúi cúi, chiếc cặp khệ nệ cắp bên tay phải, đi men men sát hàng hiên nhà hàng phố. Qua ngã tư Bônbe, rẽ ra vườn hoa đầu cầu Hạ Lý trên sông Tam Bạc, ông ký Thái đến Sở. Cửa buồng giấy của ông tự tay ông mở, ông ngước mắt nhìn đồng hồ sở. Đúng sáu giờ hai mươi bảy phút. Ông lấy phất trần phủi bàn ghế, khay bút mực rồi lại chỗ cái đồng hồ treo, lên dây.

Đúng sáu giờ ba mươi phút.

Và đã ba mươi năm.

Ngày ngày, mùa nào giờ ấy, tầm sáng, tầm chiều, người hai bên phố nhắc nhở nhau, nhắc nhở người làm trong nhà, nhắc nhở con cháu hay trả lời ai về giờ giấc, đều lấy ông ký Thái làm chuẩn, trừ các ngày chủ nhật hoặc ngày lễ. Nhưng hôm nay rõ ràng là ngày chủ nhật mà vẫn thấy ông đi qua, và giờ giấc ông đi lại sai lệch quá! Người ở ngã tư Cầu Đất thì thấy khi ông đến lại là tám giờ mười phút; còn người ở ngã ba nhà thờ lớn thì thấy lúc đó đồng hồ trỏ tám giờ hai mươi. Người bán cà phê patê bánh tây và người bán bánh cuốn, xôi chè ở gần sở Đờvanhxy thì ngạc nhiên, ngỡ hôm nay không phải là chủ nhật. Và tất cả mọi người đều sửng sốt vì sự ăn mặc và dáng dấp của ông ký Thái. Giời bức mà ông mặc com lê, gi lê, ca vát. Ông không đội mũ dạ cũ mà đội mũ mốt săng xám nhạt. Người ông không thoang thoảng mùi dầu quất thần mà là một mùi nước hoa rất kín đáo. Còn tay phải ông không cắp một chiếc cặp da nặng trễ mà ôm một bó hoa vừa lagiơn hồng, vừa hồng nhung, bọc giấy bóng trắng, thắt dải xa tanh hồ thủy... Bọn con trai trố cả mắt ra nhìn. Bọn con gái thì bấm nhau, hích nhau, bậm miệng lại mà cười. Nhưng có mấy người không những đã không ngạc nhiên lại còn thấy vẫn không có gì là đặc biệt là khác thường đối với người thư ký quen thuộc kia cả.

Vì họ lại nhớ ra, hôm nay lại là ngày sinh nhật của ông chủ ông thư ký Thái: thằng Đờvanhxy con, "gấu" nổi tiếng ở Hải Phòng.

Khi ông ký Thái đến sở, người bồi và người loong toong liền lần lượt bưng những khay đồ lễ mừng lên phòng khách lớn. Ông ký Thái bảo xếp những thứ của người làm trong sở và những người quen sơ của Đờvanhxy vào một bàn. Còn những bó hoa, những bưu thiếp, những thư và quà tặng đặc biệt thì chuyển sang phòng khách riêng. Trong cái đống đồ lễ mừng thứ hai này có cả thư, hoa, quà của vợ, của con gái yêu, con trai quý của Đờvanhxy ở Đà Lạt gửi ra.

Chín giờ kém mười lăm, Đờvanhxy ở trên gác xuống. Y mặc bộ phơlanen màu be nhạt, ca vát màu thẫm hơn một chút. Tóc y chải mà tưởng như không chải, bồng bồng làm gương mặt càng sáng, càng hồng hào, và cũng càng lạnh lùng, kiêu kỳ. Không cần phải nghe bước chân hay thấy bóng người của Đờvanhxy, ông ký Thái cũng như bị truyền bằng thứ điện riêng, đứng ngay dậy mở cửa vừa lúc Đờvanhxy xuống tới bậc thang cuối cùng. Tay trái ông ký Thái giữ lấy cánh cửa, tay phải ông ký Thái mở ra, đầu và người ông nghiêng một chút về mé phải, ông nói bằng một giọng vừa lễ độ vừa cảm động của một người làm công đã có tuổi:

- Kính chào ngài Đờvanhxy. Xin phép ngài Đờvanhxy cho tôi được dâng lên những lời trang trọng và sung sướng nhất của tôi chúc mừng lần thứ bốn mươi tư ngày sinh nhật của ngài. Thật là một vinh dự và một niềm vui vô cùng của tôi, tôi xin ngài nhận lấy lời tôi chúc mừng ngài và quý quyến một nguồn hạnh phúc tuyệt vời...

Đờvanhxy cười mỉm, gật đầu, đưa tay ra bắt tay ông

ký Thái:

- Chào người thư ký già của tôi! Xin rất cám ơn người thư ký già của tôi. Trong cái nguồn hạnh phúc tuyệt vời mà người thư ký già có tính thận trọng và được tôi quý mến vô cùng, đã chúc mừng tôi nhân ngày sinh của tôi, tôi cũng vui sướng chúc mừng lại ông vừa cả sức khỏe, sự minh mẫn trong công việc và hạnh phúc trong cuộc sống.

Đờvanhxy bước vào phòng khách. Tuy đã quá quen thuộc cái chỗ ở cũng như cảnh lộng lẫy này rồi, Đờvanhxy vẫn không khỏi có một chút khinh khoái nhưng cũng thấy cả một sự buồn thảm mà y không thể nào cưỡng chống nổi khi y đưa mắt nhìn suốt một lượt gian phòng đã rực rỡ trong ánh điện và các đồ pha lê, gấm, nhung, vàng, bạc, lại còn ngồn ngộn một mặt bàn đầy những hoa, thư thiếp, quà mừng.

- Ôi! Đức chúa trời của tôi! Hôm nay có phải là ngày để chung quanh chúc mừng tôi, hay lại là ngày để cái thằng gãi giấy An Nam kia nó chửi xỏ tôi, nó ăn mừng sự thất bại bi đát của nước Pháp, Ba Lê phải bỏ ngỏ và đất Pháp bị chiếm đóng?! Trời ơi! Có phải như thế không? Có phải chính cái thằng già gãi giấy bảy lần trung thành với tôi và phục tùng tôi còn hơn cả con chó ấy, giờ đây nó cũng trở mặt xỏ xiên và định cắm sâu dao găm vào lưng tôi không?!

Đờvanhxy tự nhủ vừa bước đến cái bàn quà mừng. Y cầm lên xem cái lẵng hoa bọc bằng một thứ voan hồ thủy gửi tàu bay ở Đà Lạt ra, gói mứt dứa và cái hộp bằng nhung lam trong đựng một bản nhạc chính tay con gái lớn y chép, và cái hộp bằng gỗ trầm trong đựng một bức tranh của con giai bé y vẽ chì màu, cảnh một dòng suối, một cái cầu và một cái nhà như kiểu cầu và nhà cửa của y thường thầu làm. Ông ký Thái đặt tất cả những thứ đó vào một cái khay bạc lót một miếng đăng ten, đưa đến chỗ Đờvanhxy ngồi. Đờvanhxy chờ ông ký Thái bày xong rồi giơ tay:

- Người thư ký già của tôi, ông ngồi xuống đây với tôi. Mà này ông! Tôi lại muốn tôi được cùng nâng với ông một cốc rượu, ông nhận lời tôi mời chứ?

Người bồi quần áo trắng đầu chải bóng nhẫy, bưng ra một khay bạc có hai cốc pha lê và một chai sâm banh, cúi cúi mở rượu rót ra cốc. Đờvanhxy đứng lên nâng cốc. Y nhìn người thư ký lập cập nâng theo cốc rượu, lưng hơi khom, tay run run, mắt đeo kính trắng cứ lấp la lấp lánh. Vẫn giữ nụ cười ngạo nghễ, Đờvanhxy chạm đánh cách chiếc cốc của y vào cốc người thư ký. Lại một ý nghĩ bốc lên trong đầu Đờvanhxy theo hơi men ngọt lịm của cốc rượu vừa uống cạn một hơi:

- Hay thằng già ngoan ngoãn và mụ mị này cũng vẫn chỉ là đóng kịch? Ai biết đâu nó cũng là một thứ Giuđa? Cốc rượu của nó vừa chạm cốc rượu của ta một cách hồi hộp và hân hoan kia, chính là để ăn mừng sự thất bại của quân đội Pháp như ta đã nghĩ, và ăn mừng rồi đây sẽ có một cuộc xoay chuyển ở đất Đông Dương này mà những mọi rợ nô lệ bản xứ nhân đó có thể sẽ làm nên công nên chuyện gì chăng?

Đờvanhxy càng lạnh lùng nhìn khoảng không ở trước mặt, môi vẫn bĩu một nụ cười rất kẻ cả và ngạo mạn. Y uống luôn một hơi cốc sâm banh nữa, rồi lại để câu nói thầm của y phào phào lên với hơi men:

- Sao? Một chuyện vô lý, một chuyện không thể nào có được! Một cuộc thay đổi không thể nào có được! Lại những cái không thể quan niệm được! Hoặc giả cái chuyện đó, cái cuộc đó, cái cử chỉ đó ở trong một cái óc tưởng tượng ngốc nghếch thì không nói làm gì, chứ những quân khốn kiếp kia mà dám có những hành động, phải! Bất cứ một hành động phản đối gì, thì lập tức những sự trừng phạt từ trước đến giờ mà chúng nó đã gọi bằng những chữ cũng khá đúng là những kinh nghiệm xương máu, sẽ giáng xuống đầu chúng nó!...

Chợt Đờvanhxy chừng những ý nghĩ lại... Y nhìn ông ký Thái, bàn tay run run đặt trên đùi cứ như muốn xoa nắn vuốt ve, bồn chồn luống cuống, còn sắc mặt ông thì hừng hừng ở hai gò má. Trong khi ấy, cặp mắt nheo nheo dưới cái trán ngắn, da nhăn mốc của ông càng như bị nhức nhói vì luồng điện mắt Đờvanhxy, và càng như lộ thêm những vẻ chịu ơn và cảm động. Đờvanhxy vẫn làm ra vẻ như không để ý, không nhìn ông ký Thái. Nhưng y cố thu nhận lại một lần nữa tất cả những cái gì là tình ý và thần sắc ở bộ mặt của cái con người làm con vật mồi của y. Y cười thầm với y:

- Thưa ông Đờvanhxy! Hình như ông hơi mất bình tĩnh rồi đấy ạ! Hay nói một cách khác, ông vận dụng sự suy nghĩ, óc tưởng tượng và sự cảm xúc của ông một cách cũng hơi khá phí phạm đấy! Cái người đầy tớ có tuổi, có tính thận trọng và được ông rất tin cậy ấy, cho tới bây giờ và cả về sau nữa, cũng vẫn chỉ là một người đầy tớ có tính thận trọng và được ông rất tin cậy mà thôi! Phải! Không hơn, không kém, không thay đổi gì cả! Điều đó làm gì mà ông chả rõ, với một con người đã gãi giấy và chăm lo đến mức lẩm cẩm bất kỳ công việc lớn nhỏ gì của nhà Đờvanhxy, từ ngày hắn làm cho cha ông, rồi đến làm cho ông. Nước Pháp có thất trận, đất Pháp có bị chiếm đóng, hay có trời long đất lở gì chăng nữa, cũng không quan hệ gì đến hắn cả, một khi cái bàn giấy của nhà Đờvanhxy vẫn là nơi vững chắc, yên ổn thân thuộc của đời sống của hắn... Đấy là sự khác và cách biệt nhau giữa nô lệ và tự do, giống này khác giống kia, trí tuệ và tri thức của một loại người này mà một loại người khác không thể nào có được, không thể nào vươn lên được... là thế đấy! Đấy là cái nét đặc biệt, cái địa vị bất di bất dịch, cái quyền thống trị, cái đáng được sống được hưởng như thế nào giữa con người này với con người khác, giữa giống người này với giống người khác, giữa Đờvanhxy chủ với cái kẻ đầy tớ già có tính thận trọng một cách lẩm cẩm tên là Trần Văn Thái kia, cái kẻ mà ông Đờvanhxy nhà ta đã hơi quá nóng đầu nghĩ ngợi tô vẽ cho y nhiều chuyện kỳ quặc...

- Nào! Người thư ký già có tính thận trọng và đáng tin cậy vô cùng của tôi, tôi muốn ông vì ngày vui của tôi mà quá chén với tôi một lần nữa nào. Với cốc này, tôi cũng chúc mừng ông thêm sức khỏe, sức khỏe cần thiết cho một người rất thân tín của tôi là ông mà tôi thấy ít lâu nay có vẻ bị gày sút đi...

Đờvanhxy vừa dứt lời người bồi lại đã đem sâm banh đến. Cả hai cốc pha lê đều lung linh sóng sánh dưới một làn bọt sủi trắng lên. Bàn tay gày của ông ký Thái nâng cốc mình chạm vào cốc của Đờvanhxy cũng run cũng ngượng như lần trước. Và gương mặt của ông càng như thêm hân hoan, vẻ hân hoan của một con người ít khi bị xúc động, ít khi có những phút giây sống đặc biệt ra ngoài khuôn khổ như thế này.

Phải! Chạm cốc với Đờvanhxy, người thư ký già kia vẫn run run cái bàn tay xanh gày, nhưng đó là vì một sự xúc động khác. Một sự xúc động mà Đờvanhxy không thể nào đoán ra được, không thể nào tưởng đến được. Cũng như đôi gò má của người thư ký già ấy hừng hừng, và dưới cái trán ngắn, da nhăn mốc, đôi mắt ông nheo nheo có những ngấn sáng long lanh, là do một sự xúc động mà Đờvanhxy cũng không thể nào nghĩ tới được. Cũng như nếu Đờvanhxy tin rằng đôi mắt thần của y có thể nhìn qua cái trán ngắn, da nhăn mốc kia, thấu suốt vào đáy não con người ấy, thì thật là y không những lầm to mà còn là thậm ngu ngốc nữa!

Thật vậy, trong lúc Đờvanhxy ngắm nhìn ông ký Thái mà suy nghĩ và tưởng rằng ông ký Thái vừa là một đối tượng bằng xương bằng thịt thụ động trước mặt y, một con rối cho y tung giật, thì chính ông ký Thái cũng ngắm nhìn lại Đờvanhxy vừa suy nghĩ mà Đờvanhxy không thể nào ngờ được. Vừa ngắm nhìn Đờvanhxy, ông ký Thái càng thấy như mình đương xem một kẻ đóng kịch mà lần này ông thấy thật là y càng diễn tồi, cứng queo, khá là kệch cỡm và cũng thật gớm ghiếc.

Chao ôi! Cốc sâm banh thứ hai kia Đờvanhxy nâng uống để chúc mừng sức khỏe của ông ký Thái đấy. Và y cảm động vì lâu nay thấy ông ký Thái gày sút đi. Đúng vậy sức khỏe là rất cần thiết! Nhưng sự gày sút của ông ký Thái lại không cần đến cái thứ sức khỏe của Đờvanhxy chúc mừng cũng như không cần đến cái thứ người chúc mừng như Đờvanhxy.

Gần năm nay, đúng ông ký Thái gày sút đi nhiều, và mấy tuần nay ông càng bị ít ngủ, càng không muốn ngủ. Bà vợ nằm ở giường gian nhà ngoài luôn luôn phải nghe thấy và nghe thấy rõ từng tiếng chép miệng, từng cái tặc lưỡi, từng cái duỗi chân, từng tiếng thở dội, từng tiếng dép khua động, và từng tiếng nói mê, nói sảng của ông. Không biết bao nhiêu lần bà nói như van như lạy để ông chỉ uống cho bà dăm thang thuốc bắc, hay chỉ ăn cho bà một tễ thuốc bổ mà không được. Thậm chí bà hầm chim, ninh gà, nấu chè, tìm các cách làm những món ăn với những vị thuốc bắc rất quý để ông chỉ húp lấy lưng bát nước thôi, nhưng hễ bà bưng khay lên thì ông lại bắt bà lấy thêm bát thêm thìa, sẻ chỗ thức ăn kia ra, bắt bà ăn non nửa, còn già một nửa ông chia ra chỉ húp mấy thìa, còn phần để lại thì đem cho người con dâu trưởng đương nuôi con bú. Trái lại, bữa ăn với những dưa chua, đậu rán, tương, muối vừng, canh rau muống cà ghém, nói chung là những thức ăn mặn muội xềnh xoàng khác, ông lại ăn được đều mỗi bữa hai bát cơm với một miếng cháy cạy nồi ăn trước khi tráng miệng với hoa quả kẹo mứt...

- Chiến tranh thì mặc xác chiến tranh! Chiến tranh ở những bên Tây, bên Đức. Việc gì mình phải lo! Các ông ấy chiến tranh thì cứ chiến tranh, mình làm ăn thì cứ làm ăn! Cùng quá bên này cũng có chiến tranh thì cứ việc dọn cả nhà về quê. Chạy đói lên Bắc, chạy giặc về Nam. Quê mình lại là Nam Định, nhà cửa, ruộng vườn đủ cả cơ mà! Ai chứ tôi thì về quê làm ruộng cũng được. Gia bản là hột thóc! Có thóc để ăn trong nhà thì không lo gì cả!

Bà vợ ông ký Thái quanh đi quẩn lại vẫn ngần ấy câu nói lúc thì dẽ dàng, lúc thì dằn dỗi, rồi lại dẽ dàng nói với chồng. Nhưng không, ông ký Thái không vì chiến tranh mà nghĩ ngợi, lo lắng và sợ hãi như kiểu bà vợ ông tưởng đâu! Những mối nghĩ ngợi, lo lắng, sợ hãi của ông chính vì nhiều điều khác, và ông không thể nào nói ra như bà được, cũng như không thể nào nói ra với bà được.

Ông ký Thái thấy rất rõ trong chiến tranh đâu chỉ có đói, có trộm cướp, giặc giã như bấy lâu người ta thường nghĩ thường tưởng. Đấy là chiến tranh ngày trước, chứ chiến tranh ngày nay thì sự khủng khiếp còn hơn nhiều. Với những khí giới tối tân, với những chiến xa đại bác xuất trận hàng trăm hàng ngàn chiếc, với những bom đạn trút xuống làm tan nát cả một thành phố... thì cảnh tàn phá tan hoang sẽ không thể tưởng tượng được. Nhưng tại sao lại cứ có chiến tranh? Và cuộc chiến tranh hiện nay tàn hại ghê khiếp là như thế, gây ra để làm gì với cái nước Đức phát xít đứng đầu là cái ông Hítle khét tiếng cuồng chiến, cũng như với các nước Anh, nước Pháp đế quốc nắm trong tay không biết bao nhiêu thuộc địa, già đời trên vũ đài chính trị kia?

Đây là mối chính của cái búi suy nghĩ của ông ký Thái. Cái mối chính này, ông ký Thái càng gỡ ra càng thấy rõ thì lại thấy nó càng quấn càng thắt lấy tâm trí ông.

- Chỉ để bọn họ làm giàu thêm thôi! Chỉ để bọn họ khai thác mạnh, kiếm lời nhiều, làm giàu thêm thôi!...

Ý nghĩ đó và những câu nói đó nhiều lúc như tiếng trẻ reo, như tiếng người thét, như tiếng đĩa hát quay rít lên trong tâm trí ông, và ông thấy như vang ra cả bên ngoài. Cùng với những câu nói này có hàng vạn hàng vạn thỏi vàng, đồng tiền vàng, và từng kiện từng kiện toàn giấy bạc hai mươi đồng, một trăm đồng tung lên, xổ ra. Phải! Vàng và giấy bạc của tiền lãi! Vàng và giấy bạc của tiền lãi hàng năm chồng chất mãi lên trong tay một số người. Vàng và giấy bạc của tiền lãi mà tự tay ông ký Thái đã ghi chép tính toán hàng hơn ba mươi năm nay trong những sổ sách nếu chất đống sẽ còn cao hơn cả đầu ông, vây bọc lấy ông từng hàng từng lớp dày hơn cả những bức tường buồng giấy ông.

Từ cuộc đại chiến lần thứ nhất 1914 - 1918, Đờvanhxy cha lúc chết để lại tất cả gia tài vốn liếng là bao nhiêu cho Đờvanhxy con mở mang, đến năm 1930 - 1931, rồi đến năm 1934 - 1935, rồi đến hết 1939, rồi đến ngày nay... ông đều nắm rõ. Những con số tiền lãi cứ ùn ùn cứ như dòi bọ nhung nhúc thêm mãi lên ở trong các sổ sách được ghi bằng những dòng chữ mực tím đặc, gạch đít thẳng tắp. Rồi đóng khung có những con dấu, những chữ ký của Đờvanhxy mà ông ký Thái sắp xếp, tính toán, ghi chép đến mức Đờvanhxy chỉ đưa mắt nhìn qua cũng đủ thấy cả một sự chính xác không còn thể đầu óc kế toán hay máy tính nào tìm ra được một chút gì sai sót.

Thế ra có những điều mà con ông và một số người bấy lâu ông cho là họ ít học, hay họ không được học như ông, hay họ học những cái quá cao xa, lạ lùng khác hẳn với những cái học thông thường thiết dụng trong xã hội này,... những điều rất đúng, rất thực, rất quan trọng mà họ đã nhìn thấy, đã hiểu biết từ lâu rồi trong khi ông vẫn ù lì không nhìn thấy không hiểu biết gì cả?! Cũng như có những việc mà ông cho là nguy hiểm, là viển vông, là không thể đem lại gì ích lợi, thì lại chính là những việc mà nhiều người không sợ gì cả, thấy rất là thiết thực, là mục đích cho họ hoạt động, và họ tin tưởng rất chắc chắn ở những kết quả tươi tốt rực rỡ sẽ đến với mình. Những điều ấy, những sự việc ấy là những đống tiền lãi của Đờvanhxy, của tất cả những nhà máy, những hầm mỏ, những đồn điền mà họ gọi là sức lao động hay mồ hôi nước mắt của họ bị bóc lột, còn bọn tư bản bọn chủ họ là bọn sống bằng bóc lột nghĩa là bằng sức lao động, bằng mồ hôi nước mắt của họ... Hay là những cảnh mà họ gọi là những cảnh bất công, những sự trái ngược giữa cuộc đời của họ và cuộc đời của bọn bóc lột, của cái giai cấp tư bản nọ... Hay là tính chất cuộc chiến tranh rắc rối, lạ lùng, tàn bạo với những chính phủ cũng rắc rối, lạ lùng, tàn bạo như Đức, Anh và Pháp nọ... Hay là những hoạt động những tin đồn, những chuyện về thợ thuyền đấu tranh, về cách mạng, về Đảng cộng sản, dội đến lúc thì rung chuyển lúc thì rì rầm ở chung quanh ông.

Tất cả những điều, những sự việc, những hoạt động, những tình thế trên đây mà ông không nhìn thấy, không hiểu biết, không nhận ra, và nhất là không bao giờ dám nghĩ rằng mình lại dính dáng đến hay cho rằng là chỉ thuộc về công việc nghiên cứu, cáng đáng, lo toan của những người bình thường mà cũng rất vĩ đại là những thợ thuyền, dân cày, những người trí thức có tâm huyết họ làm cộng sản làm cách mạng... tất cả những cái đó đối với một người như ông dần dần suy nghĩ thấy rõ ra thì ông còn có thể tưởng tượng được, chứ lại cả con ông nữa cũng lôi cuốn vào đó thì ông sửng sốt quá chừng! Thật là ông không thể nghĩ, thể hiểu, không thể tưởng đến được!

Chao ôi! Ông ký Thái đã không thể tưởng ra được cái người đã làm ông bấy lâu phải suy nghĩ và gần đây làm ông bàng hoàng sửng sốt về những điều trên kia lại chính là thằng con được nâng niu chiều chuộng nhất nhà kia! Cái thằng con thứ rất lành, hay cả thẹn, học rất chăm, bao giờ cũng nhất lớp, năm nay mười chín tuổi, đã đỗ bằng thành chung và đương tự học để thi tú tài văn, triết, - cái thằng con rường cột hy vọng của ông ấy, mới đây vừa làm ông hết hồn vì bỗng dưng bị mật thám đưa xe cam nhông đến nhà bắt đi cùng với mấy người thợ ở bên Máy chỉ, dưới Lạc Viên, Sáu Kho, đem về sở giam tra tấn mãi mới thả ra... Ông hết hồn và càng thấy lo ngại, da diết. Chính những câu chuyện, những sự việc, những tin tức, những ý kiến và những nhận định của thằng con trai của ông nó đã gợi cho ông suy nghĩ, hiểu biết và ngạc nhiên vô cùng về cuộc chiến tranh hiện nay. Cũng chính với những ý kiến, sự nhận định và gợi ý của thằng con ông ký Thái đương soi chiếu lên trong tâm trí, và ông vừa nhìn Đờvanhxy vừa đặt ra thêm bao nhiêu câu hỏi mà Đờvanhxy không thể nào ngờ được, không thể nào tưởng được, không thể nào nghĩ được lại có những biến diễn như thế ở một con người như ông ký Thái đương ngồi trước mặt y.

*

Dưới cái trán ngắn, da nhăn mốc, cặp mắt nheo nheo của ông ký Thái vẫn chăm chú theo dõi từng cử chỉ, từng vẻ mặt của Đờvanhxy. Nếu như hơi men của thứ rượu mà Đờvanhxy và các bạn thân của y chuốc ở tận những hầm rượu quý nhất bên Pháp đem sang Đông Dương đang bốc lên trong đầu óc y thế nào, thì cũng hơi men ấy đang bốc lên trong đầu óc ông ký Thái lại có phần mạnh hơn cùng với không biết bao nhiêu ý nghĩ.

Quân Pháp thua quân Đức rồi! Kinh thành Ba Lê mở toang cửa đón quân Đức quốc xã vào! Chính phủ Pháp đầu hàng chính phủ Hítle và tất cả nước Pháp bị chiếm đóng xin nhận bất cứ điều khoản gì của quân Đức đưa ra! Toàn cầu đều rõ cái điều ấy, và ngay cả những xứ thuộc địa xa nhất như Đông Dương này, dưới thanh thiên bạch nhật điều đó đã phát đi các hang cùng ngõ hẻm, xó chợ cùng quê, đâu đâu cũng biết. Nhưng cứ trông, cứ thấy, cứ nghe các cách, các kiểu, các cảnh đi lại nói năng, ăn ở của mọi người Pháp ở đây, hay là rõ nhất, gần nhất, cứ trông, cứ thấy, cứ nghe sự đi lại nói năng ăn ở của ngài Đờvanhxy chủ ông ký Thái nhà ta kia, thì người ta lại phải ngờ ngợ. Ngờ ngợ như không có những cái sự quân Pháp đã thua quân Đức, kinh thành Ba Lê đã mở toang cửa đón quân Đức quốc xã vào, chính phủ Pháp đã đầu hàng chính phủ Hítle! Ngờ ngợ và phải hỏi nước Pháp làm sao mà lại bị chiếm đóng, làm sao mà lại nhận bất cứ điều khoản gì của quân Đức đưa ra, làm sao mà phải chịu hàng? Trước mặt những ngài Pháp ấy, thoạt tiên người ta phải nghĩ như thế. Người ta vừa ngờ vực ngay chính giác quan trí não của người ta, vừa ngờ vực và nghi ngại cả các sự việc ở chung quanh người ta, sau đó dần dần người ta e ngại, chờn chợn. Người ta thấy, hay đây là những điều xa xôi, rắc rối, bí ẩn, hay đây còn có những điều vượt xa cả trí tưởng tượng của người ta, rồi còn có cả những điều khác lạ sẽ xảy ra và người ta không lường được?! Vậy tốt nhất người ta nhất cử nhất động gì cũng phải hết sức dè dặt, giữ gìn và thận trọng ở trước mặt cũng như sau lưng người Pháp vậy.

Cái trán ngắn, da nhăn mốc của ông ký Thái nổi dần những giọt mồ hôi. Cặp mắt nheo nheo của ông loang loáng thêm những ngấn sáng. Khi Đờvanhxy nâng cốc sâm banh thứ hai lên chạm cốc ông để chúc mừng lại ông, thì ông ký Thái vừa nhìn vẻ mặt ngang nhiên của Đờvanhxy, vừa nghe cái giọng nhơn nhơn tự đắc của Đờvanhxy, mà kêu lên trong tâm trí bằng lời hẳn hoi:

- Trời ơi! Hay thật là không có những sự quân Pháp đã thua quân Đức, kinh thành Ba Lê đã mở toang cửa đón quân Đức quốc xã vào, chính phủ Pháp đã đầu hàng chính phủ Hítle, mà nước Pháp vẫn là nước Pháp tự do, nước Pháp vẫn là đế quốc Pháp hùng cường, trong tay người Pháp sang trọng hào hoa, phong nhã?!

Cổ họng ông ký Thái nấc lên, ông lắc lắc đầu.

- Chao ôi! Nước Đại Pháp hùng cường, tướng tá quân thần Pháp thông minh tài giỏi. Nào hổ tướng Vâygăng, người mà thống chế Phốc mười năm trước đấy đã giối giăng: "Nếu nước Pháp lâm nguy thì đi tìm Vâygăng". Vậy mà ngài Vâygăng, tổng chỉ huy quân đội Pháp, trong khi quân Đức còn đánh ở đâu đâu, đã tính đến ký một hiệp ước đình chiến! Còn tổng trưởng nội các là Râynô thì tuyên bố vừa quyết liệt vừa lâm ly rằng: "Chúng tôi sẽ chiến đấu ở trước Pari, chúng tôi sẽ chiến đấu ở sau Pari, cần đến chúng tôi sẽ dời Chính phủ sang châu Phi để tiếp tục cuộc chiến đấu". Quả nhiên giữa lúc quân Đức đương tiến công dồn dập thì ngài tổng trưởng Râynô đáp máy bay sang châu Phi thật. Nhưng ngài ra đi không dời theo chính phủ gì cả mà là đem theo hàng mấy hòm vàng, còn kẻ đón tiếp ngài không phải là các tổng trưởng, đổng lý văn phòng, hay tướng tá nào cả, mà là lính nhà đoan khám xét và tịch thu khăn gói hành lý của ngài! Ô hô quân Pháp thua trận, tướng Pháp bỏ thành, chính phủ Pháp chịu mất nước như thế này, thì cái năm 1882 quân ta bị quân Pháp đánh, thành Hà Nội của ta bị quân Pháp bắn phá, cụ Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu của ta phải tự vẫn theo thành, rồi nước ta phải nhận cái hiệp ước 1884 với tất cả những điều khoản trói buộc bất bình đẳng của nó thì ai oán nhân tâm thật!

Nhìn ông ký Thái hập hập cố uống cho cạn cốc rượu, Đờvanhxy càng khoái trá. Cái miệng biu bĩu của y lại cười, y muốn nhún vai một cái mà nói thẳng vào mặt con người ở trước mặt y:

- Đúng! Có một thứ triết lý, một thứ cảm xúc và một nguồn vui sướng, hạnh phúc riêng cho những kẻ nô lệ! Trần Văn Thái! Ngươi vẫn không hơn không kém là một viên chức người bản xứ của ta!

Trước cái nhìn và cái cười ấy của Đờvanhxy chợt ông ký Thái thấy tâm trí rờn rợn. Ông run run đặt cốc xuống bàn tự nhủ:

- Đúng là sự thật và là sự thật trăm phần trăm, tất cả những việc đã xảy ra ở nước Pháp, ở trên thế giới trong vòng một tháng nay. Nhưng mà trong cái sự thật ấy vẫn còn có những rắc rối, bí ẩn vượt cả trí tưởng của lắm người. Và lắm người không thể nào lường trước những hậu quả diễn biến của nó. Như vậy thì với thằng con trai yêu quý, kỳ vọng của ta, ta phải hết sức tính toán cho nó, hết sức bảo vệ nó. Dù nó có hiểu biết hơn ta, chí khí hơn ta, hành động cao cả hơn ta, thì nó vẫn là con ta. Trong tình thế này dù thế nào cũng vẫn là trong tình thế cần có sự thận trọng suy nghĩ, tính toán của ta vậy.

Ông ký Thái phải uống thêm cốc sâm banh thứ ba của Đờvanhxy. Xong cốc rượu này ông còn được Đờvanhxy mời ăn lê, táo, nho và hút thứ thuốc lá thơm đặc biệt của y.

Ở sở Đờvanhxy ra, ông ký Thái lại làm nhiều người quen biết ngạc nhiên. Ông không trở về bằng cái lối hàng ngày, mà đi ngược lên con đường Bônbe to nhất, sang trọng nhất của thành phố. Sắc mặt ông phừng phừng. Cái mũ mốt săng đội hơi hất lên, quần áo ông không còn giữ những nếp phẳng tắp. Bước chân ông đi hơi chếnh choáng lập cập. Đôi phút ông ký Thái đứng hẳn lại, lấy mùi soa thấm thấm mồ hôi trán và nhìn chung quanh như để lấy lại sự bình tĩnh, ý chí, thận trọng đã vào nếp của ông.

Ông không về nhà ngay. Nơi ông đẩy cửa bước vào là ôten Thương Mại, cái nơi ăn uống cũng to nhất chỉ dành riêng cho các người Tây tiền nhiều, sang trọng.

Ông ký Thái vào ôten này để gặp người quản lý, kiểm lại công việc bữa tiệc mừng lễ sinh nhật của Đờvanhxy. Bữa tiệc đặt sẽ có năm mươi quan khách tới dự. Cuộc ăn uống vui chơi đàn nhạc sẽ bắt đầu từ mười chín giờ đến hai mươi bốn giờ. Nhưng nếu quan khách và chủ nhân còn hứng khoái thì cứ kéo đến một, hai giờ sáng. Nhưng tiệc lại không thết ở đây, mà tại nhà Đờvanhxy, theo một thực đơn đặc biệt do Đờvanhxy kê với một hầm rượu cũng đặc biệt của từ đời Đờvanhxy bố trữ sẵn đến Đờvanhxy con gần đây lại còn thêm nhiều thứ rượu quý khác của nước Pháp.

*

Nhưng rồi những nhà hàng phố ở quãng đường ông ký Thái hàng ngày đi lại ấy cũng chẳng ai để ý đến cái sự ăn mặc đi đứng khác thường ngoại lệ của ông nữa. Một sự khác thường còn đặc biệt hơn nhiều đã thu hút tất cả tâm trí và chuyện trò của họ. Nhà thờ chính hôm nay rước lễ Săngti. Lễ Săngti năm nay của nhà thờ chính Hải Phòng sẽ làm trọng thể hơn cả trên Hà Nội.

Từ bốn hôm nay người ta trồng cột cờ hai bên bờ đường trước nhà thờ và ở cả các quãng đường chung quanh. Cột cờ sơn lại mới tinh vằn tam tài là của Sở lục lộ; cột cờ sơn màu nửa vàng nửa trắng cờ Hội thánh là của Nhà chung. Mặc dầu bờ hè đường Lacôm và Bônbe đã lát gạch xi măng, người ta cũng cứ đào lỗ để chôn cột. Và mặc dầu ở tất cả những đầu đường nọ rất chật chội, Nhà chung vẫn cứ dựng các cổng chào. Mỗi một nhà thờ xứ, một họ Thánh và cả những họ lẻ ở mấy xóm nhà quê heo hút đồng chua nước mặn thuộc địa phận Hải Phòng, cũng bổ tiền cho từng đầu người để làm cổng và thi nhau làm những kiểu rất lạ, cũng với đủ cả long, ly, quy, phượng... Trai tráng và các người nghèo ở các xứ các họ này phải cơm nắm muối vừng, gồng gánh khuân vác các thứ, theo trùm trưởng lên Hải Phòng để làm cổng.

Ngay lúc còn tối đất, tầm nhất nhà Máy tơ, và nhà máy Xi măng chưa nổi, các người nọ đã phải dậy chăng kết các thứ vải lụa màu và dây đèn ngũ sắc ở các cổng các cột cờ. Tất cả những nhà đi đạo ở phố đều phải bày bàn thờ ra cửa để bái vọng, trong số đó có cả ôten Y Lan chuyên bán cơm rượu cho lính Tây. Bà chủ Y Lan là người ta nhưng còn béo hơn cả những bà đầm béo nhất của Hải Phòng, vì thế người ta bảo bà không đẻ được. Nhưng lúc nào trong nhà bà cũng ríu rít những tiếng "mẹ mẹ con con" với hơn hai mươi vừa gái nhảy vừa me Tây của bà nuôi làm con nuôi để chuyên gả cho từ lính Marốckeeng, Sênêgale đến lê dương Đức, pháo thủ Ý, lính thủy Hà Lan mà tiền cheo cưới là tiền puốc xăng tùy theo món tiền đầu tiên của người chồng đưa cho sắm sửa giường bàn chăn màn quần áo, thuê nhà và trả nợ. Bà Y Lan còn là đạo gốc, ở mãi quê Đức cha Khâm sai đại thần Trần Lục còn gọi là cụ Sáu, xiêu bạt ra Hải Phòng. Bà cũng làm con nuôi một bà chủ cà phê ba rồi cũng lấy lính Tây, rồi mở ôten.

Bàn thờ của bà Y Lan rất đặc biệt. Suốt sáu gian nhà mở cửa thông làm sáu phòng ăn uống và nhảy đầm vẫn y nguyên bàn ghế và lúc nào cũng inh ỏi tiếng khách ăn uống hát xướng với tiếng đĩa máy hát xập xình. Nhưng ở gian giữa thì lại đóng rạp, chồng chất đá thành như một quả núi, có vòi nước tia chảy róc rách làm suối, bày tượng Đức bà. Cẩm như thánh địa nơi xuất hiện Đức bà thành Lộ Đức thiêng liêng nhất bên nước Phú Lãng Sa mà tất cả những ai là kẻ sùng đạo đều phải đến đấy cầu nguyện trong những cuộc đi hành hương. Hay tất cả những ai bị tai nạn, bị những bệnh tật, những khổ não nặng nề nhất thì cũng tìm đến đấy mà cầu xin, rồi phải lấy cho được nước ở cái dòng suối dưới chân tượng làm dấu thánh rồi đem về uống chữa bệnh.

Từ chiều hôm trước, sân đá nhà thờ đã la liệt những người đi đạo ở các vùng quê quanh Hải Phòng đổ về. Họ nằm ngủ đất, cả ở bãi cỏ lối đi vào nhà khách. Còn nhà khách của Nhà chung thì cứ nườm nượp hết đám khách này đến đám khách khác. Toàn những nhà quyền quý giàu có ở Hải Dương, Kiến An, Quảng Yên, Thái Bình, Móng Cái mang đồ lễ về thăm các cha đỡ đầu. Nhiều kẻ phải nói năng với người bõ gác nhà khách, chầu chực gần hết buổi rồi mới được vào hầu cha xứ dăm ba phút.

Cả những trai gái không đi đạo ở các tỉnh cũng rủ nhau về xem. Bởi vậy đến ba giờ chiều mới rước lễ, các nhà hàng phố vẫn còn tối tăm mặt mũi vì bày biện chưa xong bàn thờ bái vọng, thì tám chín giờ ở các ngả đường đổ đến nhà thờ cũng đã đông nghịt. Phóng viên, người chụp ảnh của các tòa báo trên Hà Nội và những người mở hiệu ảnh ở Hải Phòng, đều lăng xăng cứ như đèn cù ở các đám có những cô gái được gọi là hoa khôi, là ngôi sao, nhất lại là những hoa khôi, những ngôi sao xa lạ mới đến.

Đúng hai giờ ở các quãng đường phố Bônbe, phố Lacôm và ở trước nhà thờ chính bỗng quang và lặng hẳn đi. Đội xếp Tây, đội xếp ta, quần áo trắng bốp, giày và bao súng đánh xi bóng nhẫy, mề đay các giống đầy ngực, đứng dàn ra từng chặng không cho người và xe cộ đi lại, trừ các Tây đầm và các xe ô tô mà họ đã thuộc lòng cả số xe, cả tiếng còi, cả ánh đèn pha, cả mũi xe, đít xe. Bọn phóng viên nhà báo, bọn chụp ảnh càng lăng xăng rối rít ở dưới đường với những hòm máy ảnh mở sẵn nắp kính cố ý đeo trễ trước ngực. Cánh nhà báo Thời sự Hải Phòng của Đờvanhxy cứ diễu đi lượn lại ở mấy quãng đường lớn, có tay đeo hai máy ảnh nhưng chẳng thấy chụp chiếc gì cả. Anh chàng để tóc sã như cánh gà rù đeo kính trắng gọng vàng, thắt nơ đen. Anh có hẳn một huy hiệu của ban tổ chức hình thập tự kết bằng nhung đỏ, đính ở ve áo, là đặc phái viên và là cây bút tin cậy của Đờvanhxy, lại càng ra điều ra vẻ tợn. Mặt anh cứ lạnh như tiền, cặp mắt cố làm ra bộ sắc sảo, sâu sa và bao quát đưa nhìn mọi người. Anh đương suy tính cân nhắc đảo lộn các chữ để đặt cho mấy đầu bài và các kiểu chữ "tít" riêng cho bài tường thuật đăng số báo sáng ngày mai phải sao cho thật lạ thật kêu mà không báo nào địch nổi, ngay cả những cánh phóng viên cừ khôi trên Hà Nội lao xuống.

Chợt cái bộ ba phóng viên và chụp ảnh báo Thời sự Hải Phòng nọ cuống cả lên, hớt hơ hớt hải tìm chỗ đứng, máy ảnh cứ giơ lên hạ xuống, quay trái, quay phải, lập cà lập cập. Một tiếng còi ô tô quen thuộc đã vẳng đến. Nhưng không phải là của ô tô thống sứ Bắc Kỳ hay đốc lý Hải Phòng. Cũng không phải ô tô của ông chủ báo tinh ma quyền thế của nhà họ. Đó là xe Lanhcôn của nhà Thy San. Nhưng trong cái xe choáng lộng nọ không phải là Thy San, chủ hãng độc quyền bán thực phẩm cho các tàu cặp hải cảng Sáu Kho, độc quyền xuất cảng đay, sơn, dầu trẩu, nhựa thông, độc quyền đại lý các đồ ô tô, xe đạp ở cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và có hàng trăm tòa nhà ở Hà Nội, Hải Phòng, Sa Pa, Sầm Sơn, Đà Lạt, bên Pháp. Thy San sống như một ông vua ở đất Hải Phòng rất lạnh lùng, kiêu hãnh; thường đi ô tô với ả vợ kế có cái tên, cái thân hình và nhan sắc làm bao kẻ phải ghen tức, nghẹn ngào là Giáng Hương kia!

Ở trong xe cũng không phải là Huệ Chi. Người con gái đầu lòng mà Thy San quý nhất, có cái gương mặt buồn buồn và lặng lẽ như của một pho tượng Hy Lạp bằng cẩm thạch, thường đến nhà thờ những ngày lễ trọng, những ngày thứ sáu tuần đầu tháng, và thường ôm trước ngực một bó hoa bao giờ cũng toàn hoa trắng.

Hôm nay lại là cố bà Đức Sinh ngự trong chiếc Lanhcôn.

Cố bà Đức Sinh dạo này lại càng như trẻ ra. Tuy cố đã ngoài bảy mươi tuổi, tóc là tóc bạc nhưng da lại không da mồi, mà là thứ da căng mỡ và từ sắc mặt đến vẻ người của cố vẫn làm nhiều người cứ phải nghĩ đến cái việc cố còn có thể lấy được một ông chồng trẻ và cố còn thừa sức chửa đẻ. Ngồi bên cố Đức Sinh là Bích Nga. Cô em gái Huệ Chi nay không mặc áo màu chói rực, quần xa tanh như mọi ngày. Bích Nga chỉ mặc hàng xát xi trắng, choàng một cái áo bằng voan cũng màu trắng, đội trên đầu một vòng hoa trắng, y như kiểu các đồng nhi mặc hôm chịu lễ lần đầu. Tuy vậy, tất cả vẻ sắc sảo, chanh chua và cực kỳ kênh kiệu của Bích Nga vẫn không dịu đi chút nào ở cái cặp mắt, cặp môi của một người con gái đến tuổi dậy thì và là con gái một nhà giàu sang nhất thành phố.

Thấy xe cố bà Đức Sinh với Bích Nga kiều nữ thứ hai của Thy San đi qua, tất cả bọn trai gái đường phố Hải Phòng, Hà Nội và mấy tỉnh gần cận đổ về đều choàng cả người lên:

- Lanhcôn nhà Thy San!

- Lanhcôn nhà Thy San!

- Chỉ có con Bích Nga diện Lanhcôn đi thôi!

- Con Bích Nga nhà Thy San dứt khoát lại là cái đinh của buổi lễ chiều nay.

- Cả con Huệ Chi chị, con chị nó nữa chứ?

Có những giọng cười khác:

- Ô tô hôm nay lại không đưa con hươu Thy San đến nhà thờ chính mày ạ (1).

- Thy San mà chỉ là con hươu không thôi à? Trên đầu Thy San là cả một hiệu cao ban long của con Giáng Hương độc quyền mở thêm cho nhà Đức Sinh, cho cả phố Hàng thuốc bắc trên Hà Nội nữa đấy!

- Nghe đâu cả bên Hồng Kông và Pari cũng đòi mua gạc mua sừng mát in (2)Đức Sinh!!

⚝ ✽ ⚝

[1] Có vợ ngoại tình gọi là mọc sừng hay bị cắm sừng, hươu loại có sừng.

[2] Nhãn hiệu.

- Không biết thằng cha nọ có biết và có cay không nhỉ?

- Sao lại không biết? Sao lại không cay? Chính con Giáng Hương nó cố ý làm cho thằng cha nọ biết và cay để mà bỏ nó...

- Giêsuma sao vậy?

- Sao thằng Thy San lại không bỏ con Giáng Hương nhỉ?

- Bỏ à? Bỏ để mà thế này à... Mấy triệu bạc và mấy dãy nhà ở Hà Nội, Hải Phòng, Sa Pa và Đà Lạt. A lê hấp... - Gã nói nọ liền xoạc ngón tay trỏ và ngón tay giữa, làm một cử chỉ chém bửa ra, vừa méo xệch một bên mồm mà nói -... đi "đoong" ngay một nửa!

- Lạy Chúa tôi! Xin Chúa tôi lòng lành vô cùng tha cái tội quả là kém thông minh cho tôi! Thì ra tấn bi hài kịch của hãng xuất cảng độc quyền cao ban long Thy San là như thế đấy... Amen!

Cái gã cúi đầu làm dấu thánh giá và amen rất cung kính nọ nói đoạn liền đánh tanh tách gót giày, khụng khiệng đung đưa đầu gối và bắp chân, vắt vẻo bơi bơi hai cánh tay y như kiểu những tay cao bồi đi chơi ở các hộp đêm trên màn ảnh Mỹ. Tuy làm trò hề như thế, vẻ mặt gã nửa vẫn lạnh như tiền, nửa õng ẹo nũng nịu như cô đồng cậu. Tiếng cười lăn lộn sặc sụa của bọn trai gái càng làm đám người bâu đến chung quanh đông hơn. Lũ trẻ con cứ nhảy lên thanh thách, víu cả lấy vai lấy cổ người lớn mà nhòm vào. Tới khi gã nọ đánh gót giày liên tiếp, quay tròn người, đầu gối và cánh tay nhịp múa loạn xạ, thì cả cái bờ hè trước cửa ôten Y Lan biến thành một sân khấu mà người đổ đến xem như một bãi bóng bị vỡ hàng rào.

⚝ ✽ ⚝

Chiêng đã khua và trống đã đánh. Cứ từng tiếng trống lại từng tiếng chiêng. Đội kèn bú dích cũng đã cử nhịp. Không khí rần rật một cái gì vừa ngạo nghễ uy nghi, vừa phả phê tưng bừng một cách lai căng đặc biệt.

Từng xứ to họ lớn sắp xếp thành thứ bậc nối tiếp nhau đi. Bộ cờ ngũ hành và hai bộ chiêng trống mà người khiêng vác đều là những lực điền những chân sào cao lớn, rạng rũa nhất kén chọn ở mấy xứ nhà quê ra, cũng đi đầu như ở các cuộc rước thần ngày hàng tổng vào đám, cùng với năm lá cờ hội thánh nửa trắng nửa vàng. Các quan viên chức sắc cũng áo thụng xanh, khăn xếp, khăn chít, có kẻ đội cả mũ. Trai tráng khiêng các cỗ kiệu, tượng ảnh Đức bà, Đức chúa Giêsu và những ông thánh bà thánh quan thày các họ các xứ cũng áo nâu đỏ nẹp vàng, thắt lưng nhiễu, đội nón chóp đồng.

Hàng các nhà chức sắc quyền quý và hàng các cha Tây, các cha ta được đi gần kiệu Mình thánh. Năm nay người cầm mặt nhật Mình thánh chúa không phải là Đức cha địa phận như mọi năm mà là Đức khâm mạng ở tòa thánh La Mã mới sang, mang thư của Đức thánh Phapha ban phép toàn ân xá cho cả và nước An Nam liền bảy năm bảy mùa được ăn mày ơn Chúa. Hàng chức sắc được đi liền với hàng các cha Tây, cha ta, phần đông không là chánh trương, trùm trưởng gì cả, mà toàn là những quan. Quan hường, quan nghị, quan tham, quan phủ, quan tuần và có cả quan một nhà binh người ta vào làng Tây, mề đay đầy ngực. Cái nhà quan hường và quan một nhà binh còn đeo băng tam tài Bắc đẩu bội tinh, được rất nhiều người trầm trồ bàn tán. Các vị này không phải mang cờ ảnh gì mà chỉ phải làm mỗi việc khoanh tay trước ngực, cố đi cho thật chậm với một vẻ mặt khép nép kính cẩn và ngẫm nghĩ.

Trước hàng những vị chức sắc là hàng những lão bà cũng vào hạng đặc biệt.

Cố bà Đức Sinh lại được đặc cử cầm cờ bà thánh quan thày Anna. Đó là tấm cờ của nhà Đức Sinh khấn tạ nhà thờ năm Thy San có con giai, tuy rằng vừa đẻ được đứa con ấy thì vợ Thy San chết. Hình bà thánh không phải thêu bằng kim tuyến mà là đúc bằng vàng đính

vào cờ.

Cố bà Đức Sinh đi giữa. Bốn lão bà đi hai bên nâng dải cờ cho vừa đủ võng. Tiếng là cầm cờ nhưng cố bà Đức Sinh chỉ phải đi mỗi độ đường chừng mươi bước lại nghỉ, theo hiệu lệnh của cụ chánh trương điều khiển cuộc rước lễ cho đúng các nghi thức cổ truyền. Mỗi lần nghỉ đoạn lại phải nâng bổng cờ lên, cố bà Đức Sinh lại bừng bừng cả tâm trí vì những ý nghĩ thương cho mình và bực giận vì chúng nó.

Cố thương cho mình như thương ông thánh Ximông đã phải vác đỡ thánh giá cho Đức chúa Giêsu trên đường lên núi Cavaliô chịu cực hình đóng đanh vậy. Tuy rằng cố có hẳn một bà con dâu thứ được đặc biệt đi theo liền bên cố, cầm cờ thay cho cố những lúc cố nghỉ. Hoặc khi cố đi thì có lúc nàng dâu đó cũng cầm với cố nhưng phải làm ra vẻ chỉ là ghé vào nâng đỡ lấy cán cờ thôi. Còn "chúng nó" làm cố bực giận là hai con mẹ lão bà cầm dải cờ đi sau cố.

Cứ như lão bà mẹ nhà hường lô hường liếc gì kia, đã gần tám mươi tuổi và là người cố cựu ở xứ Hải Phòng, góa chồng từ năm hai mươi ba, ở vậy nuôi cho con đi học đỗ làm được đến thông phán rồi được phủ toàn quyền thưởng cho hường lô, như thế cũng còn khả dĩ. Hay lão bà mẹ nhà chánh trương có con rể làm tuần phủ cũng vậy. Đây cái con chột mắt, người gày và đen như con mắm, mặt mày dữ tợn như quỷ Luxiphe, thì chỉ là vợ cái thằng sang Tây làm lính bổ củi và khiêng thùng rác. Thằng nọ cậy cục lên được chân nấu bếp cho quan năm rồi xin vào được làng Tây rồi đi mặt trận làm thông ngôn, rồi đi học, rồi leo lên làm quan một. Mụ ta hơn chồng những mười tuổi mà chồng thì mới năm tư năm nhăm. Mụ được vào lão bà, được xếp vào hàng cầm dải cờ Bà Thánh Quan thày cùng với cố bà Đức Sinh, như thế có phải là cứt cũng như rươi, tám chín mươi cũng là một tiền không?!...

Lại còn cái con mẹ thằng nghị viên nghị hòn gì kia nữa! Giời đất thiên địa! Cũng phú gia, cũng quyền quý! Thằng con nhà nó làm hàng sũ, chuyên bán quan tài cho các trại lính, nhà pha, nhà thương, chỉ nhờ cái dịp ghép một cỗ ván bằng gỗ trầm cho thống sứ Bắc Kỳ để nó đưa xác con nó về Tây, nó cho làm nghị viên, thế rồi phất!... Phất thầu cơm nhà pha, thầu cơm trại lính, thầu cu li đi Tân thế giới, đi cao su đất đỏ, rồi gần đây thầu phu làm bãi tàu bay, thùng phần với thằng chồng con mẹ chột mắt kia! Bốc vác như thế mà cũng là phú gia, cũng là quyền quý!

"Cái ngữ phú gia quyền quý ấy thì đi xách cặp, chạy giấy cho thằng Thy San nhà tao, hay bưng bô rửa đít cho con vợ nó cũng không đáng!"

Cố bà Đức Sinh cứ phải nghĩ ngợi và càng dằn dọc trong lòng. Mồ hôi đằm thêm cái lưng của cố nẵn thịt cứ ngứa rồm rộp. Người con dâu thứ như đoán biết được sự nhọc nhằn khổ sở của bà cố mẹ chồng, lại vội vàng quạt quạt với cái quạt phất bằng vóc, nan bằng ngà, nhài bằng vàng mà y chỉ dám phẩy phẩy như cánh bướm ở trước mặt cố bà những lúc y cầm đỡ cờ cho cố bà:

- Giêsuma lạy chúa con! Con cứ lại chia lòng chia trí mãi thế này! - Cố bà chợt xuýt lên một tiếng và lại làm dấu thánh giá.

Tiếng chiêng tiếng trống và cả tiếng kèn bu dích, tiếng trống cà rùng bỗng bặt đi. Kiệu Mình thánh sắp đến trạm bái vọng chính. Năm nay trạm làm ở xế cửa Nhà hát Tây trông ra Vườn hoa đưa người. Trạm kết toàn bằng lá dừa, lá vạn tuế, lá ngâu thành một cụm rừng bầy không biết bao nhiêu chậu hoa cây cảnh với một cây thánh giá bằng gỗ trắc đen bóng như sừng dựng lên giữa cụm rừng nọ. Còn tượng đức chúa Giêsu thì to gần bằng người thật, dang hai cánh tay chịu hình phạt đóng đinh, đầu quấn mũ gai rỏ máu cả xuống mặt, nương long cũng rỏ máu vì những vết đòng đâm sâu hoắm, hai bàn tay và hai bàn chân bị đóng đinh cũng rỏ máu. Kiệu Mình thánh sẽ dừng lại đây, và Đức Khâm mạng sẽ làm lễ chầu Mình thánh.

Mọi hàng người đi rước lễ đều lắng nét mặt lại. Tiếng thì thào, tiếng quạt, tiếng ho không thấy nữa. Nhiều người tuy đã đứng im, hết sức kính cẩn, vẫn lén lút cố đưa mắt nhìn liếc về phía sau.

Mùi trầm hương ở hai cái bình nắp bằng vàng đung đưa tỏa lên phía trước mặt Đức Khâm mạng càng ngào ngạt. Mỗi lần nâng bình lên cao, lắc như vậy, hai chú bé mặc quần áo ngày đại lễ trắng muốt và đỏ rói, lại quỳ xuống cúi đầu rồi mới dẹp ra bên. Cùng lúc ấy, một chú bé cầm chùm chuông nhẹ nhẹ rung theo, càng làm không khí thêm nghiêm trọng nặng nề, thần bí. Những cha Tây và cha ta đi hai bên Đức Khâm mạng ở bên ngoài tấm màn phương du lại xuýt lên những tiếng rất khẽ rồi lào thào ở cặp môi, mấp máy những câu kinh bằng tiếng La tinh để cầu khẩn, để lạy tạ những ơn phép mà mình đang được dự phần vào việc ban phát.

Cái vùng ánh sáng thần thánh thiêng liêng, cực cao cực trọng và đầy ơn đầy phúc tỏa ra từ Đức Khâm mạng và tấm mặt nhật Mình thánh Chúa lại càng chói lọi trùm lên người ta, đè trĩu lấy người ta. Nhiều người không dám nhìn thẳng vào đây mà chỉ cố liếc trông rất nhanh để cảm thấy bằng thứ thần kinh đặc biệt của cả thính giác và khứu giác. Nhất là được thoáng thấy mặt Đức Khâm mạng. Có kẻ bảo "người" đã ngót trăm tuổi. Có kẻ cam đoan rằng "người" đúng một trăm linh năm tuổi. Nhưng dù kém một trăm hay đúng một trăm hay hơn một trăm thì "người" vẫn khỏe mạnh và đẹp lão lạ lùng.

Nhưng cái vẻ Đức Khâm mạng có còn "đẻ" được không thì không quá rõ như ở cố bà Đức Sinh. Đây "người" đẹp cái đẹp lão của một cố ông và là cố ông Tây. Nghĩa là da dẻ "người" hồng hào nhưng không mỡ màng quá, và "người" vẫn quắc thước rắn rỏi một cách lạ. Không phải vì "người" đeo cặp kính gọng vàng sáng vằng vặc mà chính là đôi mắt "người" vốn sáng và oai nghiêm. Tuy "người" chỉ đăm đăm vào mặt nhật Mình thánh Chúa, nhưng từ đôi mắt hơi hum húp và quăm quắm với cái tên gọi nôm na là mắt voi của "người" ấy, những tia sáng vẫn chói rọi ra tưởng chừng là các tia vàng ở vầng mặt nhật nọ. Và, ở trong cái vùng tia mắt ấy của "người", tất cả những cái gì là chước mốc ma quỷ, tội lỗi xấu xa, đều không tài nào trốn tránh ẩn nấp được. Bởi vậy, tất cả những con người mà không một ai là không thấy mình đầy tội lỗi kia, đều khép nép run sợ trước đôi mắt nhìn thẳng cao xa thấu suốt của "người". Còn "người" đã thừa biết như th?